Charlie Bone 2: Charlie Bone Và Quả Cầu Xoắn Thời Gian

Chương 23



Ngôi nhà sấm

Henry Yewbeam cảm thấy buồn chán. Những căn phòng dưới lòng đất của bà bếp trưởng tuy ấm cúng và thú vị, nhưng Henry đã thám hiểm hết từng xăng-ti-mét chúng rồi. Cậu ao ước có Charlie tới thăm mà cùng tán dóc. Nhưng bà bếp trưởng bảo là Charlie đã về nhà để nghỉ cuối tuần rồi.

Coi bộ bà bếp trưởng lúc nào cũng tất bật, thậm chí cả vào ngày thứ Bảy. Bà đã kiếm được một bộ đồ ngủ cũ cho Henry và vài bộ quần áo coi cũng tân thời: quần dài, giày đen, vớ xám. Và bà đã thuyết phục được cậu thay chiếc áo khoác ấm áp bằng chiếc áo len dài tay màu xanh da trời. Henry thấy nó không ấm bằng chiếc áo khoác, nhưng thôi, ít ra cậu vẫn còn giữ lãi được chiếc ao chùng xanh da trời mà cậu mặc vào lúc bị xoắn xuyên thời gian.

Bà bếp trưởng đã giấu biệt Quả Cầu Xoắn Thời Gian.

“Tôi không muốn cậu lại táy máy thêm trò dại dột nào nữa, nghe chưa,” bà nói, vẩy vẩy ngón tay chỉ Henry. “Giờ thì cậu sẽ phải ở lại đây mãi mãi. Vấn đề là, phải làm gì với cậu đây?”

Henry vẫn không chịu từ bỏ hy vọng. Cần phải có cách gì đó để trở về năm 1916, mặt khác, nếu cậu ở lại thì điều gì sẽ xảy đến với cậu? Cậu không muốn trở lại với gia đình Bloor, dĩ nhiên rồi. Nhưng nếu cậu có thể về được đúng năm tháng, thì rốt cuộc cậu cũng sẽ tìm về được ngôi nhà hạnh phúc bên bờ biển của mình.

“Nhưng trước tiên mình sẽ cần phải đi qua thế giới khác,” cậu tự nói với mình. “Thế giới trong Quả Cầu Xoắn Thời Gian.”

Lúc trước, khi du hành xuyên thời gian, Henry đã có lần thoáng trông thấy thế giới của Vua Đỏ. Mẹ cậu, một người thuộc dòng họ Bloor, đã có lần bảo cậu rằng cậu là hậu duệ của vị Vua Đỏ bí hiểm ấy.

“Một số hậu duệ của Vua Đỏ được thừa hưởng một phần phép thuật của ngài,” mẹ cậu nói. “Nhưng theo như mẹ biết, thì nhà mình không có ai được ban phép thuật hết.” Rồi cô nhìn một lượt gia đình mình, xong phá lên cười hể hả theo cách xưa nay vẫn vậy, đoạn nói thêm:

“Ơn Chúa!”

Henry ước gì được nghe lại tiếng cười của mẹ.

“Charlie có phép thuật đúng kiểu mẹ nói,” cậu tự lẩm bẩm.

Có lẽ cậu sẽ về sống với Charlie? Như thế cũng không đến nỗi tệ. Charlie có thể dạy cậu cách sử dụng tất cả những thứ mới lạ mà bà bếp trưởng đã kể cho cậu nghe: T.V, video, máy vi tính, và những thứ kỳ diệu khác.

Bà bếp trưởng đã dặn Henry rằng bà sẽ trở lại và mang bữa trưa cho cậu vào lúc mười hai giờ rưỡi. Nhưng, theo chiếc đồng hồ treo tường nhỏ bên cạnh giường của cậu thì bây giờ mới chỉ có mười giờ.

“Hơn những hai tiếng nữa ngồi không.” Henry thở dài.

Cậu bỗng nảy ra một ý. Vì bây giờ đã ăn mặc như mọi cậu bé khác trong Học việc Bloor này, nên chắc chắn cậu có thể đi thám thính một chút. Hồi đó cậu vẫn luôn muốn đi vào khu lâu đài bỏ hoang, nhưng Ngài Gideon đã cấm tiệt. Lúc này là cơ hội cho Henry.

Cậu rón rén ra khỏi phòng bà bếp trưởng, và cẩn thận khép cánh cửa tủ tường lại sau lưng. Sau khi đi qua vài cái tủ âm tường nữa, cậu thấy mình ở bên ngoài cửa căn-tin. Có tiếng động lớn dội ra từ tiền sảnh. Henry liền chạy về phía đó. Cậu nhìn vô tiền sảnh và thấy một người đàn ông to lớn, đầu cạo trọc, đang đóng cái gì đó vô cánh cổng chính.

Vẫn không dừng công việc của mình, người đàn ông to con này hỏi:

“Mày là đứa nào?”

“Cháu… à… là Henry,” nó sợ sệt trả lời.

“Henry gì?”

“Ờ… ờ… Bone.” Henry không biết tại sao cậu lại bảo mình là Bone. Cậu chỉ nghĩ rằng sẽ không hay khi tự khai mình là Yewbeam.

“Sao mày nói có vẻ không chắc, hả?” Người đàn ông vẫn tiếp tục quai búa.

“Chắc chứ,” Henry nói.

“Ở đây chúng tao cũng có một thằng Bone nữa. Đúng là nỗi kinh hoàng thật sự của nhà Bone.”

“Đó là em họ cháu.”

“Tao đảm bảo mày cũng là một thằng trong đám có phép thuật. Toàn một bọn chuyên gây rắc rối. Cả lũ chúng mày.”

Người đàn ông nện thêm một cú kinh hoàng vô cánh cửa.

“Toác cả cổng. Thằng giông bão làm đấy. Đồ trời đánh thánh vật!”

“Ồ!” Henry tiếp tục hướng ra vườn.

“Mày đưa chó đi dạo hả?” Người đàn ông hỏi.

“Gì ạ?” Henry sải bước nhanh hơn.

“Con chó. Con vật khốn khổ khốn nạn đó.”

Henry nhìn xuống, thấy May Phúc đang thở phì phò ngay dưới chân mình.

“À, vâng ạ. Đi nào,” Henry nói và bước thật gấp về phía cửa ra vườn.

Khi đã ra ngoài trời rồi, cậu dừng lại để thở lấy hơi.

Con May Phúc trông cũng có vẻ bồn chồn không kém.

“Chuyện gì vậy?” Henry thở dốc, hỏi.

Cậu cúi xuống và vỗ vỗ đầu con chó già. May Phúc xấu xí vô cùng. Có nét gì đó rất sầu thảm ẩn trên gương mặt nghiêm nghị, nhăn nhúm của nó, khiến Henry không thể không cảm thấy tội nghiệp cho con chó.

Có bốn thằng bé đang đá banh bì bõm trong lớp tuyết loãng như bùn ở phía trước. Bọn con trai chẳng chú ý gì khi Henry và May Phúc đi ngang qua. Một cái cây khổng lồ bị cưa thành nhiều khúc nằm ngay giữa sân chơi, Henry rất muốn leo lên đó chơi, nhưng thời giờ là vàng bạc, và cậu cần phải xem xét khu bỏ hoang đã.

Khi tới được những bức tường lớn đỏ chói rồi, Henry chợt thấy phấn chấn lạ. Nơi đây tỏa ra một mùi gì đó, của thời gian và của cả hiểm nguy. Cậu tưởng tượng ra những hiệp sĩ mặc áo giáp sắt đang trườn lên các bờ tường, những con ngựa chiến phi nước đại qua cổng, và những mũi tên rít như mưa trên đầu. Cậu vừa bước qua mái cổng vòm cao lớn, thì một giọng nói cất lên:

“Thằng kia, lại đây!”

Henry quay lại thì thấy hai thằng lớn hơn đang băm bổ đi về phía cậu. Cả hai đều mặc áo chùng tím và đều có gương mặt đanh sắt lại.

“Mày là ai?” Thằng cao hơn quát.

Henry chạy ù vô khu đổ nát. Cậu thấy mình ở trong một khoảnh sân vuông vức, có năm con hẻm tỏa đi các hướng. Henry bươn vô con hẻm ở giữa.

Nghe thấy tiếng những thằng kia hò hét đằng sau, Henry cứ thế chạy thục mạng. Lối này ló ra một khoảnh sây trống khác. Henry chạy băng qua sân và loạc choạc chạy xuống một dãy cầu thang đá dốc. Giờ, cậu đã lọt vô một trảng trống đầy cỏ mọc, viền quanh là những bức tượng không đầu. Ở giữa khoảng trống, có hai nữ sinh áo chùng tím đang ngồi trên nóc một ngôi mộ lớn, bằng đá. Một cô bé loắt choắt, đen như gỗ mun, cột tóc đuôi ngựa dài thượt và đeo mắt kính gọng vàng. Cô kia có gương mặt tinh khôn, mạnh khỏe và mái tóc xanh da trời thật ấn tượng.

“Xin chào,” Henry thở dốc. “Tôi là… “

“Đằng ấy là Henry phải không?” Đứa con gái tóc xanh da trời nói liền. “Charlie đã kể cho tớ nghe về đằng ấy. Họ đang lùng sục đằng ấy đó, có biết không? Tháp nhạc sáng nay rất náo loạn. Manfred quẳng cả chồng, chồng sách nhạc ra khỏi tháp. Hắn tức nổ đom đóm mắt luôn. Tớ là Olivia, còn đây là Bindi.”

“Rất hân hạnh được gặp các quý cô,” Henry bắt tay hai đứa. “Các cô khỏe chứ!”

“Lịch sự quá đấy,” Olivia nhận xét. “Tớ nghĩ đây là kiểu chào của người già.”

“Già? Tôi nghĩ mọi người chắc đều coi tôi như người già. Nhưng tôi thật sự cảm thấy mình chỉ khoảng mười một tuổi.”

“Tớ cũng thế,” Olivia nói. “Nhưng tớ mười một tuổi thật. Thường thì thứ Bảy bọn tớ không có ở đây, nhưng bữa nay tụi này bị cấm túc.”

Bỗng có tiếng quát từ mảnh sân phía trên cao, và May Phúc lạch phạch lao xuống các bậc thang.

“Chắc họ chạy theo con chó kia,” Henry lẩm bẩm. “Có hai thằng đuổi theo tôi vô đây. Một người cao và để tóc giống con gái.”

“Đuôi ngựa,” Olivia bảo. “Đó là Manfred Bloor, huynh trưởng.”

“Tụi này không để cho hắn tìm thấy cậu đâu,” Bindi nói, “nhanh lên, chui vô đây.”

Với một tốc độ đáng kinh ngạc, hai đứa con gái nhảy tót khỏi nóc ngôi mộ, rồi hất nắp mộ ra. Henry ngó chăm chăm vô cái khoảng tối thăm thẳm. Bên trong hầm mộ sực mùi nấm mốc và những thứ mục rữa.

“Mau đi,” Olivia thúc giục. “Trong đó thở được mà. Chúng tớ thử rồi.”

Lại một tiếng quát nữa ở phía trên khiến Henry phải lật đật leo vô hầm mộ. Hai nữ sinh đẩy nắp ngôi mộ trở lại, để chừa một lỗ nhỏ xíu cho không khí lọt vô. Xong, chúng nhảy phóc lên ngồi trên nóc mộ, vừa lúc Manfred và Asa chạy xuống những bậc thang.

“Chúng mày có thấy một thằng lạ mặt không?” Manfred hỏi.

“Tụi em thấy Daniel Robottom,” Olivia nhanh nhảu, lựa đại tên một thằng hao hao cỡ Henry, cũng mặt áo chùng xanh da trời.

“Nó đi lối kia kìa!” Nó chỉ về một khung cửa hình hòm, dẫn tới một bức tường.

“Daniel Robottom hả? Chắc không?” Đôi mắt vàng khè của Asa nheo lại, nghi ngờ.

“Chắc chứ,” Bindi nói. “Nó vừa chạy vừa hát ư ử. Daniel hay hát ư ử lắm.”

Manfred và Asa lao vọt qua khung cửa vòm mà Olivia chỉ.

Một tiếng gõ từ bên trong hầm mộ.

“Suỵt!” Olivia ra hiệu. “Chưa ra được đâu. Chưa an toàn.”

Con bé nói đúng. Chỉ vài phút sau, Manfred và Asa đã lồng lộn quay trở lại.

“Chúng mày có chắc là nó đi hướng ấy không?” Manfred cau có.

“Thề có tim gan, mà nếu sai thì dám chết,” Olivia thong thả nói. “Nhưng nó mới quành lại mấy bậc cấp kia cách đây chừng năm phút. Chắc là mấy anh không kíp thấy nó rồi.”

“Mà nó làm gì vậy anh?” Bindi hỏi.

“Không phải việc của mày,” Manfred cọc cằn.

“Tụi tao đang tìm đứa khác,” Asa thêm.

Manfred lườm cho nó một cái, ngụ ý “Im đi!”

“Con chó của ông cố tao làm gì ở đây thế này?” Manfred hỏi.

“Tụi em tính dẫn nó đi dạo,” Bindi đáp.

Hai thằng lớn quay đi, nhưng khi chúng vừa bước chân lên những bậc thang đá, Asa quay lại, nạt.

“Mà sao hai đứa mày ở đây, hả?”

“Tụi em ra đây cho yên tĩnh,” Olivia thở dài. “Tụi con trai quậy quá.”

“Nếu là tao thì tao sẽ không ở trong khu bỏ hoang quá lâu đâu,” Asa nhếch mép cười với Olivia thật kỳ dị, rồi phóng theo Manfred lên cầu thang.

“Thằng đó khiến mình ớn sườn,” Bindi lè lưỡi.

Chúng chờ thêm năm phút nữa mới quyết định là đủ an toàn để mở nắp cho Henry ra. Cậu len ra phía bên hông ngôi mộ và nằm vật xuống cỏ. Áo chùng và quần phủ đầy bụi màu xanh lá cây, còn tóc thì bám đầy mạng nhện.

“Trong đó có một con cóc khổng lồ,” cậu nói. “Tôi không thích cóc.”

Hai con bé giúp Henry phủi bụi, xong cả ba leo lên ngồi lên nóc ngôi mộ, chia nhau chiếc bánh mì vòng mà Bindi đã lén mang ra khỏi căn-tin.

Henry kể cho hai cô bạn nghe về ngôi nhà bên bờ biển của cậu, và về việc cậu đã đến đây bằng Quả Cầu Xoắn Thời Gian như thế nào. Olivia kể lại những cuộc phiêu lưu của bà mẹ nổi tiếng của nó khi đi làm phim trong rừng sâu. Sau đó, đến lượt Bindi tả chuyện nó đã đi Ấn Độ để thăm ông bà tuyệt vời của nó ra sau.

Khi tiếng còi đi săn rúc lên, gọi chúng đi ăn trưa, Olivia bảo:

“Đi với tụi này đi, Henry. Cứ tỉnh như không. Đừng tỏ ra sợ sệt gì. Khi tụi này tới căn-tin thì đằng ấy có thể lẻn vô nhà bếp.”

Henry đã tiết lộ cho hai nữ sinh biết là nó đang trốn ở trong nhà bếp. Mặc dù tin tưởng hai cô bạn, nhưng nó vẫn cảm thấy sẽ an toàn hơn nếu như không ai biết đích xác nó đang ở đâu.

Rủi làm sao, khi vô căn-tin, Henry đụng ngay phải một cô phục vụ bữa trưa.

“Trò làm gì ở đây?” Cô hỏi.

“Con… đ… đư… đưa tin cho bà bếp trưởng,” Henry cà lăm.

“Bà ấy đang trong phòng lạnh,” người phụ nữ mỉm cười. Cô còn trẻ và trông rất hóm hỉnh.

Henry lò dò tìm đường đi qua nhà bếp. Không có bà bếp trưởng ở trong phòng lạnh. Cậu có tìm cái tủ âm tường nơi cậu đã ra đi, nhưng toàn lộn vô những tủ cất chổi với lại những tủ đựng chảo nồi. Lối vô bí mật của bà bếp trường hình như đã biến mất.

Henry đang lớ ngớ đứng sau một hàng tạp dề bằng nhựa dẻo, thì một bàn tay rắn chắc thò xuống túm chặt lấy vai cậu. Henry tê cứng. Một giọng nói hét thẳng vào tai cậu:

“Henry Yewbeam, cậu vừa ở đâu về đấp?”

Henry quay lại, thấy gương mặt giận dữ, đỏ phừng của bà bếp trưởng.

“Cháy chỉ đi dạo chút chút,” Henry giải thích.

“Tôi đã bảo cậu là không được rời khỏi đây kia mà,” bà gay gắt thì thầm. “Đúng không? Đừng bao giờ tái phạm nữa đấy. Ngoài đó nguy hiểm lắm.”

“Cháu xin lỗi,” Henry nói, vẻ ân hận.

“Cậu phải mất khối thời gian mới kiếm ra đúng chỗ, phải không?

Bà bếp trưởng vặn nắm đấm bên cạnh hàng tạp dề, và một cánh cửa bật mở vô trong. Không một lời, bà đẩy Henry qua cửa, té vô một đống giẻ lau nhà và chổi.

“Tự mà tìm đường lấy đi,” bà bảo. “Nếu may mắn thì sẽ có bữa trưa sau nửa giờ nữa.” Rồi bà lẹ làng đóng sập cửa lại.

Henry lần đường về lại căn phòng của bà bếp trường. Cậu ngồi thừ bên cạnh lò sưởi, càng cảm thấy thương thân hơn. Mình sẽ phải sống nốt quãng đời còn lại như thế này sao? Lẩn trống những kẻ chỉ muốn hãm hại mình? Manfred đã nói với hai nữ sinh, “Con chó của ông cố tao làm gì ở đây thế này?”

Ai là ông cố của Manfred? Không lẽ… ? Không, không thể như thế được! Mà cũng có thể không nhỉ? Thằng anh họ Ezekiel chắc phải một trăm tuổi rồi.

Có thể lắm chứ, Henry nghĩ. Cậu rùng mình. Thằng anh họ Ezekiel vẫn còn sống, và vẫn muốn tống khứ mình đi, bằng cách này hay cách khác.

Henry ước gì Quả Cầu Xoắn Thời Gian đã mang cậu đến một nơi khác – như nhà của Charlie Bone chẳng hạn.

° ° °

Vào lúc đó, đáng lẽ Charlie phải ra khỏi nhà rồi mới phải. Nhưng nó và Benjamin vẫn còn đang ngồi trong nhà bếp của căn số 9, tự hỏi xem phải làm gì. Những cuộc điện thoại bức xúc cứ qua lại như con thoi giữa Charlie, Fidelio và Gabriel. Nhưng không kiếm ra được ba, mẹ của đứa nào; hoặc thuyết phục được vị nào cho chúng đi quá giang tới Khu Đồi Cao.

“Tụi mình đi taxi vậy,” Benjamin bàn bạc. “Mình có ít tiền đây.”

Charlie không nghĩ rằng chúng có đủ tiền. Giờ này mẹ nó đi làm, còn ngoại Maisie đi mua sắm. Nó cũng không nghĩ Ông cậu Paton có tiền, và đương nhiên là nó sẽ không hỏi xin nội Bone.

“Tụi mình kẹt cứng rồi,” Charlie nhìn đăm đăm một cách u uẩn qua cửa sổ nhà bếp.

Nó gần như không thốt được nên lời khi một chiếc xe hơi sang trọng hiện ra trước mắt. Chiếc xe đỗ xịch ngay trước cửa nhà số 9, và Lysander từ trong xe nhảy ra, vẫy vẫy ta về phía cửa sổ nhà bếp.

Charlie viết nguệch ngoạc vài chữ cho mẹ, kiểm tra chìa khóa cửa trong túi và chạy ra cửa trước. Nó mở cửa ra ngay khi Lysander đang tính nhấn chuông.

“Chào Charlie!” Lysander nói. “Ba anh sẽ chở tụi mình tới nhà Gabriel.”

Benjamin và con Hạt Đậu xuất hiện sau lưng Charlie.

“Bạn em và con chó của nó đi cùng có được không?”

“Được chớ. Càng đông càng vui,” Lysander nói. “Đi nào.”

Benjamin, Charlie, và con Hạt Đậu theo Lysander xuống những bậc cấp, ra xe. Lysander lên ghế trước ngồi, trong khi bọn kia leo vô ghế sau. Chúng thấy Fidelio đã ngồi thu lu, sâu trong lòng cái ghế da từ hồi nào.

“Chào các cậu nhỏ,” một người đàn ông da đen rất đẹp trai, ngồi sau tay lái, đánh tiếng.

“Ba của anh đấy,” Lysander giới thiệu. “Ba anh là thẩm phán, nhưng đừng lấy thế mà sợ.”

“Chào chú, chú thẩm phán,” Benjamin và Charlie đáp lễ, hơi khớp trước người đàn ông oai vệ này.

Chiếc xe nổ máy, băng ra khỏi lề, nhẹ lướt vo vo trên đường Filbert, vòng theo công viên, và rồi đi xuyên qua nội ô thành phố. Xe lên dốc, lên dốc và lên nữa. Không đứa nào để ý đến một chiếc taxi vàng đang chạy theo chúng. Giờ, xe đang nuốt gọn con đường dốc lên Khu Đồi Cao, ngang qua một dãy biệt thự lớn, và vượt qua khu nhà thời thượng ấy, rồi lại men theo bìa một khu rừng có vẻ hoang dã. Ông thẩm phán dừng xe bên ngoài một căn nhà trông xơ xác, có một mảnh sân ngập ngụa bùn. Lũ gà đang bươi đất, và một con đê có cặp sừng lớn, cong vút đang nhai bụi cây.

“Ta chỉ đi tới đây thôi, các cậu,” ông thẩm phán bảo.

“Ba không đưa tụi con lên thêm được nữa sao, ba?” Lysander nài nỉ.

“Ba không lái cái xe mới của ba lên đó đâu,” ba của Lysander nói. “Quá nhiều bão.”

Khi bước ra xe, bọn nhóc nghe thấy tiếng sấm đì đùng đằng xa.

“Chúc may mắn, mấy cậu nhỏ!”

Ngài thẩm phán lùi xe vô trong mảnh sân bùn lầy, quay đầu xe lại và lái xuống đồi.

“Hồi nữa ba anh có tới đón tụi mình không?” Benjamin lo lắng hỏi.

“Có thể,” Lysander ngần ngừ, “hoặc có thể mẹ anh tới đón.”

Cách đó một chút, dưới sườn đồi, ngoài tầm mắt của bọn trẻ, chiếc taxi vàng đã dừng lại. Một sinh vật trông cổ quái bước ra: đó là một lão già mặc áo mưa dài lết bết, bẩn thỉu. Lão để ria mép trắng, nhưng lại có những túm tóc hoe hoe lòi ra khỏi chiếc mũ lưỡi trai vải tuýt, cáu bẩn. Lão già trả tiền cho tài xế rồi cắm cổ chạy lên đồi, dáng bộ di chuyển chẳng giống một lão già chút nào, mà giống một nam sinh thì đúng hơn.

Charlie chưa bao giờ nhìn thành phố từ trên cao như thế. Quang cảnh thật choáng ngợp, nhưng có cái gì đó rất chông chênh, đáng ngại ở chốn cao và lộng gió này. Rừng cây đằng sau thở dài não nề, như báo điềm gở, và sấm nổ dồn dập hơn.

Cả bọn vừa bước vô mảnh sân thì Gabriel bước ra khỏi căn nhà xơ xác. Nó mang đôi ủng lội bùn cao cổ và cẩn thận lội tủm tủm qua những vũng nước sâu nhất. Chiếc quần bò nó mặc dơ đến nỗi dù có văng thêm bùn vô cũng không khác là mấy.

“Chào!” Gabriel giơ bàn tay trái lên. “Nhìn này! Tốt như tay mới vậy.”

“Vậy thì ngon rồi,” Lysander nói. “Tất cả đã sẵn sàng rồi chứ hả?”

“Rất sẵn sàng,” Fidelio đáp.

Cả bọn lên đường, Lysander và Gabriel dẫn đầu. Sau một hồi, con đường trở nên gồ ghề và hẹp lại, sau rồi mất dần. Chúng thấy mình đứng trước một cánh cổng. Một tấm biển gỗ đề NGÔI NHÀ SẤM được đóng chắc vô thanh chắn trên cùng. Bên dưới là tấm biển nhỏ hơn, đề : COI CHỪNG THỜI TIẾT!

“Vậy có nghĩa là sao?” Benjamin thắc mắc.

“Bọn mình sẽ biết ngay thôi,” Fidelio bảo.

Bên kia cánh cổng, có một lối đi hẹp nằm giữa hai hàng cây trường xanh rậm tối. Những ngọn cây oằn xuống, nghiêng ngả trong gió; cành cây cùng đất đá và cỏ chết bay rào rào vô lối đi.

“Tới rồi,” Lysander nói và mở cổng ra. “Anh có tới đây rồi, nhưng chưa lần nào gió dữ dội như vầy.”

Cả bọn bám theo Lysander đi qua cổng. Chúng lập tức hứng ngay những mẩu rác rưới đang bay.

“Khó đây,” Charlie lẩm bẩm.

Cúi rạp mình trong gió, hai đứa dẫn đầu chiếm lĩnh lối đi. Đằng sau chúng, Fidelio, Charlie và Benjamin cũng gập cong người lại bước, cùng với con Hạt Đậu cúp rúp quẩn quanh.

Mỗi bước chúng tiến lên, gió mỗi thêm hung hãn, và giờ thì, những hạt mưa đá li ti, sắc lẻm quất vô mặt chúng. Charlie hí mắt dòm qua người Lysander, thấy một tòa nhà bằng đá, màu xám lừng lừng trước mặt. Mái nhà chẽ thành ba khối tam giác dốc đứng, phần mái giữa trông giống như một ngọn tháp. Những cửa sổ dài và hẹp, và nóc mái hiên cắt thành một góc sắc cạnh với chính giữa khu nhà. Mũi tên chỉ chiều gió lại mang hình một cây búa, đang quay tít ở trên chỏm nóc của tòa nhà. Chốc chốc cả tòa nhà lại rung lắc dữ dội.

Chúng vừa lê đến gần ngôi nhà thì cửa mái hiên bật mở, vọt ra một người đàn ông có mái tóc vàng rối bù cùng bộ râu quai nón hòa vô mớ tóc. Ông phải cao hơn hai mét là ít, bởi vì đầu ông đụng mạnh vô khung cửa khi ông bước qua.

“Vô ích,” người đàn ông bự con gầm vang, trong khi mấy thằng con trai tiến về phía tòan nhà.

“Chú đã cố khuyên nó bình tĩnh lại, nhưng chúng ta đành phải chờ cho cơn bão này tự tắt thôi.”

“Tụi con cần bạn ấy, chú Torson à!” Lysander hét xuyên qua gió.

“Chú biết! Chú biết! Nhưng Tancred điều khiển thời tiết giỏi hơn chú. Chú hoàn toàn không chống chế được nó!”

Đoàn quân cương quyết giờ đã tiến đến mái hiên của tòa nhà. Nhưng việc đó cũng chẳng che chắn chúng được hơn bao nhiên. Gió tấp vô chúng từ đủ mọi hướng, giật bung tóc, làm nước mắt nước mũi chảy ròng ròng.

Ông Torson đứng khuỳnh tay trước ngực, đón chặn cơn mưa đá đập tới tấp vô tấm lưng rộng.

“Chú đã nói hết lẽ với nó.”

Ông bật ho và một tiếng khụ lớn dội lên từ đâu đó trong lồng ngực.

“Nó cứ nhốt mình trong phòng. Giờ thì chắc chắn đồ đạc đã tanh bành rồi. Vợ chú… “

Lại một tiếng ho nữa bật ra, tiếng này trùng với một ánh chớp xẹt xuống thân cây gần đấy.

Tất cả bọn trẻ cùng dòm cái cây đổ nhào xuống đất, những cành cây nhẹ bẫng bùng cháy. Tuy nhiên, đám lửa nhanh chóng bị dập tắt bởi một trận đại hồng thủy đột ngột từ trên trời trút xuống. Trong khoảng yên lặng ngắn ngủi trước khi một tiếng sấm tiếp theo nổ đùng, ông Torson nói nốt:

“Bà vợ tội nghiệp của chú bị nhức đầu như búa bổ.”

“Tụi cháu có vô nói chuyện với Tancred được không ạ?” Lysander hỏi.

“Không cách nào,” ông Torson nói liền. Vừa nói vừa ẩn mình thật chắc vô bên trong mái hiên. “Quá nguy hiểm. Tụi con chỉ còn cách để lúc khác hẵng tới. Cẩn thận trên đường về đấy. Ngoài kia có cái gì đó.”

“Cái… ?” Gabriel mở miệng.

Những lời tiếp theo của nó bị một tiếng sấm giận dữ nuốt gọn, tất cả bọn đồng loạt né rạp xuống. Một vật gì cắm phịch xuống đất, ngay đằng sau chúng.

Con Hạt Đậu tru lên hoảng loạn, và Benjamin hét to:

“C… c… ái… cái gì thế?”

“Cái búa,” ông Toson đáp.

Rồi ông vụt biến vô căn nhà, để lại bọn trẻ đứng ngoài, chỉ còn nghe thấy tiếng chốt khóa loạch xoạch đằng sau cánh cửa.

“Hừ, biết ngay mà,” Lysander thất vọng. “Tụi mình trở lại khu rừng đi. Ở dưới gốc cây có nhiều chỗ trú ẩn hơn.”

Chúng lao về phía khu rừng, nhưng con Hạt Đậu sủa nhặng nhít lên, và lại bắt đầu vục mõm xuống đất, sục sạo.

“Nó làm sao vậy?” Charlie hỏi.

“Nó tìm thấy cái búa,” Benjamin thở hồng hộc. “Hạt Đậu, lại đây coi, bỏ cái đó đi. Bỏ ngay! Nó không phải là cục xương đâu!”

Khu rừng dày đặc những bụi gai và bụi mâm xôi. Chúng cào xước mặt mũi và niú rách quần áo bọn trẻ. Và có một việc khác nữa : cả đám đều có cảm giác mình đang bị theo dõi.

“Anh không thích thế này,” Lysander la lớn. “Quay lại con đường lúc nãy coi.”

Nhưng giờ thì không thể tìm thấy con đường hẹp đó đâu nữa. Bọn trẻ dàn hàng ra, gọi nhau í ới trong lúc mò đường.

“Không phải đường này!”

“Không thấy nó đâu hết!”

“Cứu với. Tụi này lạc rồi!”

“Đúng là lối này.”

“Không phải ở đây.”

Thình lình, Charlie nhận ra nó còn có mỗi một mình. Trời đã sập tối. Tiếng sấm vẫn đùng đoàng phía xa, trong khi cây cối lại đứng im phăng phắc. Và rồi, nó trông thấy một cặp mắt khủng khiếp: như hai vũng ánh sáng sinh đôi, càng lúc càng tiến lại gần, xuyên qua những bụi cây thấp. Thét lên một tiếng kinh hoàng, Charlie vội quay đầu và lao mình vô một lùm cây.

“Cứu với!” nó thét. “Cứu tôi! Mọi người đang ở đâu rồi?”

Nó nghe có tiếng chó sủa, nhưng chịu, không thể biết tiếng chó từ hướng nào.

“Hạt Đậu!” nó gào lên. “Hạt Đậu, tao ở đây mà!”

Một tiếng gừ dữ tợn đằng sau lưng. Charlie vội vắt giò chạy ra xa. Nó lao băng băng qua rừng, đâm cả vô cây, lập chập, lảo đảo, trượt, ngã quỵ, bò lê, cho đến khi thấy một dải đường lờ mờ. Nó bò tới đó và ngước nhìn lên, thì thấy bốn thằng kia đang nhìn nó kinh hãi.

“Charlie! Trông em thật thê thảm,” Fidelio thốt lên.

“Trông anh cũng không khá hơn,” Charlie nói, “Làm sao các anh kiếm ra đường?”

“Nếu không có con Hạt Đậu thì tụi này vẫn còn ở trong rừng rồi,” Gabriel bảo. “Có chuyện gì vậy, Charlie? Tụi này cứ kêu hoài, kêu hoài.”

“Chẳng nghe gì cả,” Charlie rên. Nó lụi hụi bò dậy và lắc lắc những cành cây vướng trên đầu. “Có cái gì đó ở trong rừng. Một con thú.”

“Anh biết, bọn anh cũng nghe thấy tiếng nó,” Lysander nói chắc cú. “Cho dù đó là con gì, thì chắc chắn con vật đó cũng không muốn tụi mình ở trong rừng. Tụi mình ra khỏi đây mau đi.”

Chúng thất thểu trở lại nhà Gabriel, và phát hiện ra bên trong căn nhà tồi tàn đó thật ấm cúng và dễ chịu một cách đáng ngạc nhiên. Khi mấy đứa rửa ráy trong bồn rửa ở nhà bếp xong, chúng thả mình xuống ghế, và nhìn hau háu vô những miếng bít tết, khoai tây nghiền, rau, mà không biết phải chén từ đâu.

“Charlie, mẹ con có gọi đấy!” bà Silk bảo. “Bác nói là con đi dạo với đám bạn rồi, và sẽ trở lại dùng bữa trà.”

“Cám ơn bác Silk!” Charlie nghĩ chắc là mẹ đã nhận được mẩu giấy nhắn của nó. Nó không đưa cho nội Bone để nội có thể giấu tờ giấy đi.

Gabriel có ba chị gái, họ len vô ngồi giữa bọn con trai và chuyện trò ríu rít, bất tận. Bọn con trai mệt đứ đừ đến nỗi chẳng thể góp chuyện. Lysander hầu như không hé nửa lời suốt bữa ăn.

“Mới bắt đầu năm học mà đã chẳng thấy tốt đẹp gì nhỉ?” Bà Silk nhận xét. “Hết chuyện cái găng tay với Gabriel lại bao nhiêu chuyện khác nữa.”

Bà Silk là một phụ nữ thon thả, xinh đẹp, có đôi mắt xanh tròn xoe, tóc nâu, quăn gợn sóng – trông chẳng giống Gabriel gì cả.

Không dễ gì khi trong nhà có một đứa trẻ có phép thuật, nhưng bà Silk cố hết sức. Bà không biết phép thuật lạ lùng của Gabriel từ đâu ra. Hai vợ chồng bà luôn tranh luận xem bên gia đình nào chịu trách nhiệm về việc đó. Bà rất ngờ là phép thuật này bắt nguồn từ dòng họ Silk, ít nhất thì đã có vài người trong số học là kỳ dị rồi. Trong nhà, Gabriel không bao giờ có thể mặc quần áo đã dùng rồi. Và vì không thuộc hàng gia đình giàu có, cho nên gia đình nó buộc phải mua đồ cũ cho các cô con gái. Chúng cho như thế là không công bằng.

Sau bữa trà, Gabriel dẫn bạn bè đi xem bầy chuột bạch của nó. Và vì trời tối rồi nên bà Silk lái xe đưa tất cả bọn về tận nhà trên một chiếc Land Rover cà khổ.

“Hy vọng mẹ con không lo lắng,” bà nói với Charlie khi nó đặt chân lên những bậc tam cấp nhà số 9.

Ngoại Maisie đón nó ở hành lang.

“Mấy bà cô nhà Yewbeam đang ở đây,” ngoại thì thầm. “Ngoại đi coi tivi đây. Chúc con may mắn, Charlie!”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.