Đã Mất Nay Lại Tìm Thấy

Chương 4: Lễ hội



“Cậu chủ đừng vừa ăn vừa ngậm thìa như vậy, không tốt đâu.”

Giọng phụ nữ lanh lảnh như tiếng chuông ngân buổi sớm, làm Herbert giật mình khỏi cơn mộng mị ban ngày mà lo ăn nốt bữa sáng của mình. Buổi sớm ở dinh thự vắng bóng gia chủ, Herbert chưa bao giờ được phép biết cha mình đi đâu khi mặt trời lên, mọi thứ tĩnh lặng như tờ, chỉ trừ tiếng lửa lách tách phát ra từ lò sưởi nhà bếp, nơi họ cũng dùng làm phòng ăn. Người phụ nữ đương ngồi đối diện Herbert có xuất thân quê mùa, ấy vậy điệu bộ ý nhị không kém gì những tiểu thư khuê phòng đài các, lại còn tháo vát vô cùng, vì vậy rất được lòng gia chủ từ tận khi vị bá tước tiền nhiệm vẫn còn sống. Thị tên là Frieda, vốn từng là nữ hầu tháp tùng nữ tước, và bây giờ – như cách thị thường tự nhủ với lòng mình là một vận may hiếm có trời ban – thị là người duy nhất được giữ lại để chăm sóc cho cậu chủ Herbert, cũng như phụ giúp ông chủ mình quán xuyến chuyện nhà. Frieda nhìn Herbert đỏ mặt cúi xuống ăn tiếp món cháo ngô[1] mà không khỏi phì cười, thật lòng mà nói, thị cũng không rõ việc vừa ăn vừa ngậm thìa quá lâu trong miệng có hại hay không, mà hại thì hại thì hại như thế nào, mà muốn không hại thì phải ăn ra làm sao, thị chỉ biết ngày xưa bà dạy thị như vậy, nên thị thuật lại chỉ vì một lòng muốn tốt cho cậu chủ nhỏ của mình.

“Là chuyện gì khiến cậu chủ đăm chiêu thế?”

Frieda vừa mỉm cười thân thiện vừa hỏi, tay vẫn thoăn thoắt móc len. Gia đình từ lâu chỉ còn một người hầu duy nhất làm bạn, Herbert vốn hiểu chuyện nên không sinh tính trịch thượng tự cao, chẳng những vậy mà còn rất lễ phép – dù lắm lúc cậu ta cũng thật sự chướng khí mỗi khi muốn vòi vĩnh thứ gì cho bằng được. Lúc này, Herbert ngồi chống cằm vẫn chưa chịu ăn hết bát cháo, cậu cắm thìa xuống mà ra vẻ nghĩ ngợi như một ông cụ non. “Con chỉ đang tò mò không biết mình sẽ được chơi gì ở lễ hội thôi ạ.” Cậu vô tư đáp, làm Frieda không kiềm được tiếng khúc khích của mình.

“Vậy cậu chủ thích chơi trò gì nhất?”

“Con không biết nữa.” Herbert ê a. “Cô biết đấy, đây là lần đầu cha cho phép con ra ngoài chơi mà. Ở lễ hội có những trò gì vậy?”

“Ồ, nhiều không kể xiết.” Frieda liến thoắng. “Sẽ có ca hát, nhảy múa, và đoàn xiếc kịch cũng sẽ ghé qua. Dĩ nhiên cũng sẽ có tiệc tùng. Và các lãnh chúa cũng sẽ rủ nhau thi đấu hoặc đi săn nữa.”

“Thi đấu sao?” Herbert tròn mắt, tay múc thêm một thìa cháo bỏ vào miệng. “Thi đấu gì vậy ạ? Có giống như chơi cờ không?”

“Tất nhiên! Sẽ có những cuộc đấu cờ vua, nhưng cũng sẽ có những trò khác, chẳng hạn như đấu thương trên lưng ngựa hoặc bắn cung.” Frieda trả lời. Trước mặt cậu chủ nhỏ vốn luôn thân thiết với mình, thị không giấu giếm gì mà kể thêm, “Đức Ngài ngày trước chơi những trò đấy giỏi lắm.”

“Thật ạ?” Herbert khoái chí cười rộng, “Thảo nào con thấy có một bộ giáp rất oai treo trong nhà! Chán thật, cha chẳng bao giờ chịu cho con động vào nó cả.”

“Ui dào, cậu chủ ơi, bộ giáp ấy nặng lắm. Lớn một chút nữa, rồi tôi chắc Đức Ngài sẽ chỉ dạy cho cậu.”

Herbert gật gù, nghĩ ngợi cũng thấy hợp lý, bộ giáp rõ ràng quá to, nếu hậu đậu để rơi xuống thì cậu cũng chẳng biết phải sửa lại thế nào. Nhưng ngẫm lại, nếu là môn đấu thương trên lưng ngựa, thì cũng phải biết cưỡi ngựa nữa chứ, thế là cậu lại trề môi hỏi:

“Nhưng mà tại sao ngay cả cưỡi ngựa, cha cũng không cho phép con?”

“Đức Ngài làm vậy là vì lo lắng cho cậu chủ đấy.” Frieda bình thản trả lời. Trông thấy cậu chủ nhỏ chỉ biết nhăn mũi rồi nghiêng đầu thắc mắc, thị liền phì cười, giải thích thêm, “Đức Ngài lo lắng cho sức khỏe của cậu chủ lắm. Cậu chủ biết không, ngày bé cậu chủ hay ốm, càng lớn lên lại càng cao bất thường, Đức Ngài sợ cậu mắc bệnh xương giống mình rồi ngã ngựa đau chân đấy.”

“Ra là vậy…” Herbert một lần nữa lại gật gù, lúc này mới chịu vét sạch bát. Uống một ngụm nước to, cậu nuốt ực, rồi lại trầm ngâm nói, “Con không biết là cha cũng có bệnh.”

“Cậu chủ cứ khéo lo.” Frieda mềm giọng, mắt rời khỏi việc đan móc của mình ít giây mà đưa cho Herbert một ánh nhìn cảm thông. “Ngày trước Đức Ngài đi đâu cũng phải chống gậy, nhưng bây giờ cậu chủ thấy đấy, ngài có cần gậy chống nữa đâu, ngài khỏe rồi.”

“Ừ nhỉ.” Herbert lập tức cười hì hì. “Vậy thì tốt quá rồi.”

“Hôm nay là ngày vui mà, đúng không? Nên cậu chủ đừng nghĩ ngợi quá, một lát nữa thôi, chúng ta đã có thể chơi hội rồi.” Frieda cười rộng, và Herbert cũng híp mắt theo. “Cậu chủ không biết tôi mong ngày cậu chủ được tự do ra ngoài chơi như thế nào đâu.” Thị vừa nói vừa véo nhẹ chóp mũi Herbert, khiến cậu khúc khích nhe răng, “Có lẽ Đức Ngài cuối cùng cũng đã thấy cậu chủ đã mạnh khỏe và cứng cáp rồi đấy! Cậu chủ nhìn này, nhân dịp này mà tôi đã đan xong một chiếc khăn choàng cổ tặng cho cậu chủ rồi!”

Nói đoạn, thị cầm chiếc khăn len màu tím phớt lên, mà choàng quanh cổ Herbert. Tiếng cười giòn của cậu bé con chẳng mấy chốc lại âm vang khắp dinh thự khi cậu và Frieda cười đùa với nhau, cậu ngồi ngoan ngoãn để thị tết tóc cho mình.

“Ngày trước cô có thường tết tóc cho mẹ con không?” Herbert bất chợt hiếu kỳ hỏi. Trái với Johannes, Frieda vẫn giữ được giọng nói vui vẻ khi đáp lời, dù cho gương mặt thị thật sự cũng có chút biến sắc:

“Có chứ, nhiều lần là đằng khác kia. Mà cậu chủ biết không, cậu chủ có mái tóc giống tóc mẹ mình lắm.”

“Thật ạ?” Herbert khúc khích, lúc lắc cái đầu khi cậu thấy bím tóc phía sau đã được tết xong.

“Tóc đẹp, lại còn mềm mượt nữa.” Frieda nói.

“Dì Lara ngày trước cũng hay khen tóc con như vậy.” Herbert nhớ lại. “Dì ấy cũng hay vuốt tóc con nữa.”

“Dì Lara?” Frieda thắc mắc, rồi tự mình nhớ ra. “À…Là nhũ mẫu cũ của con, đúng chứ?”

“Vâng ạ.” Herbert ngâm nga. “Cũng lâu rồi con chưa gặp lại dì. Bỗng dưng dì chuyển đi đâu mất, mà cũng không để lại lời nhắn nào.”

“Vậy sao? Tiếc quá nhỉ…” Frieda ậm ừ, rồi quyết định không nói gì thêm.

Khi mặt trời lên cao, tức là, ngay sau khi dàn chuông nhà thờ ở cách đó không xa gõ vang chín tiếng, lễ hội bắt đầu. Tiếng người cười nói đã xôn xao từ lâu, nhưng những tiếng hò reo chỉ rộ lên khi dàn nhạc công cuối cùng cũng xuất hiện. Herbert chạy ù khỏi nhà như một chú chim cuối cùng cũng được tung cánh bay, tròn mắt và rạng rỡ trước tất cả sự náo nhiệt cậu trông thấy. Lễ hội này là một thông lệ hằng năm của quận khu tấp nập nơi cậu sinh sống, một dịp để tất cả mọi người cùng đón nhận mùa đông với niềm hân hoan vô hạn bởi mùa màng trong năm đã bội thu, những ngày lễ Thánh và lễ Giáng Sinh cũng sắp đến gần; còn là một dịp họp chợ để những ai chưa chuẩn bị lương thực sẽ mua được thức ăn dự trữ qua đông, cũng như để những tiểu thương có dịp khoe những sạp hàng của cải thừa mứa của mình bằng một cách nhẩn nha cám dỗ.

Lúc này, Herbert đã thỏa con mắt mình với vẻ quyến rũ hào nhoáng của lễ hội, vui vẻ vừa lẽo đẽo theo sau Frieda vừa nhấm nháp món bánh quy bơ mà thị mua cho. Món bánh hôm nay có vẻ ngon hơn những mẻ bánh Frieda nướng ở nhà, mà trong suy nghĩ ngây ngô của Herbert, có lẽ do nó được mua bằng số tiền thưởng mà cậu kiếm được qua trò đánh bài. “Cậu chủ có năng khiếu lắm đấy”, Frieda đã cười sằng sặc như vậy, một vẻ sỗ sàng hiếm hoi mà thị vẫn luôn giấu sau vẻ ngoài hiền lành thường ngày, ấy nhưng vẫn ngầm giao kèo với Herbert rằng đấy là bí mật nhỏ của hai người, bởi nếu Johannes biết được người hầu rủ con mình vào những trò cờ bạc, có lẽ ông sẽ lấy đầu cả hai mất.

Họ cùng nhau dạo chơi thêm một vòng, Herbert có chút tiếc nuối khi Frieda không thể dẫn cậu tham gia săn thỏ – một điều hiển nhiên bởi địa vị thấp kém của thị; và họ cùng ngồi xuống ăn trưa ngoài trời như một buổi dã ngoại khi cả hai đều cảm thấy chân mình cần lắm một chỗ để nghỉ ngơi. Rồi, “cô Frieda”, Herbert vừa nhấm nháp khoanh xúc xích nướng vừa gọi, ngoái nhìn xung quanh một cách dè chừng.

“Sao vậy cậu chủ?” Frieda hỏi. Herbert trả lời:

“Sao những người đó lại nhìn con một cách kỳ lạ vậy?” Cậu chỉ ra, hướng mắt đến từng đám người lẻ tẻ phía xa dường như đang nhìn chòng chọc vào cậu, xì xầm nhỏ to. Việc này không khỏi khiến cậu bé con cảm thấy bất an, một cảm giác bồn chồn và áy náy có thể hiểu được khi cậu không chắc mình đã làm gì sai, nhưng Frieda chỉ phủi tay, nói:

“Có lẽ cậu chủ tưởng tượng ra thôi, mặc kệ họ đi.”

“Ồ…vâng ạ…” Herbert ậm ừ, miễn cưỡng gật đầu một cái. Frieda đánh trống lảng ngay:

“Sau khi nghỉ trưa cậu chủ có muốn đi trượt băng không?”

“Muốn chứ!” Herbert lập tức đáp lại, rồi chẳng mấy chốc quên đi nỗi lo ban nãy.

Mùa đông ngày ngắn đêm dài, khi Frieda thuê được cho Herbert một đôi giày trượt băng, mặt trời cũng đã trên đà lặn xuống, ánh nắng ấm ban trưa bây giờ thay thế bằng ánh sáng xanh nhạt nhòa của buổi chiều tà, và những dãy nhà xung quanh lễ hội cũng bắt đầu lên đèn như đám rước. Herbert học nhanh, lại mau tiến bộ, sau vài lần loạng choạng ngã oạch đã biết cách giữ thăng bằng, vừa tự chơi một mình vừa cười nắc nẻ với Frieda đang đứng nhìn ở ngay mép hồ băng. “Cậu chủ giỏi lắm!” Frieda vỗ hai tay vào nhau, rồi vỗ nhẹ nựng nịu lên hai má phúng phính của Herbert khi cậu đã chơi một lúc thật chán chê và quay lại với thị.

“Mặt trời sắp lặn rồi, chúng ta ra đài phun nước đợi cha cậu chủ nhé?” Frieda nhắc nhở, rồi nắm lấy tay Herbert. “Đức Ngài sớm đến bây giờ đấy!”

Herbert vui vẻ gật đầu, trên đường đi không quên vòi vĩnh, “Cô mua kẹo Giáng Sinh cho con có được không? Con muốn ăn kẹo.” Vừa nói, cậu vừa buông tay Frieda, để mà chỉ vào chiếc xe đẩy đương đắt khách bởi những món bánh kẹo ngon mắt đủ màu. Frieda ngoảnh đầu lại nhìn theo, rồi thị phì cười:

“Một chút nữa nhé, cậu chủ? Một chút nữa, rồi tôi sẽ mua thật nhiều bánh kẹo cho cậu chủ ăn.”

“Chán vậy…” Herbert lè nhè, tròn mắt đòi hỏi. “Cho con đến mua một que thôi cũng được. Nha?” Cậu ê a ngoan cố, nhưng Frieda chỉ lắc đầu:

“Ngoan nào, cậu chủ. Chúng ta không nên để Đức Ngài phải đợi đâu.”

“Dạ vâng ạ…” Herbert lí nhí bĩu môi, song vẫn cố ý nán lại thêm ít giây để ngắm những que kẹo trắng và đỏ. Lễ hội không có dấu hiệu gì sẽ thưa bớt người qua kẻ lại, chen chen chúc chúc, Herbert chỉ không chú ý một chút, quay lại đã thấy mình cách người hầu vài bước chân. Cậu dễ dàng lách qua dòng người, nhưng không may lại va phải một nhóm trẻ con khác đang chạy giỡn.

“Thằng kia đi đứng kiểu gì vậy?”

Herbert ngã sóng soài, thầm nghĩ thật may nhờ có lớp tuyết mỏng, bằng không có lẽ đầu gối cậu đã bị trầy xước, trong lúc nhắm tịt mắt xuýt xoa chỉ nghe được tiếng gằn bực tức vô cùng. “Ui dào,” giọng nói kia lại tiếp tục, và lúc này Herbert mới nhận ra chiếc mũ len của mình đã nằm trong tay kẻ khác, “cái gia huy này trông quen gớm nhỉ?”

Trước mặt Herbert, ăn diện đường hoàng và có phần hơi khoa trương, là hai đứa trẻ trạc tầm mười tuổi, cao hơn cậu một cái đầu. Chúng thuận tay vớ lấy chiếc mũ ban nãy Herbert đánh rơi sau cú ngã, rồi thản nhiên lật qua lật lại để mà ngắm nghía, săm soi. Hai đứa trẻ này dường như là anh em – bởi nét tương đồng quá đỗi trên gương mặt chúng; một đứa tóc nâu hạt dẻ với xương hàm ngạnh ra khiến nó trông như già trước tuổi của mình – và có lẽ nó cũng là đứa lớn hơn – còn đứa kia lại có tóc sáng màu, màu nâu nhạt dần ngả qua màu vàng cát, gương mặt tròn trịa với cặp mắt cứ láo liên không ngừng. Đứa tóc màu hạt dẻ cầm chiếc mũ của Herbert trên tay, nó nheo mắt nhìn một hồi, rồi biểu lộ ra một nét mặt như thể nó vừa khám phá ra một điều gì đó:

“Heise, mày nhìn xem,” nó hỏi, xoay xoay miếng huy hiệu bằng vàng đính trên vành mũ, “trông có phải là một trong mấy gia huy chúng ta thấy trong sổ sách của cha không?”

Đứa được gọi là Heise ngó mắt nhìn tấm gia huy nhỏ với hình đôi rồng đối nhau, gật gù đáp, “Phải, phải, là gia huy của nhà Krolock đây mà!”

Đứa kia nghe vậy, liền chậc lưỡi nói mát, “Ái chà, xem ra mày cũng có máu mặt nhỉ?”

“Trả chiếc mũ đây!”

Herbert hét lên rồi lao đến, toan giật lại chiếc mũ của mình, nhưng hai anh em kia vốn cao hơn, làm cậu bé con chộp hụt mà loạng choạng chúi mặt về phía trước. Heise bật cười ha hả, vỗ vai anh mình:

“Heinrich nhìn xem, nó đúng là đồ ngốc!”

“Nào, thằng tử tước[2] hết thời, mày chỉ được có thế thôi sao?”

Heinrich nhe răng cười nham nhở, nhưng việc nó không ngờ, là Herbert vung nắm đấm vào mặt nó. Chớp mắt, nó đã thấy máu tươi rỉ ra từ mũi mình, càng nhục nhã ê chề hơn khi nó để ý rằng bản thân đang bị mọi người xung quanh nhòm ngó, và tâm trí nó báo động rằng nó phải tự tìm cách giải quyết nỗi nhục này, bằng không ông thân sinh mà biết được sẽ tẩn nó ra bã. Thế là, chỉ trong tích tắc, nó quệt nhanh đi vệt máu trên mặt rồi vươn tay túm cổ Herbert lại, rít qua kẽ răng:

“Mày to gan lắm nhỉ, thằng chuột nhắt? Dám đánh cả tao…” Nó rên hừ hừ, thầm thở phào nhẹ nhõm khi không còn ai thèm để ý đến lũ trẻ con chúng nó nữa. “Mày có biết tao là con của đại công tước[3] không hả?”

“D-Dạ…?”

“Gia đình mày bây giờ chỉ còn một lũ mắt mờ vô dụng thôi,” Heinrich nghiến răng, “chỉ cần tao muốn, thì không chỉ mày, mà cả cha mày cũng sẽ phải quỳ lạy khóc lóc đấy, cho nên liệu hồn mà hành xử cho phải phép, hiểu chưa thằng con hoang quái dị?”

“Xin… xin lỗi… Em xin lỗi ạ!” Herbert bị dọa đến xanh mặt, luống cuống đến mức răng va cầm cập vào nhau. Tuy nhiên, với lòng tự tôn của mình, cậu vẫn gắng nuốt nước bọt, lễ phép thưa, “Nhưng xin anh đừng gọi em là con hoang như vậy, em có mẹ có cha, đường đường chính chính, anh gọi như vậy là một sự sỉ nhục quá sức…”

“Mày nói ai sỉ nhục mày?” Heise chen ngang, véo vào tai Herbert khiến cậu nhăn mặt la oai oái. Cậu bé con lập tức lắc đầu lia lịa, mếu máo:

“Không, không có… Không có ai sỉ nhục ai cả!”

“Biết điều như vậy có phải tốt hơn không?”

“Vậy… các anh tha lỗi cho em đúng không?” Herbert lí nhí, cố gắng nở một nụ cười chữa thẹn, “Cho em xin lại chiếc mũ được chứ? Nó là quà mẹ tặng cho em, xin trả lại cho em đi.”

Nghe đến đây, hai anh em nọ bỗng dưng lại cười khẩy và buông Herbert xuống, làm cậu ngã phịch đau điếng mà chỉ biết ngồi dưới đất nhìn lên. “Không,” Heinrich tuyên bố chắc nịch, vò chiếc mũ đến nhàu nhĩ mà nhét vào túi áo trong, “tao sẽ xem như đây là quà chuộc tội của mày. Giờ thì cút đi, và khôn hồn thì đừng có bép xép.”

Nói đoạn, chúng nhe răng cười rồi khoác vai nhau bỏ đi. Ấm ức, Herbert thoát khỏi trạng thái hoảng sợ, và lòng tự tôn lẫn kiêu hãnh bị giẫm đạp của cậu biến thành một thứ gì đó khác, thôi thúc cậu lồm cồm đứng dậy, và cậu hét lên thật to trước khi lao đến húc vào tấm lưng của Heinrich lẫn Heise. “Đồ ăn cướp!” Herbert gào, rồi cả ba lăn tròn trên đất trước khi Herbert đè Heinrich xuống nền tuyết mà lột ngược áo khoác ngoài của nó ra. “Trả chiếc mũ đây!” Cậu ra lệnh, cào cấu càng điên cuồng hơn khi Heise cố kéo cậu ra, cậu bé con lần này thậm chí còn đánh gãy mũi nó, khiến Heise buộc phải lăn đùng ra ăn vạ và thét lên thảm thiết. Hiển nhiên, cuộc ẩu đả gây ầm ĩ không ít, đánh động cho Frieda đang tìm cậu chủ của mình lập tức chạy đến can.

“Cô Frieda, cứu con!”

Herbert í ới, vội vàng bỏ chạy đến núp sau lưng người hầu, nhưng hai anh em kia không cả nể ai, thành ra chúng cứ tiếp tục màn đuổi bắt với Herbert xung quanh Frieda, tốc cả mấy lớp váy dày của thị, không đứa nào chịu chạy cùng một hướng khiến thị lóa cả mắt chẳng tóm lại được đứa nào, và Herbert – trong cơn hoảng sợ một lần nữa – chạy vụt biến khỏi nơi ấy, mặc cho Frieda khản cổ ngăn lại. Thị tức tốc đuổi theo, nhưng bộ quần áo rườm rà của phụ nữ thời ấy khiến thị tốn không ít sức lực, và đến một lúc, bước chân của thị chậm dần, còn hơi thở thì trở nên gấp gáp.

Một bàn tay đặt lên vai Frieda khi thị đương khó khăn lách qua dòng người. “Chủ nhân!” Thị lắp bắp, cuống quýt gập người xuống và hai vai nhỏ run lên, khi một nửa gương mặt của Johannes – xám xịt và lạnh ngắt dưới chiếc mũ trùm của tấm áo choàng đen – bây giờ nhìn thẳng xuống thị với vẻ dò xét. Giọng ông đanh lại khi hỏi, khiến thị không khỏi lạnh toát cả người:

“Herbert đâu?”

Frieda muốn bật khóc, lẩy bẩy chỉ tay về hướng lũ trẻ vừa chạy, miệng lắp bắp không nên lời, “Chúng đuổi cậu chủ về phía cánh rừng… Xin chủ nhân thứ tội!” Thị mếu máo khi bàn tay trên vai thị siết chặt, chờ đợi một cơn thịnh nộ có thể hiểu được khi Johannes làu bàu không rõ chữ trong cổ họng, nhưng rồi, “Về trông nhà đi”, Johannes nói gọn, trong chớp mắt đã mất hút theo con đường mà Herbert đã đi.

– —-

[1]: Cháo ngô, hay còn gọi là món mămăligă, là một món cháo truyền thống của người Romania và một số nước Tây Âu, gồm bột ngô vàng nêm gia vị được nấu trong nước. Tùy vào liều lượng nước và bột, mămăligă có thể được nấu thành cháo loãng hoặc khuấy sệt lại như bánh mỳ mềm.

[2]: Thời phong kiến châu Âu, nếu cha được phong hiệu bá tước thì con trai sẽ được gọi là tử tước.

[3]: Thứ tự cấp bậc của quý tộc phong kiến châu Âu nói chung, không tính hoàng tộc, được xếp từ lớn đến nhỏ như sau: Đại thân vương – Đại công tước – Thân vương, phó vương – Quận chúa, huyện chúa – Công tước – Hầu tước – Bá tước – Tử tước – Nam tước – Hiệp sỹ.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.