Dịch: Liêu Lạc Hà Hy
Biên: Duẩn Duẩn
Tấm áp phích của rạp xiếc bất chợt hiện lên trong đầu tôi: Một chàng thanh niên cầm chiếc mặt nạ che hết một phần tư khuôn mặt, phần mặt phải bị giòi ăn, lộ ra phần đầu lâu trắng toát đáng sợ.
Nhưng đó chẳng phải là một buổi biểu diễn xiếc ư? Tại sao lại biểu diễn trong nhà hát? Hơn nữa thời gian diễn còn là ngày mai.
Thông thường, trước khi một vở opera được biểu diễn chính thức sẽ phải diễn tập rất nhiều lần.
Một vở opera của một nhà viết kịch nào đó thậm chí đã diễn tập đến ba mươi bảy lần, sau đó chỉ biểu diễn đúng bốn lần.
Diễn tập không chỉ để rèn luyện sự phối hợp giữa diễn viên với diễn viên mà còn là sự ăn ý giữa những người nhạc công.
Tuy rằng nhà hát có nhiều nơi thích hợp để dàn nhạc giao hưởng biểu diễn, song muốn tổ chức một buổi nhạc kịch quy mô lớn thế này thì chỉ có một sân khấu duy nhất.
Ngày mai biểu diễn, chắc hẳn sẽ chuẩn bị kịp chứ?
Tôi nhìn lại bức thư mời dát vàng, bên trong còn có tờ giấy kraft.
Tôi mở nó ra, là sơ đồ chỗ ngồi được vẽ tay một cách chi tiết, chỗ ngồi của tôi là gian ghế VIP số 5, đây từng là chiếc ghế lô(*) độc quyền thuộc về Bóng ma.
(*) Ghế ngồi được thiết kế đặc biệt trong kịch trường, một gian có vài chỗ ngồi
Tim tôi bắt đầu đập loạn xạ, nhưng sau khi nhìn thấy tên của những người xung quanh, tôi bình tĩnh hơn nhiều, chỉ có điều không tránh khỏi cảm giác thất vọng, toàn là tên của những nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng.
“Biểu diễn” mà Phantom nhắc đến trong bức thư là nói đến buổi diễn này ư?
Ngón tay vô thức nắm chặt tờ giấy kraft, hơi thở dường như bị đứt quãng bởi nhịp tim đập nhanh trong lồng ngực.
Mặc dầu trong lòng tôi hiểu rõ hy vọng càng nhiều thì sẽ chỉ khiến bản thân thất vọng càng nhiều, nhưng tôi vẫn không khỏi băn khoăn, liệu rằng ngày mai chàng có bất ngờ xuất hiện trên sân khấu hay không……
Ngày mai tôi có thể nói với chàng vài lời không……
Tôi đoán chắc không chỉ một mình tôi nhận được lá thư này.
Quả nhiên, tối hôm đó, “Kẻ hai mặt” đã trở thành cụm từ phổ biến xuất hiện khắp nơi trong nhà hát.
Hai ông chủ mới không biết đã thu được lợi lộc gì mà ngồi cười híp mắt suốt cả buổi.
Ông chủ cao cụp hai hàng lông mi, ông chủ lùn thì phì phò trên môi điếu xì gà, nhìn chằm chằm tờ báo trên tay với vẻ mặt hưng phấn.
Tôi khẽ khàng nhón chân, xuyên qua lớp lớp đầu người nhìn tờ báo trên tay ông ta.
Trên tờ báo màu xám, một dòng tiêu đề màu đen đậm đặc biệt thu hút sự chú ý: “Sự sỉ nhục của giới âm nhạc: Ác quỷ cũng có thể viết nhạc kịch? {KẺ HAI MẶT} biểu diễn vào ngày mai!”
Bên dưới là dòng chữ nhỏ in nghiêng: “Cơn phẫn nộ của người hâm mộ: Liệu ngày mai Hearst có công khai nữ chính vở diễn {The Sheperdress} không?”
Bên cạnh bài báo còn có một bức tranh biếm họa: Trong khán phòng tối om, một bộ xương trắng đội chiếc mũ hình chóp, mặc lễ phục chỉnh tề, tay chống gậy và nghiêm trang quay mặt về phía sân khấu.
Xung quanh là những quý cô với vẻ mặt kinh sợ, một trong số đó sợ đến nỗi làm rơi chiếc quạt lông xuống sàn, vòng cổ cô ta bị đứt phựt và cô ta đang sợ hãi chạy ra khỏi lề bức tranh.
Có vẻ tác giả của vở kịch này thực sự là Bóng ma.
Tôi lại nhìn qua hai ông chủ mới, họ cười nói vui vẻ và thi thoảng lại búng vào chiếc đầu lâu trên tờ báo.
Ở kiếp trước, lúc Christine mất tích, hai ông chủ này đã nghĩ ra một cách, chính là: Tận dụng cơ hội ngàn năm có một để quảng bá tên tuổi nhà hát.
Lúc này đây, chắc hẳn bọn họ cũng đang hưng phấn không thôi vì cơ hội quảng bá miễn phí như thế này.
Nói không chừng, tin tức này cũng là do bọn họ tốn kém không ít tiền đăng lên.
Vừa nghĩ đến đây, sau lưng đột nhiên vang lên tiếng cười cợt.
Tôi quay đầu lại, là một gã thợ máy đang nói lớn: “Ta đã từng gặp qua tên ác quỷ đó! Hắn gầy trơ xương, cổ tay còn không lớn bằng sợi dây này, bị ta đánh cho răng môi lẫn lộn, chui xuống đất ba năm mới dám xuất hiện.
Hình thù quái dị như hắn cũng có thể viết nhạc kịch sao? Nói vậy thì ta đây cũng có thể biến thành ngài Hearst lừng danh ngay lập tức!” Gã vừa nói lớn, vừa len lỏi vào trong đám học viên nữ rồi cười khà một cách quái gở.
Tôi vốn chẳng phải một người hay tọc mạch, chả qua những lời gã nói đúng thật quá khó nghe.
Nghĩ ngợi hồi lâu, tôi bước đến chỗ gã, thản nhiên nói: “Nếu tôi nhớ không nhầm, anh tên Charles đúng chứ?”
Gã vuốt mái tóc nâu sậm màu cỏ tranh, chưa kịp nói gì đã bị tôi ngắt lời: “Nghe nói dạo này những lúc rảnh rỗi không có việc gì làm, anh thường chạy ra bến làm công việc bốc xếp, cũng kiếm được thêm chừng bốn mươi franc một ngày?”
Mặt gã tái xanh hẳn: “Không phải việc của cô.”
Tôi cười nhẹ: “Lương nhà hát không đủ để anh tiêu sài, hay anh đang mắc một món nợ lớn? Có thời gian đứng đây khoe khoang, chi bằng anh nên nghĩ cách lấp đi chỗ tiền còn đang thiếu kia mới đúng.” Nói đến đây, tôi thản nhiên kháy tiếp: “Tôi không biết ác quỷ gì đó có viết được nhạc kịch hay không, tôi chỉ biết một chiếc vé của vở “Người hai mặt” đã bán đến vài trăm franc trong một buổi chiều.” Tin tức này tôi nhìn thấy trong tờ báo mà ông chủ lùn kia xem ban nãy.
Mặt anh ta từ xanh chuyển sang đỏ, rồi từ đỏ chuyển thành trắng bệt: “Ai biết được anh ta có thực sự viết vở kịch này không? Tôi không tin anh ta thạo âm nhạc, những gì viết trên báo vốn chỉ để thổi phồng anh ta.”
“Ý anh là người ta ca ngợi ác quỷ gì đó quá mức, còn anh thì chỉ nói sự thật thôi ấy nhỉ?”
Khi tôi nói câu này, đường gân xanh trên trán gã hiện lên rõ ràng, hai bàn tay nắm chặt vì tức.
Mấy cô học viên nữ xung quanh đã chạy khỏi từ lúc nào, tôi cũng quay người bỏ đi một cách nhanh chóng.
Đối với một diễn viên đứng trên sân khấu, việc cãi cọ với một gã thợ máy thế này không phải chuyện tốt, ngặt nỗi tôi thực sự không thể chịu đựng được khi anh ta dám cả gan vu khống Bóng ma như thế.
Để trở về phòng, tôi phải đi qua một hành lang dài thắp nến.
Có lẽ vì ngày mai sẽ gặp được Bóng ma, nên lúc này tâm trạng tôi rất thoải mái, dọc đường còn vui vẻ sờ mó mấy bức phù điêu trên tường.
Ánh trăng xuyên qua lớp kính, đánh cắp mất bóng đêm tăm tối, chiếu xuống từng tấc đá cẩm thạch trên hành lang.
Ngay lúc tôi sắp đi đến cuối đường, một bàn tay đeo găng đen đột nhiên vươn ra và siết chặt lấy cổ tay tôi.
Tôi kinh ngạc quay đầu.
Trước khi có thể nhìn rõ tình cảnh trước mắt thì một mảnh sa tanh bằng lụa đen đã xuất hiện trước mắt.
Trong khoảnh khắc, tầm nhìn của tôi mờ đi, khó khăn lắm mới trông thấy một bóng dáng mảnh mai mơ hồ trước mặt.
Tôi muốn nói, nhưng một giây sau miệng tôi đã bị che lại.
Hơi thở ấm áp phả vào tai, một giọng nói lạnh hơn cả ánh trăng vang lên: “Xuỵt.”
Cơ thể tôi run rẩy, giọng nói này……
Bóng ma.
Phantom dùng một tay siết chặt hai cổ tay tôi và ấn vào tường hành lang.
Tay tôi bị ấn vào mấy hình chạm nổi trên bức phù điêu, bị đau, tôi ấp úng hô lên.
Phantom vẫn không nói năng gì, nghiêm nghị vỗ vỗ lên mặt tôi rồi lại “Xuỵt” một tiếng.
Tôi cố chịu đau, để mặc cho Bóng ma dò xét.
Bấy giờ, Bóng ma chợt buông lỏng tay ra, dùng hai ngón tay kẹp lấy quai hàm tôi.
Tôi còn tưởng chàng đã cho phép tôi nói chuyện, bèn mở miệng, dự định nói ra tất cả những nghi vấn trong lòng bấy lâu nay.
Nhưng ngay lúc đó, trên môi bỗng nhiên xuất hiện một cảm giác mềm mại, một nụ hôn lỗ mãng và thô bạo bất chợt rơi xuống môi tôi.
Trong phút chốc, quanh tai tôi chỉ còn tiếng vo vo, lấn át cả nhịp tim đang đập dồn dập trong lồng ngực.
Đầu tôi bị ấn xuống, cả người mềm nhũn, đôi chân dường như không đứng vững, thiếu chút nữa là xụi lơ trên đất.
Phantom không đưa tay ra đỡ mà dùng chân đẩy tôi đứng thẳng lên.
Lần này, cả người tôi chẳng còn chút sức lực, da đầu truyền đến trận tê dại.
Phantom nâng cằm tôi lên, dùng răng vội vã cắn môi tôi, giống hệt nụ hôn trong giấc mơ tháng trước, đau đớn như thể bị dã thú cắn xé.
Đầu óc tôi trống rỗng, mơ màng đáp lại nụ hôn cuồng nhiệt của Bóng ma.
Điều tôi không nghĩ đến là Bóng ma bỗng nhiên cứng đờ, chàng không cắn tôi nữa mà để môi chúng tôi chạm vào nhau chừng mười giây.
Tôi dần tỉnh táo hơn, tức thì một nụ hôn chân chính, kỹ càng và trọn vẹn bắt đầu khiến tôi như chìm đắm vào cơn mê ái tình.
Tim tôi đập mạnh như tiếng trống và linh hồn như nghẹt thở đến nơi.
Không biết đã qua bao lâu, đến khi tôi gần như không thở nổi, Bóng ma mới buông tôi ra.
Mất đi sự nâng đỡ, tôi ngã khuỵu xuống đất như lớp bùn chảy tuột và cố gắng điều hòa lại nhịp thở, một lúc lâu sau tôi mới lấy lại được lý trí rã rời và đứt đoạn, chầm chậm đưa tay lên, định bụng gỡ mảnh lụa trên mắt xuống.
Nhưng cũng cùng lúc ấy, Bóng ma đã biến mất..
Dịch: Liêu Lạc Hà Hy
Biên: Duẩn Duẩn
Cho đến tận một giờ đồng hồ sau, tôi vẫn mệt lả người, chỉ còn sức thở hổn hển, lê từng bước thật chậm về phòng. Đóng cửa phòng lại, tôi cởi áo choàng rồi lập tức ngã nhào lên giường, chẳng buồn nhúc nhích một ngón tay. Não tôi đau nhói như bị kim châm vì thiếu oxi quá lâu, mang tai nóng rực đến tê dại.
Tôi vùi mặt vào chăn bông, lắc đầu thật mạnh để mình tỉnh táo hơn. Ai ngờ được những điều trong giấc mơ lại là sự thật…… và ai biết được, chàng lại hôn tôi…… nhớ đến nụ hôn ngắn ngủi ban nãy, tim tôi bỗng dưng đập mạnh đến đau đớn.
Ngoài cửa sổ, tuyết đã rơi lất phất. Trên ô cửa kính sặc sỡ, những thiên thần đang mở to mắt mỉm cười, đôi cánh bám đầy những đóa hoa tuyết lấp lánh. Đứng trước cảnh sắc thế này, hẳn ai cũng sẽ cảm thấy có chút gì đó buồn bã. Từ tháng trước, đã không biết bao lần hy vọng rồi lại thất vọng não nề, tôi từng nghĩ kiếp này sẽ chẳng bao giờ mang trái tim mình ra để kỳ vọng hay đánh đổi một điều gì nữa. Thế nhưng ngờ đâu chỉ một nụ hôn của Bóng ma đã khiến tim tôi thổn thức và rồi lại thắp lên một tia hy vọng mong manh.
Có lẽ chàng cũng……thích tôi chút nhỉ. Quả thật, nếu chỉ thích một chút thì chẳng là bao, thậm chí chàng có thích tôi nhiều hơn “một chút” nữa thì tôi vẫn không thấy đủ bởi tình cảm này đã chôn giấu bao năm. Thế nhưng tôi nào dám mong cầu quá nhiều tình yêu nơi chàng, tôi sợ một ngày nào đó tình cảm chẳng được đáp lại, tôi trong mắt chàng sẽ trở nên xấu xa vô cùng. Thích một chút thôi cũng không sao, tình cảm ít ỏi đó của chàng cũng đủ để tôi tiếp tục thắp sáng ánh lửa hy vọng trong tim mình.
Tối đến, tôi không nhớ mình đã đi vào giấc ngủ bằng cách nào, chỉ nhớ rằng ngoài trời tuyết vẫn rơi không ngớt, không gian rất lạnh lẽo. Chẳng biết vì sao hôm nay chiếc chăn bông không thể trùm đến chân, tôi lười biếng mở mắt, mơ hồ nhìn về phía chân giường, cố gắng hất chiếc chăn phủ lên hai bàn chân.
Đột nhiên, cổ chân tôi bị một bàn tay giữ lại và nhét nó vào phía trong chăn bông.
Sau khi nhét vào, bàn tay ấy phủ lên mu bàn chân tôi, rồi lại như có như không sờ vào lòng bàn chân. Đầu ngón tay người đó nóng rực như lửa, làm tôi tỉnh táo hơn nhiều. Thế nhưng, căn phòng tối om không một bóng người. Tôi lại tiếp tục chìm vào giấc ngủ. Tức thì bàn tay đó lại xuất hiện, lần này bàn tay đó lại càng nóng hơn, cứ như muốn đốt cháy trái tim tôi thành tro.
Sau khi thức dậy, tôi cứ ngỡ đó chỉ là một giấc mơ ấm áp sau mấy ngày quá mệt mỏi vừa qua nên chẳng quan tâm lắm. Cho đến khi tôi quay đầu lại và nhìn thấy một hộp quà khổng lồ để trên đầu giường.
Nếu như trên hộp quà không có một tấm thiệp nhỏ đề hai chữ O.G thì có lẽ tôi đã ngất xỉu ngay tại chỗ. Tôi đấm vào lồng ngực, cố gắng hít thở thật sâu rồi mới bình tĩnh mở nó ra, bên trong là một hộp trang sức và một chiếc đầm dài trơn trắng. Bật nắp hộp lên, trên lớp lót nhung thiên nga màu ngọc sa-phia có đính một đôi bông tai ngọc trai và một chuỗi dây chuyền đá quý màu vàng, những viên đá quý trong suốt và sáng bóng, hệt như đôi mắt xinh đẹp tràn đầy linh khí của ma quỷ.
So với bộ trang sức quá mức xa xỉ thì chiếc váy dài lại hết sức trang nhã, không đính bất cứ phục sức trang trí nào, chỉ có cổ áo, tay áo và vạt áo được thêu hoa ren rỗng.
Ôm chiếc váy trong lòng, tôi đỏ mặt tía tai ngồi thừ ra như cô ngốc, rồi chợt nhìn thấy đôi giày da dê hôm trước bây giờ lại được ai đó đặt dưới chân giường. Trước đó, tôi đã mang nó đi dò hỏi khắp nơi, vì giá tiền của nó thật sự rất đắt nên chẳng ai dám nhận vơ là của mình, bởi vậy tôi chỉ đành cất kỹ vào tủ. Bây giờ nhìn tới nhìn lui chiếc váy trắng trong tay, tôi mới chợt nhận ra chiếc váy và đôi giày này quả thật cùng một bộ……chẳng lẽ, Bóng ma đã tặng chúng cho tôi?
Lúc đôi giày trắng xuất hiện, cũng là lúc tôi đã được “ai đó” đưa về phòng……vậy thì, người đã đưa tôi về phòng chính là Bóng ma?
Chàng làm thế nào mà đưa tôi về phòng được?
Nhà hát này có hơn bốn nghìn người, từ học viên, diễn viên múa, nhà soạn kịch, thợ máy, tổ đạo cụ……vậy mà chẳng có một ai nhìn thấy chàng?
Hôm đó, khi tôi từ phòng đi ra ngoài cứ cảm giác rằng mình đã thu hút không ít sự chú ý. Tôi còn tưởng họ đang nhìn vết máu bầm trên môi nên cứ cúi đầu đi thẳng một mạch. Bây giờ nghĩ lại, cho dù bọn họ luôn ngoái nhìn tôi, song cũng chẳng có ai ra vẻ hiếu kỳ hay đùa cợt, cũng chẳng người nào thì thầm to nhỏ về tôi. Thật kỳ lạ?
Từng câu hỏi cứ lần lượt xuất hiện trong đầu, mơ hồ như ánh sáng le lói của ngọn đèn cầy trong màn sương trắng dày đặc, tôi nhắm mắt lại, cứ như đã tìm thấy gì đó, lại như chẳng hiểu được gì sất.
Thắt nốt sợi dây buộc eo, tôi đã thay bộ váy cũ thành chiếc đầm dài trắng. Trong gương hiện ra một bóng dáng vừa quen thuộc lại vừa xa lạ. Vì là một diễn viên múa ba lê nên tôi phải luyện tập để dáng người của mình gầy nhưng vẫn cân đối, nếu so với người bình thường thì có vẻ gầy yếu đến mức chỉ còn nửa bộ xương.
Trong trí nhớ của mình, kiếp trước khi tôi ở độ tuổi này, dù ngoại hình không quá tệ nhưng lại thiếu chút thần thái độc đương. Bây giờ nhìn lại mình, tôi mới chợt nhận ra, tôi của kiếp này không biết từ lúc nào đã thay đổi rất nhiều so với tôi của kiếp trước.
Tôi làm tóc theo kiểu đánh rối một chút, đeo đôi khuyên tai ngọc trai và chiếc vòng cổ sapphire màu vàng. Lần đầu tiên tôi dùng mắt thẩm mỹ của bản thân phác họa lại vẻ đẹp của mình trong gương.
Mang theo một chiếc mũ rộng có lưới đen và lông vũ, tôi hòa mình trong dòng người đi vào rạp hát. Một vài người quét dọn đang lau bụi trên ghế, khi nhìn thấy tôi, họ chợt dừng công việc đang làm lại, mấy chiếc chổi lông gà đồng loạt rơi xuống đất: “Tiểu thư Giry……”
Trong lòng chẳng gợi chút mảy may vui mừng, chuyện này quả là kỳ lạ. Song điều làm tôi quan tâm hơn cả là Bóng ma có xuất hiện hay không. Vừa nghĩ đến việc chàng sẽ nhìn thấy những thay đổi của tôi trong kiếp này, tim tôi như đập nhanh gấp hai lần, hết thảy ánh nhìn của người khác trong giờ phút này đều trở nên vô nghĩa.
Người dẫn chỗ đưa tôi đến gian ghế số năm trên tầng hai. Đẩy cánh cửa căn phòng màu nâu đỏ ra, bên trong đã có hai người đến trước ngồi sẵn. Một người tóc vàng, một người tóc nâu, cả hai đều ăn mặc rất trang trọng lịch sự.
Chàng trai tóc vàng oằn mũ dạ lên ngực, thản nhiên nhìn tôi một cái rồi quay đi. Anh chàng tóc nâu thì có vẻ lịch lãm hơn, nhẹ nhàng hôn lên mu bàn tay tôi, cười nói: “Xin tiểu thư đừng để bụng, anh bạn này của tôi cứ hễ gặp bất cứ chuyện gì liên quan đến âm nhạc là lại tỏ vẻ lạnh nhạt như thế đấy, chứ chẳng ai ép uổng cậu ta đến đây nghe nhạc cả. Chúng tôi đến vì thích thú với giọng hát của ác quỷ, còn Tiểu thư đây thì sao?”
Anh ta còn chưa nói xong thì chàng trai tóc vàng đã lên tiếng: “Xin lỗi, tôi không đến đây để nghe hát, tôi đến để xem anh ta làm trò hề.”
Anh chàng tóc nâu nói: “Cậu nghiêm túc quá đấy, anh bạn ạ. Những người đến đây có mấy người thực sự muốn xem kịch cơ chứ? Tôi vừa mới nhìn thấy Tử tước Chagny ôm ấp hai vũ công trong một gian phòng khác kia kìa, xem thời gian chắc cũng ba tiếng đồng hồ rồi, chắc hẳn ngài ấy sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời lắm.”
Anh chàng tóc vàng hừ một tiếng: “Anh ta và tên ác quỷ này đều là nỗi nhục của âm nhạc.”
Chàng tóc nâu gõ gõ chiếc gậy xuống sàn với vẻ bất lực: “Anh bạn này của tôi cái gì cũng tốt, duy chỉ đối với âm nhạc lại quá mức cuồng nhiệt. Tôi nghe nói điệu bộ này của anh bạn trong giới âm nhạc gọi bằng một thuật ngữ rất quen – “Phong cách của Hearst” (Hearst Style).
Tôi không muốn nói chuyện với anh ta, nhưng anh ta cứ ở trước mặt tôi huyên thuyên nãy giờ, nếu tôi không đáp lại thì hẳn là rất không lịch sự. Tôi đành cố nặn một cụ cười gượng gạo: “Ngài biết thật nhiều thứ. Chẳng hay như thế nào gọi là “Phong cách của Hearst?”
Anh chàng tóc nâu đắc thắng nói: “Thưa quý cô, phàm là những người hiểu biết về opera đều biết đến Hearst. “Phong cách của Hearst” là thuật ngữ dùng để chỉ một bộ phận người hâm mộ Hearst, bắt chước cách ăn mặc, nói năng, hành động, thậm chí là phong cách trong sáng tác của Hearst. Anh bạn của tối vốn dĩ là một người rất nhiệt tình niềm nở, vậy mà từ sau khi trở thành người hâm mộ Hearst lại trở nên lạnh lùng cục mịch như thế đấy.”
Chàng trai tóc vàng nghe nói thế, lạnh lùng liếc anh ta, điệu bộ quả thực giống Hearst y như đúc: “Câm miệng.”
Tình huống thế này đúng là khiến tôi cười ra nước mắt, tôi lắc lắc đầu, quyết định ngồi ở phía ngoài. Lúc này, bên dưới bỗng nhiên xôn xao, tôi đưa mắt nhìn xuống, dàn nhạc đang di chuyển lên sân khấu. Tôi đọc được trên báo, nhà hát sẽ không hỗ trợ dàn nhạc hay bất cứ đạo cụ gì, vì vậy toàn bộ dàn nhạc này đều được Phantom thuê đến.
Mắt tôi đảo qua một lượt, có khoảng 18 nghệ sĩ chơi violon, số lượng này có vẻ nhiều hơn một dàn nhạc bình thường.
Vừa nghĩ đến đây, bên cạnh bỗng truyền đến giọng nói ngạc nhiên của anh chàng tóc vàng: “Quả nhiên học theo cách mở rộng dàn nhạc của Wagner(*)!” Tôi để ý khi anh ta nói câu này, mắt anh ta mở to, bộc lộ rõ ràng tính cách chân thật của mình. Tôi biết Wagner là một nhà soạn nhạc gây nhiều tranh cãi ở Đức. Anh chàng tóc nâu nghe xong cũng ngạc nhiên: “Anh ta đúng là giàu thật.”
(*) Wilhelm Richard Wagner sinh ngày 22 tháng 5 năm 1813 tại nước Đức, mất ngày 13 tháng 2 năm 1883, là kiêm nhạc trưởng, đạo diễn kịch và nhà lý luận âm nhạc người Đức.
Các nhạc công lần lượt ngồi vào vị trí của mình, xem lại bản nhạc và bắt đầu thử âm. Tấm màn đỏ phủ xuống, thỉnh thoảng vẫn nghe được tiếng bước chân lộn xộn, có vẻ như đang gấp gáp sắp xếp đạo cụ.
Thông thường đến giờ phút này, khán phòng đã trở nên im lặng. Bởi suy cho cùng thì đối với giới quý tộc ở đây, xem opera là việc làm tượng trưng cho địa vị thượng lưu, chính vì thế họ sẽ không làm những chuyện gây ảnh hưởng hay tước đoạt mất địa vị của mình.
Vậy mà lúc này đây, khi đèn đóm lần lượt tắt ngấm, tấm màn trên sân khấu đang dần được kéo lên thì dưới khán đài vẫn còn văng vẳng những tiếng xì xào bàn tán.
Chàng trai tóc vàng ngồi khoanh tay, cười giễu cợt: “Đợi xem trò cười đi thôi.”
Anh chàng tóc nâu cũng cười nói: “Chúng ta đến đây vốn để xem trò vui. Điều tiếc nuối nhất là tôi lại quên mang theo bàn cờ. Nếu không thì trong lúc xem trò hề chúng ta có thể đi vài nước cờ để nâng cao trí thông minh.”