Mọi chuyện sau đó xảy ra hệt như cái đêm Chuck vô tình làm cháy nhà kho của ông hàng xóm, chỉ có điều thay vì là người nông dân trung niên cầm khẩu súng săn hai nòng¹ thì giờ đây, đuổi theo hắn là một bà lão với ba chĩa và đứa cháu gái đang la hét của bà. Chuck có thể dễ dàng hạ gục cả hai, nhưng nếu làm thế thì hắn sẽ không bao giờ tha thứ cho mình, vậy nên chỉ có thể bối rối nhảy ra khỏi nhà kho từ chính cái cửa sổ mà hắn dùng để đột nhập vào ban nãy. Đuổi được một lúc, bà lão dừng lại, thở hổn hển đứng dựa vào cây ba chĩa. Cô gái thả bầy chó ra, chúng nhe răng chạy quanh nhà kho, một con còn kéo lê sợi xích kêu lạch cạch. Một bên mắt cá chân bị bong gân đau nhói, Chuck nghiến răng trèo qua hàng rào, lăn một vòng trên bãi cỏ, đứng dậy tiếp tục chạy trốn vào rừng. Hàng rào làm xích chó bị mắc lại, con chó chưa kịp tháo xích ban nãy bị giật ngửa ra đằng sau, đứng quanh đó sủa điên loạn. Con còn lại phi qua hàng rào, nửa chạy nửa như lao vào Chuck, cắn vào ống quần của hắn. Chuck đá mạnh vào người nó, buộc nó phải nhả ra, trước khi nó chồm lên lần nữa thì hắn đã kịp đấm thẳng vào hàm dưới khiến nó rên ư ử rồi bỏ chạy, đuôi cụp xuống giữa hai chân.
Chuck băng qua khu rừng tối tăm một lúc lâu, có lẽ chỉ mới ba mươi phút thôi mà hắn cảm giác như đã hai thế kỷ. Để đảm bảo rằng đàn chó không lần theo mùi mà đuổi được nữa, hắn lội qua con suối êm ả, bắt gặp một khúc cây rỗng cỡ bự ở ngay bên bờ liền trèo vào và cuộn tròn bên trong. Một loài gặm nhấm lông lá nào đó hình như đã bị hắn quấy rầy, nhanh chóng bò đi trốn giữa những lớp lá mục nát, những cái chân lông nho nhỏ của chúng cọ vào tay chân Chuck trong bóng tối.
Chuck sờ vào mắt cá chân sưng tấy của mình, thở dài, hắn phải tìm cách để nó không bị nặng hơn, nếu không thì khó mà đến được biên giới Hà Lan. Hắn biết quân kháng chiến Pháp và Hà Lan² đang hoạt động nhỏ giọt ở gần biên giới, bởi vì có những đêm Không quân Hoàng gia Anh vẫn thả xuống cho đám lính như rắn mất đầu này các bộ phận thiết bị thu phát vô tuyến và vũ khí. Họ là hy vọng duy nhất để trở lại Anh của Chuck.
Hắn đổi tư thế vài lần, tựa đầu vào khúc cây rỗng, cố ngủ cho qua. Vài phút sau, do quá lạnh nên hắn lại lồm cồm bò ra ngoài, đắp đám lá khô bốc mùi ẩm mốc lên người cho ấm, mặc kệ bùn đất và côn trùng còn đang dính ở trên. Louis mà nhìn thấy hắn bây giờ thì hẳn là anh sẽ nhăn mũi như lúc phát hiện ra Chuck không biết cầm nĩa tráng miệng đúng cách cho xem.
Louis. Chuck thì thầm cái tên ấy trong đầu, vặn vẹo giữa đám lá khô để tìm một chỗ nằm không bị cộm người. Anh ấy hẳn sẽ nghĩ rằng Chuck đã chết, đó là cách mà cơ chế phòng vệ của Louis hoạt động: đối mặt với tình huống xấu nhất trước, tránh bị tổn thương bởi những hy vọng hão huyền. Chuck đang nghĩ xem mình sẽ kể lại cho Thiếu úy về những chuyện đã xảy ra đêm nay thế nào.
Hắn không ngủ được bao lâu, gần như là chỉ vừa nhắm mắt lại thì đã bị tiếng chó sủa cùng với tiếng dao phát cây đánh thức. Có tia sáng nhợt nhạt lọt qua những kẽ hở trên khúc gỗ, Chuck vẫn nín thở bất động, lắng nghe âm thanh bên ngoài, hẳn là cả một đội tìm kiếm đã tới, tiếng nói chuyện phát ra từ mọi hướng. Hắn dịch người về phía đầu khúc gỗ, quan sát tình hình bên ngoài qua kẽ hở. Dưới gốc cây ở hướng mười một giờ, có một con chó đang đánh hơi các bụi rậm, theo sau nó là hai người nông dân mặc áo sơ mi và quần yếm rộng thùng thình, cả hai đều mang súng săn, tóc hoa râm, một người đã không còn mắt phải, có lẽ do đó nên không được ra tiền tuyến. Chuck đánh giá khả năng hạ gục hai ông lão này của hắn, không cao, nhưng cũng không phải là không thể, nếu bọn họ chia nhau ra hành động thì càng dễ hơn.
Thế nhưng sau đó, một đàn chó khác xuất hiện trong rừng, thực sự là “một đàn” bao gồm bảy tám con, cùng với tay đàn ông mập mạp trong áo khoác ca rô. Bà lão và cô gái trong trang trại hẳn đã đánh thức cả thị trấn dậy và có lẽ cũng đã thông báo cho đám Mật vụ. Bầy chó săn càng lúc càng đến gần khúc gỗ rỗng, Chuck vội vã lùi khỏi kẽ hở trên cây, xoa xoa đám lá khô trộn với mùn đất lên cả tay và mặt, hy vọng có thể đánh lừa khứu giác của chúng nó. Một con chó đen như mực chồm lên khe gỗ, khịt khịt mũi rồi đi một vòng, cuối cùng chạy tới chân của chủ nhân, hướng về phía khúc gỗ mà sủa vang.
Thế là, dưới sự giám sát của đàn chó và ba khẩu súng săn, Chuck buộc phải dùng cả tứ chi bò ra ngoài. Tên đàn ông to béo trong chiếc áo khoác kẻ dùng dây thừng trói hai tay hắn ra sau lưng rồi nói gì đó. Thấy Chuck hoang mang, tên béo lặp lại câu đó, lần này với tông giọng dữ dằn hơn như hét vào mặt. Ông chú một mắt mặc quần yếm bước tới, đẩy tên béo ra, soi xét Chuck một vòng từ trên xuống dưới và ném vào mặt hắn một câu sắc bén bằng tiếng Anh: “Mày là gián điệp của bọn Anh à?”
“Tao là người Mỹ,” Chuck đáp, thử vặn cổ tay nhưng dây trói quá chặt, “Tao là phi công.”
Đối phương nheo con mắt duy nhất còn lại một cách nghi ngờ.
“Tao lái máy bay.” Chuck giải thích theo một cách khác, theo bản năng liếc nhìn bầu trời như đang tìm kiếm địa điểm được chú thích trên bản đồ, “Máy bay, hiểu không?”
Một Mắt chuyển sang nói bằng tiếng Đức và thì thầm thảo luận gì đó với đồng bọn. Tên béo huýt sáo gọi đàn chó săn quay lại, Một Mắt kéo mạnh sợi dây, ra hiệu cho Chuck đi theo lão. Mấy con chó bám sát Chuck, mỗi lần hắn tập tễnh đi chậm lại vì đau đều gầm gừ dọa cắn.
Ba nông dân vừa kéo vừa đẩy Chuck về thị trấn và tống hắn vào một kho chứa dụng cụ kiên cố bằng đá không có cửa sổ, hắn bị khoá ở trong cùng với mấy giỏ nho, thùng gỗ và cả đống khuôn bánh thiếc. Bên ngoài hẳn là luôn có hai người đứng canh gác – hắn thường nghe thấy cuộc trò chuyện của họ, đến khoảng giữa trưa thì có người bước vào đưa cho hắn một cốc nước mẻ đầy mùi bùn đất. Chuck vẫn uống, dù sao thì tình cảnh của hắn bây giờ cũng không thể tệ hơn được nữa.
Trời tối, tia sáng chiếu qua khe cửa cũng dần biến mất, người gác cửa thì hút thuốc nồng nặc. Xa xa có tiếng chó sủa, một lúc sau im bặt. Chuck lại nghe thấy tiếng người nói chuyện, rồi tiếng bước chân xa dần, mùi thuốc lá cũng biến mất. Có ai đó gõ nhẹ lên cánh cửa: “Người Mỹ, nghe thấy ta nói không?”
Đó là giọng của Một Mắt, Chuck lặng lẽ đứng dậy, bước về phía cửa và dựa vào tường mà không trả lời.
“Ta chuẩn bị mở cửa, đừng có đánh lén, nghe chưa? Ta đến để giúp mi đấy.”
Ổ khóa kêu lách cách, cánh cửa hé mở nhưng vẫn còn có xích, cho tới khi Một Mắt chắc chắn rằng Chuck sẽ không nhấc cái thùng nào lên đập vào đầu lão thì mới tháo xích và mở hoàn toàn cánh cửa. Lão nhét vào tay Chuck một ổ bánh mì, “Đêm nay, sau khi nghe tiếng chuông đồng hồ điểm hai lần thì hãy chuồn ra ngoài, hiểu chưa?”
“Gì cơ?”
“Đêm nay ta sẽ giúp mi chạy trốn, nhớ cho kỹ, thời điểm tiếng chuông đồng hồ điểm hai lần.”
“Đồng hồ gì? Tại sao?”
Cánh cửa đóng sầm lại, khóa và xích đâu lại về đấy.
Chuck ngồi bệt xuống sàn, không ý thức được mình vẫn đang nắm chặt ổ bánh mì. Biết đâu đây là bẫy, biết đâu lão già này cố tình để cho tù nhân trốn thoát rồi săn tìm hắn như đi săn gà rừng cho vui thì sao? Nhưng nếu thật sự muốn giết hắn theo kiểu này thì tại sao lão không làm vậy từ lần tìm kiếm trong rừng?
Hắn máy móc cắn một miếng bánh mì, cổ họng nghẹn lại vì căng thẳng, nhai mãi mà chẳng nuốt nổi. Người gác cửa đã trở lại, đôi ủng nặng nề dẫm trên mặt đất. Qua khe cửa, ánh sáng ngắn ngủi của diêm leo lắt, mùi khói thuốc lại phảng phất trong không khí. Đúng lúc này, tiếng chuông vang lên. Tháp đồng hồ có lẽ cách đây khá xa, thanh âm truyền đến vô cùng yếu ớt, nếu không chú ý lắng nghe thì chắc chắn sẽ không nhận ra. Chuck đếm, bảy lần, bảy giờ tối.
Hắn đi đi lại lại trong không gian nhỏ hẹp này chờ hồi chuông tiếp theo. Bảy giờ ba mươi, tám giờ, tám giờ ba mươi, chín giờ và rồi mười giờ, màn đêm chậm rãi buông xuống. Hắn thiếp đi trong khoảng từ mười hai giờ đến một giờ, bừng tỉnh trong cơn mơ đầy thấp thỏm, sợ rằng mình bỏ lỡ lúc đồng hồ điểm hai giờ. Hắn áp tai vào khe cửa chờ đợi, thật lâu sau, tháp đồng hồ đằng xa reo vang, đã một giờ rưỡi sáng.
Rồi đến hai giờ.
Ổ khóa lạch cạch mở, người ngoài cửa chưa kịp nói gì thì Chuck đã lách ra, Một Mắt cũng nhanh chóng khóa cánh cửa đá của nhà kho lại và dẫn tên người Mỹ đào thoát này vòng tới tận sau chuồng ngựa, nơi có một khoảng sân nhỏ đã được dọn sạch sẽ, trên sân chỉ có xe cút kít cùng với xe ba gác và hai xe tải đỗ bên ngoài. Tiếng động cơ vang lên, đèn pha rọi qua căn nhà, nhưng đến khi có người chạy ra ngoài thì xe tải đã phóng vù đi trên con đường đầy ổ gà và mất hút ở ngọn đồi phía sau nhà thờ.
“Mi tên gì?” Một Mắt hỏi.
Charles. Chuck suýt nữa thì khai thật tên mình, chần chờ một lúc rồi nói, “Gọi tôi là Jack cũng được.”
Đối phương khịt mũi, đoán được Chuck không nói thật: “Đến rạng sáng không dùng được chiếc xe này nữa, chúng ta sẽ phải đi bộ. Ở Drestedt có người có thể cho chúng ta đi nhờ tới một nơi cách biên giới không xa, vượt biên xong ta với mi không liên quan gì đến nhau nữa, hiểu chưa, Jack người Mỹ?”
“Ông chú tên gì?”
“Mi có thể gọi ta là chú Matthias.”
“Chú là quân kháng chiến à?”
“Quân kháng chiến chỉ là một đám trẻ ranh vô tích sự.” Chú Matthias lại khịt mũi, “Không, Jack người Mỹ, ta không phải quân kháng chiến, ta là một giáo viên từng dạy lịch sử nghệ thuật ở Drestedt. Mi có biết Đức quốc xã đã thưởng gì cho ta sau những đóng góp cho nền giáo dục nước nhà không? Một bên mắt không bao giờ thấy ánh sáng được nữa vì ngăn chúng quét vôi lên “những bức tranh tục tĩu của người Do Thái” trong viện bảo tàng. Ba tháng trong bệnh viện, sau đó là sáu tháng ngồi tù.”
Để tránh bị để ý, chú Matthias đã tắt đèn. Bóng tối dày đặc bao trùm lên cánh đồng bát ngát, chỉ có ánh trăng tô thêm những đường nét mờ ảo cho con đường và rừng cây.
Chuck buộc phải hỏi, “Chú sẽ làm gì khi trở về?”
Vậy là ông chú cười, “Ta sẽ không trở lại Đức, Jack người Mỹ, ở đây không có chỗ cho một giáo viên lịch sử nghệ thuật. Hơn nữa đám đó đang thiếu người, đã bắt đầu chiêu mộ cả những lão già như ta ra mặt trận rồi. Ta sẽ không đi giết người, cả đời này cũng không.”
“Chết tiệt!”
“Cho nên có mi hay không thì ta cũng sẽ chạy trốn thôi, mi mà kéo chân ta là ta sẽ quẳng mi lại trên đường đấy, rõ chưa?”
Chuck có thể tưởng tượng ra phong cách dạy học của ông chú này, gật đầu, không nói gì nữa. Chiếc xe tải rung lắc và lao hết cỡ về phía tây. Thỉnh thoảng hắn lại nơm nớp lo lắng nhìn về phía sau xem có xe đoàn tải quân sự đáng sợ nào đuổi theo họ không, thế nhưng tới tận bình minh vẫn không có gì xảy ra.
–
Chú thích của người dịch (Translator’s Note):
1. Gốc: 双筒猎枪, dịch nghĩa: Súng săn hai nòng. Súng săn, đúng như cái tên Shotgun của nó, là bá chủ cự ly gần với cơ chế phổ biến nhất là lên đạn từng viên và sức công phá lớn đi kèm với độ giật cũng lớn không kém. Súng săn hai nòng có thiết kế nạp đạn từ sau nòng súng bằng cách bẻ nòng súng lên ra khỏi báng súng, tuy nhiên trong chiến tranh, những khẩu súng săn của Winchester đời 1897 và 1912 với cơ chế lên đạn kiểu bơm luôn được quân đội Mỹ và phe Đồng minh tin dùng do ưu điểm ít kẹt đạn trong giao tranh.
2. Gốc: 法国和荷兰的抵抗组织, dịch nghĩa: Quân kháng chiến Pháp và Hà Lan. Nói về “lực lượng vũ trang” phe kháng chiến của hai nước trên trong những phong trào chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã tại các nước lân cận trong Thế chiến thứ hai. Trong những năm 1943 – 1944, họ chính là mấu chốt quan trọng để quân Đồng minh để đánh bại Đức và sau đó giải phóng đất nước của họ.