Mọi chuyện diễn ra theo cái cách mà chẳng ai ngờ đến. Sự thực nay được sáng tỏ, Hoàng thượng đau buồn ban xuống một đạo thánh chỉ hòng công khai mọi chuyện.
Nghĩa quân đóng ở ngoài thành thực ra là do chính Tư Nhã tướng quân cố tình sắp xếp như vậy, để trì hoãn việc vào cung phục mệnh. Hoàng thượng thậm chí còn gửi khẩu dụ muốn Hộ Quốc tướng quân mang theo ba quân nhanh chóng trở về, dĩ nhiên sẽ không có chuyện ngài bỏ rơi quân sĩ.
Nhưng tuyệt nhiên tướng quân kháng chỉ không tuân, nhất nhất không chịu vào thành.
Lại nghe nói ở thành Vãn Xương có kẻ giấu mặt tố giác tướng quân lén lút thu mua vũ khí vì lợi riêng. Hoàng thượng tức giận lập tức phái người đi điều tra. Quả không ngoài dự đoán, ở phủ tướng quân cư nhiên thu được mười xe vũ khí không rõ nguồn gốc.
Trong triều rộ lên tin tức mười hai quan đại thần vì cảm thấy có lỗi với Đại Nguyên, nên đã đứng ra nhận tội. Khai rằng họ bị Hộ Quốc tướng quân mua chuộc để chia bè kết phái, âm thầm làm việc bất chính cho tướng quân. Kẻ dưới phỗng tay kẻ trên, kẻ trên nhắm mắt làm ngơ, cố tình chỉnh sai sổ sách về sưu thuế, mục đích đánh nặng tô thuế lên đầu người dân.
Hoàng thành dưới chân thiên tử nên chưa có kẻ nào dám gây loạn, nhưng dân ở các vùng lân cận thì sớm than trời trách đất. Bỗng dưng lãnh một khoản thuế được gọi là “thuế bình an” do Hộ Quốc tướng quân làm chủ. Nói dân chúng sống trong thời an cư lạc nghiệp này cũng nhờ một tay tướng quân ban cho.
Vậy thì phải có chút gì đó để tỏ lòng biết ơn đến tướng quân. Lão bá tánh hết cách đành ngậm ngùi bỏ tiền ra để “mua lại bình an”.
Bị phát chuyện chuyện âm thầm thao binh với mục đích mưu phản, lén lút thu thuế người dân một cách vô lý. Ngày nọ, tướng quân rầm rộ đến nói lời bất kính với Hoàng thượng. Cửa lớn Long Tâm Điện bị một tay tướng quân đập đổ, làm loạn Hoàng cung đến máu chảy đầu rơi. Hoàng thượng sợ hãi cùng phẫn nộ, nhưng lại càng đau buồn nhiều hơn. Rằng không thể ngờ tướng quân xưa nay trung thành lại có thể mang mưu đồ bất chính như thế.
Vừa bên ngoài dân tình phẫn nộ, bên trong triều thần phản đối. Hết cách Hoàng thượng đành phải thay trời hành đạo. Hạ lệnh kết tội Hộ Quốc tướng quân với đầy đủ chứng cứ, khép vào tội danh mưu phản đại nghịch bất đạo.
Để tránh cho quân sĩ dưới trướng tướng quân làm loạn, nên Hoàng thượng xét xử âm thầm chứ không công khai ra ngoài. Chuyện này chỉ có người trong triều biết, tin tức hoàn toàn bị giấu kín cho đến khi Hoàng thượng xong việc thanh lý môn hộ, tận tay trừ khử kẻ phản nghịch.
Cho đến khi mọi chuyện vỡ lẽ, vụ định tội tướng quân được chiếu cáo toàn thiên hạ.. thì cũng đã xong hết rồi.
Một chén rượu độc ban xuống, chính thức khép lại một đời Hộ Quốc tướng quân phong quang vô hạn.
Dân chúng toàn thành đều cực kỳ sợ hãi, thực không dám tin người mà họ từng sùng bái lại có thể lang tâm cẩu phế đến như vậy. Lòng dân hoang mang cùng bất bình, nhiều ngày liên tiếp đến trước cửa Hoàng cung đòi biết rõ thực hư mọi chuyện. Vì làm sao có thể chấp nhận, chỉ trong một đêm mà Hộ Quốc tướng quân cao cao tại thượng liền trở thành kẻ mưu đồ phản nghịch.
Dân chúng xưa nay sùng bái tướng quân, nghe đến chuyện này thì dĩ nhiên là cực kỳ run sợ, còn cho rằng Hoàng thượng có gì đó nhầm lẫn. Từ trên xuống dưới là tiếng kêu ca, tiếng cầu khẩn, tiếng kêu khóc ai oán, nói Hoàng thượng đối xử bất công với tướng quân. Vì họ không dám tin vào chuyện hoang đường bực đó.
Tướng quân mưu phản? Không thể nào!
Hoàng thượng xử chết tướng quân? Càng không thể!
Nhưng cũng lại có ý kiến khác nói, xưa nay dân chúng bị tướng quân dắt mũi, những gì người từng làm thực ra cũng chỉ để che mắt thiên hạ, che giấu tâm địa xấu xa. May mắn có Hoàng thượng sớm phát hiện mọi chuyện, mới chính là cứu vớt chúng sinh khỏi tay kẻ lòng lang dạ sói.
Càng ngày càng xuất hiện nhiều kẻ kích động người dân rằng:
“Tướng quân thực ra đã nảy sinh mưu đồ phản nghịch với Đại Nguyên từ lâu rồi. Không những thế còn âm thầm cấu kết với Phạn Vương. Trước mắt để lão Phạn Vương giả vờ đầu hàng, còn tướng quân thì danh chính ngôn thuận leo lên chức vị Trấn Bắc Vương. Sau lưng lại lén lút thao binh chờ đợi cơ hội đánh úp Đại Nguyên. Cũng may Hoàng thượng phát hiện kịp thời nên đã tận tay diệt trừ mối nguy hại này.”
“Diệt cỏ phải diệt tận gốc! Mạng của tướng quân là không thể giữ lại.”
Vụ việc chính thức dấy lên một hồi tinh phong huyết vũ trong Hoàng thành, nơi nơi diễn ra hàng trăm cuộc tranh cãi. Nhiều người không đồng tình với quyết định của Hoàng thượng, cho rằng chuyện này còn có nhiều chỗ ẩn khuất. Hoàng thượng lại âm thầm xử kín tướng quân, thế này làm sao lòng dân tín phục?
Ít nhất cũng phải để chính miệng tướng quân đứng ra nói một câu xác nhận tội danh. Vì rất khó để chấp nhận một đời tướng quân huy hoàng chết trong im lặng như vậy.
Bất bình càng nhiều, thì loạn lạc lại càng lớn.
Hết cách, Hoàng thượng đành phải đứng ra ban xuống thánh chỉ, cấm không cho bất luận kẻ nào nhắc đến chuyện này nữa. Mệnh lệnh của thiên tử vẫn là tối thượng nhất, con người dẫu sao cũng vẫn quý trọng mạng sống của mình hơn là truy đuổi sự thực.
Hộ Quốc tướng quân đã chết rồi, tội phản nghịch vốn là tội tru di cửu tộc, nhưng xét đến chiến tích của tướng quân trong những năm qua, nên Hoàng thượng đặc biệt ân xá, cho phép tướng quân được ra đi một cách bình yên.
Rượu độc không quá đau đớn, chỉ là nó tiễn con người vào một giấc ngủ sâu thật là sâu và chẳng bao giờ có thể tỉnh lại nữa.
Những cung nhân và binh sĩ chứng kiến chuyện ngày hôm đó đều bị đuổi ra ngoài cung, tin tức hoàn toàn bị phong tỏa. Bọn họ chỉ còn biết ngốc ngốc tin vào thánh chỉ của Hoàng thượng, tin rằng Hộ Quốc tướng quân thật sự đã có lòng mưu phản, tội ác chồng chất đến không thể tha.
“Một bậc anh hùng tướng quân
Lưu danh hậu thế vạn phần hiên ngang
Đâu ngờ thế sự bàng hoàng
Nghịch tặc trà trộn trái ngang lẽ thường
Tư cách ở chốn quan trường
Khinh bạc phỉ nhổ triều đường Phạn gian
Ba quân rẻ rúng ngõ tàn
Phong trần cuồn cuộn van xin một lời
Thần nay trọn nghĩa bề tôi
Quân đâu mủi lòng bạc đời nữ nhân
Lòng trung khó cầu an nhàn
Thôi đành khép lại bức màn bi ai.”
Một đêm hoa hải đường nở rộ, sương rơi chập chờn như lưu luyến chút tình vương nơi trần thế. Chẳng thể đếm nổi đây là vào mùa nào, chỉ biết rằng gió thổi rất lạnh, cái lạnh đánh thẳng vào lòng người. Cuộc đời ngắn ngủi như một trang sách bạc màu, sao tàn tạ đến đáng thương, lật qua một trang là đã kết thúc rồi.
Nghe nói ngày đó, Hoàng thượng đứng trước mặt tướng quân, thái độ của ngài quyết liệt và tuyệt tình, chẳng nói đến một chữ ân tình mười năm.
“Tư Nhã tướng quân đã biết tội chưa?”
Hắc y nữ tử quỳ rạp xuống đất, không nói một lời nào, đến nhìn cũng chẳng buồn nhìn lên. Ngẫm cũng lạ, Hoàng thượng định tội người mưu phản, nhưng lại không bắt người mang y phục tội nhân, mà vẫn giữ nguyên giáp sắt cho người. Là muốn người khi chết đi cũng phải là tướng quân của Đại Nguyên sao?
Thấy Tư Nhã Tịnh nhếch môi cười lạnh, giọng nói châm chọc, “Cuối cùng vẫn là không thoát khỏi cái trách nhiệm mệt mỏi này.”
Phó Văn Đế hỏi y một câu: “Tướng quân còn gì muốn nói nữa không?”
Bỗng nhiên hắc y nữ tử ngửa cổ lên trời cười lớn, là một nụ cười sảng khoái đến tận tâm can, “Ha ha ha.. muốn nói gì.. có thể nói gì bây giờ? Nếu thần nói thì Hoàng thượng sẽ chủ trì công đạo cho Hoàng hậu nương nương sao? Nếu thần nói ra thì Hoàng thượng sẽ tha chết cho thần sao?”
“Xuất khẩu cuồng ngôn! Ngươi thực sự đã thay đổi rồi.” Phó Văn Đế chán ghét nhìn y, nhìn gương mặt quen thuộc nhưng lại cũng xa lạ. Giờ đây trông y chẳng còn cái gì bá khí ngút trời, cái gì tướng quân uy vũ. Thứ còn lại sau ánh hào quang là hàng loạt tội nghiệt chỉ đích danh kẻ phản quốc đại nghịch bất đạo.
Trong mắt Phó Văn Đế thì y đã như vậy, nên giờ có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không thể rửa được hết vết nhơ tội đồ. Trên người mang nỗi hàm oan khó giải bày, mà cũng lười biếng chẳng thèm nói. Tư Nhã Tịnh lúc này thực muốn cười nhạo ông trời bất công:
“Mười năm sống chết vì chữ trung, đổi lại là nỗi khuất nhục cao bằng trời.”
Phó Văn Đế hừ lạnh, “Trẫm không phủ nhận lòng trung của ngươi, nhưng mưu đồ phản nghịch là không thể chối cãi! Đừng tưởng rằng trẫm không biết ngươi làm gì sau lưng trẫm.”
Tư Nhã Tịnh nhướn mày đầy hứng thú, “Hoàng thượng đề phòng thần, người tự sinh ra cảm giác sợ hãi. Nếu không minh bạch, thì nghĩa là trong lòng có quỷ.”
Như bị nói trúng tim đen, Phó Văn Đế giận dữ muốn lập tức bóp chết y ngay tại chỗ. Nhưng lại nhìn đến gương mặt quen thuộc thấm đẫm vẻ đau khổ đó lại khiến hắn khó xuống tay. Cuối cùng là lạnh giọng hạ lệnh:
“Nếu như không còn gì để nói, thì chuẩn bị xuống Hoàng Tuyền đi. Kẻ phản tặc như ngươi đừng ở đây mãi.. chỉ làm bẩn mắt trẫm.”
Thấy hai vai Tư Nhã Tịnh run rẩy vì cố nén ý cười, bỗng nhiên y cứ như kẻ điên mà nằm lăn ra cười, giọng cười chế giễu mang vẻ man rợ vang vọng khắp Địa lao:
“Ha ha ha.. ta là phản tặc! Tư Nhã Tịnh thì ra là phản tặc.”
Rồi y nhìn thẳng vào mắt Hoàng đế, thời gian như quay lại mười năm trước, cái ngày mà y lần đầu tiên rời khỏi Hoàng thành:
“Tư Nhã từng nói, nếu như thần dùng mười năm để hoàn thành đại nghiệp, khi trở về có thể cầu xin một đặc ân?”
Phó Văn Đế hơi cau mày, mất kiên nhẫn phất tay, “Rốt cuộc ngươi muốn gì?”
Tư Nhã Tịnh cúi đầu, mi mỏng khẽ rũ xuống che đi ánh mắt tuyệt vọng, lúc này chẳng biết y đang nghĩ gì mà bất ngờ thốt ra một câu:
“Thần chỉ xin Hoàng thượng.. ban cho sự tự do!”
Phó Văn Đế hừ lạnh, ngài âm thầm ra hiệu cho một tiểu thái giám, rồi lạnh lùng xoay người rời đi. Trước khi đi hắn có để lại phía sau một câu:
“Ngươi sắp được tự do.. nhưng là ở kiếp sau.”
Hắc y nữ tử quỳ rạp dưới đất dõi theo bóng lưng hoàng bào, y cẩn thận chắp tay cúi đầu hành lễ lần cuối, “Thần.. cung tiễn Hoàng thượng.” Đợi cho đến khi nam nhân đi khuất bóng phía xa, y mới chậm rãi nhận lấy chén rượu đang được đưa đến.
Nhìn ly rượu lạnh lẽo trong tay, y chợt nhoẻn miệng cười:
“Quân muốn thần chết.. thần không thể không chết.”
Khó có từ ngữ nào diễn tả được nỗi thê lương trong lòng y, chén rượu quyết định sinh mạng kia trông cũng buồn thảm đến vậy. Y vốn chẳng lưu luyến gì thế gian đầy rẫy sự hỗn tạp này, mối trăn trở duy nhất trong lòng chắc chỉ còn..
“Tư Nhã tướng quân! Tư Nhã tướng quân!” Tiểu thái giám lên tiếng gọi, gấp gáp muốn hối thúc y:
“Đã quá giờ rồi.. ngài nên đi thôi.”
Siết chặt chén rượu trong tay, y đưa mắt nhìn vào mặt nước soi bóng chính mình trong đó. Lần cuối xem thử bản thân mình đã biến thành cái dạng gì rồi.
“Ta cuối cùng, cũng được là chính ta.”
Tiểu thái giám bên cạnh nhìn y cũng thấy đau lòng, tiến đến gần nói nhỏ, “Tướng quân.. để thần tiễn ngài một đoạn.”
Địa lao tối đen như mực không một bóng người, không gian tĩnh lặng đến đáng sợ. Tư Nhã Tịnh đưa ra bàn tay của mình còn không thấy được năm ngón, y chợt thở dài:
“Ở đây tối quá, đến chết cũng không được bước ra ánh sáng thế này sao?” Câu hỏi của y mãi đi vào ngõ cụt vì cũng chẳng có ai trả lời. Y lại ngồi lẩm bẩm một mình:
“Hoàng thượng đúng là vô tình, làm tận đến bước này.. thực phí nhiều tâm tư.” Y nâng lên ánh mắt nhìn tiểu thái giám, thở phào nhẹ nhõm một hơi, rồi nhoẻn miệng cười nhạt:
“Có thể xin ngươi một thỉnh cầu không?”
Tiểu thái giám nhìn quanh một vòng, thấy xung quanh không còn ai nên mới dám gật đầu, “Tướng quân cứ nói.. nếu nô tài làm được thì nhất định sẽ làm.”
Tư Nhã Tịnh vui vẻ gật đầu, ánh mắt sâu thẳm nhìn về phương xa, giọng nói nhạt nhòa như tan vào bóng đêm mịt mờ:
“Nhờ ngươi.. đặt lên mộ của ta một cành hoa hải đường.”
Mùa xuân năm đó hải đường nở rất đẹp, sắc hồng bao phủ cả một vùng đất trời, mùi hương thoang thoảng lưu luyến chút cái lạnh cuối đông. Lại không biết rằng cái lạnh này là cơn gió tiễn đưa kiếp người về cõi vĩnh hằng.
Một chén rượu độc chính thức khép lại một đời tướng quân huy hoàng, bức màn danh vọng rồi cũng đóng lại. Chẳng còn đâu những ngày tháng rong ruổi sa trường, hào khí dần lụi tàn theo hơi thở cuối cùng. Nhã Vân Cung sau này cũng không còn được thấy chủ nhân của nó, chắc sẽ là chuỗi ngày buồn thảm thê lương.
Hắc y nữ tử ngã xuống nền đất lạnh, rượu độc đổ tràn ra ngoài như muốn hung hăng chà đạp mạng người. Mắt y nhắm lại, mi mỏng vĩnh viễn che lấp chút ánh sáng nhỏ bé, khóe môi luôn treo một nụ cười nhẹ nhõm. Người ra đi trong bình an, cũng chẳng thấy chút đau khổ mệt mỏi nào.
Bậc quân tử chẳng rơi nước mắt vì bản thân sắp chết, nhưng lại rơi nước mắt vì nhớ nhung hồng nhan.
Thôi đành chịu, chữ “trung” nói nhiều cũng mệt mỏi. Cõi trần ai liệu còn mấy người nhớ đến một vị tướng quân uy danh hiển hách, bán mạng hơn mười năm để đổi lấy một chén rượu độc vô tình?
Quân muốn thần chết, thần không thể không chết..
Đời người ngắn ngủi như vậy, sinh mệnh sao bạc bẽo đến đau lòng, linh hồn bất khuất đó mãi hòa tan vào hư vô. Xác thịt không còn, nhưng ý chí thì mãi mãi trường tồn. Sẽ chẳng ai quên được Đại Nguyên từng có một vị nữ tướng quân chiến công hiển hách lưu danh muôn đời.
Hộ Quốc tướng quân trở thành phản tặc, đúng là làm trò cười cho thiên hạ. Có kẻ ngây ngốc tin vào chuyện này, cũng có kẻ nhất quyết muốn vạch ra bức màn sự thật.
Công bằng ở đâu?
Thế gian này làm gì có công bằng. Đừng nói chuyện công bằng khi thiên tử còn một tay che trời. Dân chúng chẳng ai dám nói gì, nhưng có một người thì khác.
Nghe nói, Hoàng hậu nương nương một mình đến chất vấn Hoàng thượng. Nhưng ngài một câu cũng không trả lời, chỉ lạnh lùng ném xuống một đạo thánh chỉ:
“Hoàng hậu vô năng tách trắc, không cẩn thận làm mất long thai, ảnh hưởng dòng máu Hoàng thất. Nay vì thế mà phát điên, hiển nhiên không còn xứng với vị trí mẫu nghi thiên hạ. Nhưng trẫm niệm tình Thượng Quan nhất tộc là bề tôi trung thành, nên đặc xá không phế hậu, tạm thời biếm hậu vào lãnh cung.”
Hoàng hậu nương nương đứng chết lặng trước cửa Long Tâm Điện ba ngày ba đêm. Rồi lặng lẽ trở về thiêu rụi hết vườn hoa hải đường ở Thanh Đàm Cung.
Mọi người không ai hiểu chuyện gì, khi liên tục có quá nhiều sự việc xảy ra. Mộ phần của Hộ Quốc tướng quân còn chưa lên cỏ, mà Hoàng hậu đã đi gây chuyện khắp nơi như vậy, đúng là loạn càng thêm loạn.
Ngày đó, Thanh Đàm Cung lửa cháy rợp trời, sắc hồng của hoa hải đường vĩnh viễn bị ngọn lửa thiêu cháy, mọi thứ trong một đêm bỗng hóa thành tro tàn. Ánh lửa bập bùng giữa đêm xuân lạnh giá, không hiểu sao lại mang đến chút ấm áp lạ thường. Khói đen bao phủ cả một bầu trời hoàng cung, như muốn khóc thay cho một linh hồn xấu số nào đó.
Hải đường không ra hoa, hơi thở cũng xa lạ. Người nếu ngủ gục dưới đất lạnh, thì hải đường cũng an giấc vào đêm xuân.
“Hai kiếp hồng trần đóng lại
Vụn vỡ linh hồn trải dài ưu thương
Hoa rơi đạm bạc chân phương
Một hơi cạn rượu khóc thương kiếp người
Khăn lụa mảnh vá tả tơi
Tro cốt nguội lạnh mảnh đời sa cơ
Thiên a! Ta thắp đèn mờ
Soi đường dẫn lối bên bờ Vong Xuyên.”
HOÀN CHÍNH VĂN
Hải đường xuân thụy – Hoa hải đường ngủ trong đêm xuân.