Đàn Hương Hình

Chương 21: Bi ca



Ngày mồng hai tháng Ba năm 1900 tức mồng hai tháng Hai năm Canh Tý,Quang Tự năm thứ hai mươi sáu, tương truyền chấp long ngóc đầu dậy vàongày này. Qua ngày mồng hai tháng Hai, xuân dương phát động, địa khí bắt đầu dâng lên, chỉ còn đợi ngày là đánh trâu ra đồng làm lễ hạ điền. Hôm ấy là phiên chợ trấn Mã Tang của làng Đông Bắc Cao Mật. Nông dân ru rútrong nhà cả mùa đông, cần hay không cần đều đi chợ, không tiền thì đibát phố ngắm thiên hạ, xem hát quịt; có tiền thì ăn bánh nướng, ngồiquán trà, uống rượu hâm. Hôm ấy nắng đẹp tuy vẫn còn đôi chút gió lạnh,nhưng rõ ràng đã là tiết xuân, rét ít ấm nhiều, những cô gái thích làmdáng, trút bỏ áo lông dày cộp, thay bằng áo chẽn gọn gàng, nổi bật đường cong của cơ thể.

Sáng sớm, Tôn Bính – chủ quán trà Tôn Ký, quảy đôi thùng gỗ leo lên mặt đê, lần xuống mép sông Mã Tang, bước lên cáibến ghép bằng gỗ, múc đầy hai thùng bước trong, chuẩn bị cho một ngàylàm hàng. Ông thấy băng vụn đầu hôm đã tan hết chỉ trong một đêm,dòngsông xanh biếc sóng lăn tăn, hơi nước mát lạnh từ từ dâng lên.

Năm ngoái mùa màng không thuận lắm, xuân hạn, thu lụt, nhưng không có mưađá, thu hoạch chỉ sáu bảy phần mười. Quan huyện Tiền thương dân, báo lên là bị lụt, miễn cho vùng Đông Bắc Cao Mật một nửa thuế, vậy là dân Đông Bắc Cao Mật dư dả hơn cả nửa năm được mùa. Dân làng cảm ơn quan lớnTiền, góp tiền làm một cái lọng, đề cử Tôn Bính đem biếu quan huyện. Tôn Bính ra sức thoái thác, nhưng dân làng giở võ cù lần, quẳng lọng vàogian giữa quán trà của ông.

Không còn cách nào khác, Tôn Bínhđành vác lọng lên huyện biếu quan tri huyện. Đây là lần đầu tiên ông lên huyện kể từ khi bị vặt râu. Đi trên phố huyện, ông không thể nói rõ làmình ngượng, mình hận hay mình buồn, chỉ thấy cằm nhâm nhẩm đau, hai tai nóng bừng, bàn tay đẫm mồ hôi. Gặp người quen, chưa kịp chào, ông đã đỏ mặt. Hình như trong lời lẽ của những người quen, ông đều cảm thấy có vẻ mỉa mai diễu cợt. Định phá bĩnh nhưng không tìm được lý do.

Vào huyện, nha dịch dẫn ông đến phòng khách. Ông để lọng xuống, quay ra thì nghe thấy tiếng cười ha hả của quan lớn Tiền. Hôm ấy, quan lớn Tiền mặc áo dài, bên ngoài mặc áo chẽn, đầu đội mũ nhỏ có dải lụa đỏ, tay cầmquạt giấy màu trắng, phong thái ung dung, trang nhã. Ông lớn Tiền rảobước, tiến đến bắt tay Tôn Bính, vồn vã:

– Tôn Bính, ta với ông đánh nhau rồi mới nhận anh em!

Nhìn bộ râu thanh thoát của quan lớn Tiền, trong lòng Tôn Bính cay đắng vôcùng khi nghĩ mình cũng từng có bộ râu đẹp như thế, mà nay cằm dưới lởmchởm như đầu con nhím. Ông định nói một câu ngỗ ngược, nhưng khi nói ramiệng lại là: Tiểu dân được dân vùng Đông Bắc ủy thác, đem lọng đến biếu ông lớn… Vừa nói ông vừa mở lọng ra – lọng đầy chữ ký của dân trongvùng, đưa đến trước mặt quan lớn Tiền. Tiền Đinh cảm động nói:

– Chà chà, bản chức vô tài vô đức, đâu dám hưởng vinh dự to lớn này? Không dám, quả thực không dám…

Sự khiêm tốn của Tiền Đinh khiến Tôn Bính cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm đôi chút. Ông đứng nghiêm, nói: Nếu quan lớn không còn điều gì sai bảo,tiểu dân xin cáo từ.

– Ông đại diện cho dân Đông Bắc lên biếu lọng, bản chức rất vinh hạnh, làm sao về ngay được? – Tiền Đinh gọi to – Xuân Sinh!…

Xuân Sinh dạ lên một tiếng, chạy đến:

– Ông lớn có điều gì sai bảo?

– Bảo nhà bếp bày tiệc đãi khách, long trọng vào! Nhân tiện bảo Phu tử viết ít thiếp, mời hơn chục vị hương thân bồi tiếp.

Bữa cơm trưa hôm đó cực kỳ thịnh soạn. Quan huyện đích thân mời rượu; cácvị hương thân luân phiên mời mọc, chuốc cho Tôn Bính say lử cò bợ, chânkhông bén đất, những cấn cá trong lòng tan biến. Khi nha dịch dìu ông ra cổng huyện lỵ, ông ngẫu hứng cất giọng ca một khúc Miêu Xoang:

Cô vương tọa Đào hoa cung, nghĩ tới mặt hoa nàng Mỹ Dung…

Năm vừa qua, nhân dân vùng Đông Bắc Cao Mật tương đối vui, nhưng chuyệnkhông vui cũng có. Không vui nhất là người Đức làm con đường sắt từThanh Đảo đến Tế Nam, vắt ngang vùng Đông Bắc. Thực ra, chuyện người Đức làm đường sắt thì cách đây mấy năm đã có tin đồn, nhưng mọi người không lấy làm được. Đến khi nền đường từ Thanh Đảo bò tới Cao Mật thì chuyệntrở nên nghiêm trọng. Bây giờ, đứng trên đê Mã Tang đã có thể nhìn thấynền đường như con rồng đất từ phía đông nam bò tới, trải dài trên cánhđồng bằng phẳng. Phía sau trấn Mã Tang, người Đức dựng những căn lều cho công nhân làm đường và kho vật liệu, cánh đường tương đối gần, trông xa như hai chiếc tàu thủy chạy song song.

Tôn Bính gánh đầy angnước, cất thùng và đón gánh, bảo chú giúp việc mới tuyển tên là ThạchĐầu nhóm lò. Ông lau chùi bàn ghế, cọ rửa ấm chén, mở cánh cửa mặt phố,rồi ngồi sau quầy hút thuốc, đợi khách.

Từ khi bị vặt râu, cuộc sống của Tôn Bính có sự thay đổi lớn.

Trưa hôm ấy, ông ở nhà con gái. Nằm trên giường, ông nhìn lên cái thòng lọng đã buộc sẵn trên xà nhà, đợi tin con gái hành thích quan huyện, thànhcông hay thất bại ông đều treo cổ tự tử. Vì ông biết, chuyến này con gái thành công hay không đều liên quan đến ông, chắc chắn ông lại vào nhàgiam. Ông đã từng bị giam, biết nó kinh khủng như thế nào, vì vậy thàchết còn hơn.

Tôn Bính nằm rên giường suốt buổi, lúc ngủ lúcthức, lúc nửa ngủ nửa thức. Khi nửa ngủ nửa thức, trong đầu ông lại táidiễn hình ảnh kẻ giết người như từ trên trời rơi xuống, dưới ánh trăngvằng vặc… Tên giết người cao to, chân tay thô mập, hành động nhanh nhẹn, như một con mèo đen khổng lồ. Khi đó, ông đang đi trong ngõ hẹp từ lầuMười Hương sang khách điếm họ Tào, mặt đường lát đá sáng lên như dướinước có trăng, lung linh cái bóng đổ dài của hắn. Rượu và gái của lầuMười Hương khiến ông ngất ngư, đến nỗi khi tên sát nhân “bụp” cái đứngngay trước mặt, ông cứ tưởng đó là ảo ảnh. Tiếng cười nhạt của hắn khiến ông sực tỉnh, theo bản năng, thò tay vào bọc lấy mấy đồng xu lẻ còn sót lại, ném xuống trước mặt. Tiền rơi lanh canh trên mặt đường, ông lènhè: “Anh bạn, tui là Tôn Bính, người Đông Bắc Cao Mật, kép hát kịchMiêu Xoang, tiền bạc thì trả nợ phong tình hết rồi, hôm nào anh bạn đếnĐông Bắc, người anh em sẽ diễn một vở tầm cỡ đãi anh bạn…”. Người áo đen không thèm nhìn mấy đồng xu dưới đất, mà từng bước áp sát ông. Ông cảmthấy khí lạnh toát ra từ con người này nên tỉnh hẳn rượu. Ông ý thứcđược, đây không phải là tên trộm vặt kiếm mấy đồng xu, mà là một kẻ đang lùng sục kẻ thù. Trong đầu ông như đèn kéo quân, cố nhớ xem ai là kẻthù của mình, đồng thời lui dần vào một góc tối. Người áo đen lồ lộ dưới ánh trăng, đường nét khuôn mặt lờ mờ sau tấm mạng đen. Chiếc bao râubuông lơi trước ngực đập vào mắt ông, một ý nghĩ lóe lên trong đầu, hình hài quan huyện lộ ra sau bộ đồ đen, như con tằm chui ra từ xác nhộng.Cảm giác sợ hãi lập tức tan biến, chỉ còn lại sự căm thù và khinh bỉ.Thì ra là ông lớn, ông nói, giọng khinh miệt. Người áo đen vẫn cườinhạt, đồng thời nâng bao râu rũ một cái, làm như khẳng định ông đã đoánđúng. Nói ra xem nào, ông lớn! Ông muốn gì ở tui? Nói xong, tôi nắm taylại, chuẩn bị quyết đấu với quan huyện cải trang kẻ đi đêm. Nhưng ôngchưa kịp ra tay, cằm dưới đã đau nhói, một nắm râu đã trong tay người áo đen. Tôn Bính gầm lên, nhằm người áo đen xông tới. Ông đã diễn trò đãnửa đời người, nhào lộn; đấm đá trên sân khấu, tuy không thực sự là võcông, nhưng thừa sức hạ một anh tú tài. Tôn Bính bừng bừng lửa giận,hăng máu lên, nhảy xổ vào người mặc đồ đen. nhưng tay ông chưa chạm tớingười áo đen thì đã ngã ngửa, gáy đập phải đá, ngất lịm. Khi ông tỉnhlại, người áo đen chặn chân trên ngực ông. Ông thở khó nhọc, nói: ônglớn đã tha cho tui rồi kia mà? Sao lại… Người áo đen cười khẩy, vẫnkhông nói câu nào, túm lấy chòm râu của ông giật mạnh, một nắm râu lạiđã trong tay hắn. Tôn Bính đau quá kêu thét lên. Người áo đen vứt túmrâu, cúi nhặt hòn cuội to bằng quả trứng, nhét gọn trong miệng Tôn Bính. Tiếp đó, bằng một động tác chính xác và mạnh, người ấy vặt sạch râu của ông. Khi Tôn Bính gượng dậy được, người áo đen đã mất hút, nếu cằm vàgáy không đau như cắt thịt, ông tưởng như mình đang ngủ mê. Ông dùng tay móc hòn đá ra, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Ông trông thấy nhữngsợi râu của mình lăn lóc trên mặt đất như cỏ nước khô.

Lúc trờisắp tối, con rể cười khơ khớ, quẳng cho ông cái bánh nướng, cười khơ khớ đi luôn. Đợi đến khi lên đèn, con gái mới về nhà. Dưới ánh sáng rực rỡcủa ngọn nến, con gái vui cười hỉ hả, chẳng có vẻ vừa đi giết người trởvề, cũng không có vẻ giết hụt trở về, mà in như vừa dự đám cưới. Ôngchưa kịp hỏi, con gái đã xịu mặt, nói:

– Cha nói bậy! Ông lớnbạch diện thư sinh, tay mềm như bông, làm sao có thể che mặt làm đạotặc? Theo tui thì cha bị mấy con đã đổ cho nước đái ngựa, lú lẫn rồi,mắt không phân biệt thực hư, đầu không phân nổi phải trái, mới nói bậybạ như thế. cha không nghĩ rằng, muốn vặt râu cha thì cần gì một ông tri huyện phải đích thân động thù? Lại nữa, nếu định vặt râu cha, thì khiđọ râu, sao không để cha tự vặt? Việc gì phải xóa tội cho cha? Lại nữa,câu nói bậy của cha, đủ để người ta công khai lấy mạng, cho dù khôngđịnh tội, cứ giam cho đến chết trong nhà giam, việc gì phải đọ râu chomệt? Cha ơi, cha cũng đã quẳng đi cái tuổi bốn nhăm năm mươi của charồi, vẫn không bao giờ nghiêm chỉnh, tối ngày ngủ lang đi bụi, bắt gàtrộm chó, tui cho rằng, chính là người nhà trời vặt râu cha! Đó là trờicảnh cáo cha. Nếu cha không sửa, lần sau sẽ vặt đầu cha.

Con gái nói như liên thanh, khiến Tôn Bính toát mồ hôi. Ông nghi ngại nhìn nétmặt nghiêm chỉnh của con, nghĩ thầm: Lạ thật! Mười câu có đến tám câukhông phải là khẩu khí của nó. Vỏn vẹn trong một ngày, nó đã trở thànhngười khác. Ông cười nhạt, hỏi:

– Mi Nương, thằng cha họ Tiền đã phù phép gì trên người con?

– Cha nói gì thế, cha còn là cha nữa không? – Mi Nương giận đỏ mặt – Ônglớn Tiền là bậc chính nhân quân tử, gặp tui ông không thèm nhìn – Nànglấy trong bọc một thỏi bạc lớn, quẳng lên giường – Ông lớn bảo rằng,“xướng ca vô loài”, người đứng đắn không ai làm nghề này. Ông lớn thưởng cho cha đĩnh bạc năm mươi lượng, cha giải tán cái gánh hát đi, mở mộtcửa hiệu nhỏ.

Ông tức lộn ruột, định ném trả đĩnh bạc để tỏ rõkhí phách của người dân Đông Bắc Cao Mật, nhưng khi tay chạm vào thỏibạc mát lạnh, ông lại không nỡ quẳng nó đi.

– Con gái, đĩnh bạc này không phải trong chì ngoài thiếc đấy chứ?

– Cha nói gì bậy bạ thế? – Mi Nương giận tím mặt – Chuyện giữa cha và mẹtui, đừng tưởng tui không biết. Cha sống phóng đãng đã quen, khiến mẹtui uất mà chết, tui suýt nữa cũng bị con lừa cắn chết! Tui suốt đời hận cha! Nhưng vì không thể đổi cha này lấy cha khác, dù oán hận đến mấythì cha vẫn là cha. Trên đời này nếu có một người thành tâm mong cha tốt lên, người đó chính là tui. Cha nên nghe lời khuyên của ông lớn Tiền,kiếm nghề đứng đắn mà làm, xem ai hợp ý mình thì cưới, sống yên lành lấy dăm năm.

Tôn Bính cầm đĩnh bạc trở về vùng Đông Bắc CaoMật, dọc đường, lúc giận cành hông, lúc ngượng chín mặt. Gặp người điđường, ông lấy tay áo che miệng, sợ người ta trông thấy cái cằm máuloang lổ. Khi về gần đến nhà, ông dừng lại bên sông Tang Mã, làn nướcphẳng như gương, ông nhìn thấy khuôn mặt xấu xí đầy nếp nhăn, tóc mai đã điểm sương, gần như một ông lão. Ông thở dài, nén đau, vốc nước rửa mặt rồi đi về nhà.

Tôn Bính giải tán gánh hát. Trong gánh có đàoHồng, mồ côi, với ông vốn đã già nhân ngãi non vợ chồng, nhân dịp này,nhờ người mai mối, chính thức cưới. Tuy tuổi tác có chênh lệch khá xa,nhưng vẫn đẹp đôi. Vợ chồng dùng số bạc ông lớn cho, mua một cơ ngơitrên phố, sửa sang đôi chút, mở một quán trà. Mùa xuân năm ngoái, ĐàoHồng đẻ sinh đôi, một trai một gái, đại hỉ. Tiền đại nhân sai người đemlễ vật đến mừng: Một đôi kiềng cổ, mỗi chiếc hai lượng. Chuyện này kinhđộng vùng Đông Bắc Cao Mật. Người đến mừng rất đông, bốn mươi mâm mớiđủ. Người ta đồn mảnh với nhau, rằng quan huyện là chàng rể một nửa củaTôn Bính, Tôn Mi Nương là quan bà một nửa. Lúc đầu nghe nói vậy, ông cảm thấy nhục nhã, dần dà cũng bỏ ngoài tai. Râu không còn, trước như conngựa bất kham trụi bờm trụi lông đuôi, uy phong đã mất mà trái tính cũng đỡ, khuôn mặt ngang tàng xưa kia, nay hiền hòa, bóng nhẫy. Tôn Bính bây giờ đang sống hạnh phúc và yên ổn. Mặt đỏ au, tính nết hiền hòa, đúnglà một hương thân.

Khoảng nửa buổi, khách đông. Tôn Bính cởi áodài bông, chỉ mặc một áo chẽn, khăn mặt vắt vai, tay xách bình trà cổcao, chạy tới chạy lui, bận rộn toát mồ hôi. Ông vốn hát giọng cao. Giờđây, vận dụng nghệ thuật sân khấu vào công việc làm ăn, giọng ông lênbổng xuống trầm, bước chân ông như nhảy như múa. Chân tay nhanh nhẹn,động tác chuẩn xác, nhất cử nhất động, tiết tấu phân minh. Bên tai ông,hình như có dàn đệm của đàn Miêu, tì bà và sáo trúc. Lâm Xung bỏ trốntrong đêm, Thất không trảm, Phong ba đình, Thường Mậu khóc mèo… Ông phatrà, thêm nước, chạy tới chạy lui, quên hết những việc khác, hạnh phúctrong lao động. Sân sau, ấm nước sôi rít lên lanh lảnh. Ông vội chạy vào lấy nước. Chú giúp việc Thạch Đầu tóc đầy bụi than, mặt nhem nhuốc, dovậy hàm răng càng trắng. Thấy chủ vào, chú càng ra sức kéo bễ. Trên bốnbếp lò là nước sôi bắn xèo xèo xuống bếp, khói trắng bốc lên, mùi thơmxộc vào mũi. Đào Hồng vợ ông, mỗi tay dắt một đứa lẫm chẫm tập đi, đòilên chợ chơi. Bọn trẻ vui cười, mặt tươi như hoa. Đào Hồng bảo:

– Con Bảo, con vân chào cha đi!

Hai đứa trẻ lúng búng chào cha. Ông đặt ấm xuống, lau tay bằng vạt áo, bếhai đứa trẻ lên, dùng cái cằm đầy sẹo thơm lên má chúng. Mặt chúng cómùi sữa. Bọn trẻ cười như nắc nẻ, ông cảm thấy mật ngọt đang tan trongngười. Ngọt đến cực điểm thì có vị chua. Bước chân ông càng thanh thoát, ứng đối khách cười sang sảng. Nét mặt tươi cười của ông, người khó tính đến mấy cũng phải thừa nhận rằng, ông đang hạnh phúc.

Tranh thủ một phút rỗi, Tôn Bính tựa quầy châm tẩu thuốc, rít một hơi thật dài.Từ khung cửa mở rộng, ông trông thấy vợ dắt hai con hòa vào dòng người,đi về phía chợ.

Một người tai to mặt lớn, vẻ phú quí ngồi trước bàn bên cạnh cửa sổ. Ông ta tên là Hiếu Cổ, tự Niệm Tổ, người tagọi ông là Hai Trương. Ông Hai Trương tuổi ngoài năm mươi, mặt hồng hào, khí sắc cực tốt. Chiếc mũ quả dưa bằng đoạn màu đen chụp trên cái đầutròn xoay, mặt trước mũ đính vào viên ngọc lục hình chữ nhật. Ông Hai là người học rộng ở vùng Đông Bắc Cao Mật, mua chức giám sinh, từng xuốngGiang Nam, từng lên biên giới phía bắc, tự khoe rằng, đã từng một đêmnhất dạ phong lưu với kỹ nữ nổi tiếng Bắc Kinh Trại Kim Hoa. Chuyệnthiên hạ, chỉ cần mào đầu, không có chuyện nào ông không biết phần đuôi. Ông là khách hàng quan của quán trà Tôn Ký, chỉ cần ông ngồi vào ghế là nói hết phần của những người khác. Ông Hai bê bát trà lên, mở nắp, dùng ba đầu ngón tay gạt bọt sang một bên, thổi phù một cái, nhấp một ngụmnhỏ, chép chép miệng, nói:

– Ông quán, sao trà hôm nay nhạt thế?

Tôn Bính vội gõ tẩu, lon ton chạy tới:

– Thưa ông Hai, đây là trà Long Tỉnh loại một mà ông vẫn thường dùng.

Ông Hai lại nhấp một ngụm nhỏ, chép chép, nói:

– Đúng là nhạt.

Tôn Bính vội nói:

– Không thì đốt quả hồ lô cho ông Hai.

– Hơi cháy một chút – Ông Hai nói.

Tôn Bính trở lại quầy, lấy xiên xuyên suốt quả bầu be rồi nướng trên ngọnđèn dầu, một mùi thơm kỳ lạ lập tức tỏa khắp căn phòng.

Sau khi uống nửa chung trà đậm pha trong quả bầu be, tinh thần ông Hai phấn chấn hẳn lên, hai mắt ông linh hoạt như hai con cá nhỏ, lướt trên khuôn mặt mọi người. Tôn Bính biết, ông Hai sắp cao đàm khoát luận. Cậu cảNgô người gầy guộc, răng xỉn vì trà đặc và khói thuốc, cất giọng khê đặc hỏi:

– Ông Hai, đường sắt có tin gì mới không?

Ông Hai đặt đánh cạch bát trà xuống bàn, dẩu môi trên, khịt mũi một cái, ra vẻ kẻ cả:

– Tất nhiên có tin mới. Ta có nói với các vị rằng, ông bạn Quảng ĐôngGiang Nhuận Hoa tiên sinh của ta là Tổng Chủ bút Vạn quốc công báo,trong nhà lắp đặt hai máy điện báo, nhận từ Đông dương Tây dương tất cảnhững tin tức mới nhất. Hôm qua, nhà ta vừa nhận được Phi Hồng truyềnthư – Từ Hi Thái Hậu tiếp đặc sứ Đức tại cung Vạn Thọ – Di Hòa Viên, bàn chuyện xây dựng đường sắt Giao – Tế.

Cậu cả Ngô vỗ tay:

– Ông Hai, ông đừng nói vội, để tiểu nhân đoán thử.

– Cậu đoán xem nào – Ông Hai nói – Cậu mà đoán đúng, ta bao hết tiền trà của các vị ở đây.

– Ông Hai hào phóng quá! – Cậu cả Ngô nói – Tiểu nhân đoán là, đôn kêucủa dân chúng đã phát huy tác dụng, đường sắt đổi tuyến rồi.

– Vạn hạnh, vạn hạnh – Một ông râu đốm bạc lẩm bẩm – Lão Phật gia sáng suốt! Lão Phật gia sáng suốt!

Ông Hai lắc đầu, thở dài:

– Các vị phải tự trả tiền trà thôi.

– Rút cuộc vẫn không đổi tuyến! – Cậu cả Ngô cáu kỉnh, nói – Vậy là công toi.

– Đơn thỉnh cầu của dân đã bị đại nhân nào đó dùng làm giấy lau tay rồi – Ông Hai vẻ oán trách – Lão Phật gia đã nói ra miệng, “Hoàng Hà có thểđổi dòng, đường sắt Giao – Tế thì không đổi tuyến”.

Mọi người chán nản, đây đó vang lên những tiếng thở dài. Tú tài Khúc có mảng lang ben trên mặt, nói:

– Vậy vua Đức cử đặc sứ sang, để tăng tiền đền bù chiếm đất phá mồ mả của ta chứ gì?

– Ông tú Khúc bàn sát nút rồi đó – Ông Hai rành rẽ – Đặc sứ của Đức hoàng gặp lão Phật gia đã dùng đại lễ – ba lần quì lạy, chín lần khấu đầu đểra mắt, sau đó dâng lên một quyển sổ da dê loại hảo hạng, vạn năm cũngkhông rách. Đặc sứ nói, Đức hoàng bảo, quyết không để nhân dân vùng Đông Bắc Cao Mật bị thiệt. Chiếm một mẫu đất, bồi thường một trăm lượng bạc; hủy một ngôi mộ, đền hai trăm lượng. Từng gánh bạc trắng đã được tàuthủy đưa đến từ lâu rồi.

Mọi ngẩn ra một thoáng, rồi lập tức ồn lên:

– Mẹ kiếp, chiếm của tui một mẫu hai mà chỉ bồi thường có tám lạng!

– Phá của nhà tui hai ngôi mộ tổ mà cũng chỉ đền có mười hai lượng!

– Thế bạc chạy đi đâu?

– Làm gì mà ầm lên thế? – Ông Hai vỗ bàn, không bằng lòng – Gào đến vỡtrời cũng chẳng ăn thua! Nói để các vị biết, số bạc đã bị bọn phiêndịch, bọn Hán gian mại bản cắt xén hết.

– Đúng, đúng – Cậu cảNgô nói – Có biết thằng Cầu bán quẩy ở trước đồn không? Thằng cha làmchân hầu bài trong tháng cho bọn phiên dịch. Mỗi tối nhặt nhạnh tiềngiấy rơi dưới đất cũng được nửa bao. Chỉ cần chơi với bọn đường sắt, bất kể rùa rùa ba ba đều giàu to! Nếu không, đã chẳng có câu “Xe lửa nổicòi, vàng thoi vạn lượng”.

– Ông Hai, những chuyện này lạo Phật gia có biết không?

– Cậu hỏi ta – Ông Hai trợn mặt – Vậy ta hỏi ai?

Mọi người cười đau khổ, rồi cúi xuống húp trà xoàn xoạt.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.