Chẳng nghi ngờ gì, sáng hôm sau mở đầu bằng sự hỗn loạn. Hai người bừng tỉnh khi nghe thấy đám người hầu xôn xao đi lại ở hành lang nhưng vẫn tốn thêm vài giây quý giá để ngắm nhìn đối phương. Chuck vội vàng rời giường tìm quần áo khắp các góc, tay nắm cửa bắt đầu vặn đầy nguy hiểm, hắn mặc quần, bắt lấy áo sơ mi mà Louis ném cho rồi trèo ra ngoài cửa sổ, nhảy vào bụi cây, mu bàn tay đau nhói vì quệt phải cành lá đầy gai.
Cửa sổ phòng ngủ của hắn vẫn còn đang mở, Chuck dùng cả chân lẫn tay nhào vào phòng, trượt ngã trên sàn nhà phủ đầy sương. Trong khoảnh khắc đám người hầu bước vào, hắn vừa đứng dậy, chưa kịp mặc áo sơ mi, quần dài thì vừa đủ che chỗ cần che. Chuck nhìn cửa sổ đang mở rộng, sau đó thấy bộ quần áo trong tay người hầu mới chợt nhận ra mu bàn tay phải của mình vẫn đang chảy máu, chột dạ mà vò áo sơ mi, “Không phải, tôi định là… hít thở chút không khí trong lành, chuẩn bị vận động buổi sáng mà quần áo vướng víu quá, còn mấy cái cây thì-“
“Xin thứ lỗi nếu tôi làm phiền ngài.”
“Không, tôi mới nên xin lỗi-“
Cửa phòng đóng sầm lại. Chuck thở dài, vứt cái áo sơ mi nhàu nhĩ xuống sàn rồi bước vào phòng tắm.
Louis tới phòng ăn còn sớm hơn cả hắn. Lúc Chuck ngồi vào vị trí quen thuộc của mình, Thiếu úy đã ăn được chút bánh cuộn cùng thịt hun khói. Cả hai chào buổi sáng cùng lúc, cố nhịn cười thành tiếng với đối phương, thành ra nom có vẻ vô cùng hờ hững – thậm chí còn có hơi kỳ cục. Louis dùng giọng điệu kiểu Thủ tướng ghé thăm quân doanh tiện thể quan tâm đến vết xước trên mu bàn tay của anh lính Chuck, còn hỏi có phải hắn cảm thấy không khỏe hay không, dù sao thì “tối qua còn chưa kịp uống rượu đã vội rời đi, sáng nay lại đến muộn tận mười phút.”
“Chưa bao giờ cảm thấy tốt hơn.” Chuck trả lời.
Louis nâng tách trà về phía hắn.
Chuck vất vả lắm mới quen được với sự xuất hiện của những người hầu, thế nhưng hôm nay họ lại đặc biệt bận rộn, ai nấy toát lên vẻ lo lắng khó mà không nhận ra, tựa như là tổ kiến đang chuẩn bị để đối mặt với một trận đại hồng thuỷ. Khung ảnh, đồ trang trí bằng đồng, đèn chùm và gạt tàn đều được lau dọn bóng loáng; những chiếc bình trong nhà đều được thay bằng hoa diên vĩ mới mua sáng nay. Bọn họ nhận được tin báo rằng Hầu tước phu nhân đã khởi hành từ Luân Đôn và sẽ trở lại đây trước bữa trưa. Roger hiếm khi đi mất dạng, có lẽ còn đang trong nhà bếp giám sát tiến độ làm món tráng miệng. Louis thì kéo Chuck vào một phòng ngủ ở cuối hành lang trên tầng hai và đóng cửa lại.
“Phòng này trước đây là của chú Albert.” Louis ngồi xuống giường, thở hổn hển vì phải lết từng bước lên cầu thang, “Dáng người của cả hai tương đương nhau, anh có thể mượn quần áo của chú ấy. Đừng giật mình vì bộ sưu tập cà vạt nhé, chú Albert là một người ưa nổi bật, cũng may là chú đã mang những bộ lễ phục “lộng lẫy” nhất đến Tây Ban Nha rồi.”
Đây là một căn phòng rộng rãi sáng sủa, to gấp ba lần so với phòng ngủ của Chuck ở tầng dưới, bởi vì nằm ở cuối hành lang nên trong phòng còn có phần vòng cung nhô ra được lắp kính, nơi ánh sáng rực rỡ nhất đang phủ lên tấm thảm tròn có màu đỏ thẫm, trải dài lên bộ ghế bành còn đang dùng vải che chống bụi. Chuck bước tới trước giá sách, ngoài những cuốn sách phủ bụi, nơi đây còn có rất nhiều những món đồ kỳ lạ như là chân nến bằng bạc hình đuôi cá, chiếc hộp đựng hạt gỗ nhỏ được xâu lại với nhau bằng những sợi tơ mảnh, con dao găm có cán bằng ngà, quả địa cầu nhỏ bên cạnh chiếc thước trắc tinh dùng trong thiên văn hàng hải, và một mảnh xương chạm khắc nhìn thế nào giống như mang điềm gở.
“Chú của em có thể là một nhà giả kim đấy nhỉ.”
“Cả nhà em cũng nghi vậy. William và em thích lượn lờ chơi ở đây, có lần tụi em còn tìm thấy một con thằn lằn chết được ngâm trong rượu.”
Chuck mở tủ quần áo, cau mày nhìn mấy chiếc áo khoác hoa hoè hoa sói, “Cậu ấy là người thế nào?”
“Chú Albert á?”
“Không, em trai em, William ấy.”
Một khoảng lặng dài trôi qua. Chuck giả bộ như đang tập trung vào việc lục lọi quần áo của một người xa lạ, ngẫm lại xem có phải mình đã hỏi chuyện không nên hỏi, và ngay khi hắn định xin lỗi thì Louis lên tiếng.
“Có một vài đôi song sinh không hề giống nhau.” Anh nhìn chằm chằm vào tay mình như thể trên đó có viết chữ, “Không phải nói về ngoại hình, hồi nhỏ William với em còn thường đóng vai đối phương, đừng nói là mẹ, thậm chí ngay cả bảo mẫu cũng có lúc bị tụi em qua mặt.” Thấy vẻ mặt khó hiểu của Chuck, anh liền giải thích thêm: “Hai đứa em hiếm khi được gặp cha mẹ mình, việc chăm sóc cả hai đều do một bảo mẫu phụ trách. Em cũng không biết bà ấy họ gì, chỉ biết tên bà là Sophia, người Tây Ba Nha, tất nhiên là theo đạo Thiên Chúa, thường dùng địa ngục để răn đe doạ dẫm tụi em.”
“William là từ trái nghĩa của Louis, là trung tâm của các bữa tiệc, nhiệt tình như một chú chó săn, thích nhảy nhót, chơi cricket – và cả những cô gái – như bất kỳ chàng trai bình thường nào. Em ấy đi học ở trường bay muộn hơn em một chút nhưng lại tốt nghiệp cùng em, chỉ trong một tuần đã trở thành đứa nhóc cưng của cả căn cứ.”
“Nếu em ấy còn ở đây, em ấy sẽ là át chủ bài sớm hơn cả em – sớm hơn bất kỳ ai. William… xứng đáng được sống hơn em.”
Chuck đến bên giường, một chân quỳ trên thảm, nhìn Louis: “Đừng nói vậy.”
“Có lẽ hầu hết mọi người đều nghĩ như vậy, chỉ là họ không nói ra vì phép lịch sự.”
“Tôi dám khẳng định với em rằng chẳng có ai nghĩ như vậy hết.” Chuck siết chặt tay Louis. “Được rồi, em có thể cứu tôi khỏi nhiệm vụ chọn tuxedo khủng khiếp này không? Em thừa biết tôi dốt đặc mấy cái lễ nghi quy củ của gánh xiếc mà.”
“Anh không cần cả một bộ tuxedo, những gì anh cần chỉ là một áo khoác tuxedo đơn giản, màu đen, phù hợp nhất là đi kèm một chiếc nơ màu xanh đen.”
“Đó, em thấy không? Không có em tôi phải làm gì đây, tôi còn chẳng thể đánh vần được từ “xanh đen” kia mà.”
Khóe miệng Louis cong lên thành một nụ cười đầy mệt mỏi, nhưng cuối cùng thì trông anh cũng như vừa trút bỏ được gánh nặng. Tay phải của anh nhẹ nhàng nắm chặt tay Chuck: “Cảm ơn nhé.”
“Tôi có thể bỏ qua vụ thắt nơ không? Trông cứ như đang đeo thòng lọng lên cổ ấy.”
“Nơ là bắt buộc, Trung sĩ. Thử chiếc áo khoác mới của anh đi, chúng ta không thể ở đây cả ngày đâu, đúng không?”
–
Chuck quan sát mình trong gương.
Cảm giác như đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ lần cuối cùng hắn nghiêm túc xem xét ngoại hình của mình – hồi mà còn trốn trong phòng tắm với Billy Ếch Ộp, cố tạo lại kiểu tóc trên áp phích quảng cáo thuốc lá bằng keo xịt tóc. Nếu Billy thấy được bộ dạng hiện tại của hắn, hẳn là tên đó có thể nghĩ ra hai mươi cách khác nhau để cười nhạo Chuck. Vết thương ở khóe mắt của hắn đã lành nhưng vẫn để lại sẹo khá rõ ràng. Hắn vuốt phẳng áo khoác, chỉnh lại nơ, áo sơ mi đi mượn này thì chật vai nhưng lại rộng bụng, nhìn vào đó là có thể áng chừng được dáng người của Albert Linden.
“Đừng quá lo lắng.” Louis nói, gấp chiếc khăn chấm bi màu trắng rồi cài nó vào túi ngực của Chuck, sửa lại các đỉnh lộ ra. “Chỉ là bữa tối thôi, cũng không phải đi đánh nhau với Me 109.”
“Tôi thà đi đánh nhau với máy bay tiêm kích còn hơn.”
Sau những ngày được đánh tiếng trước, Hầu tước phu nhân trong trí tưởng tượng của Chuck đã thay đổi dần, từ một phụ nữ đứng tuổi không có khuôn mặt biến thành một quái vật biển ba đầu phun lửa đáng sợ và có thể đi kèm với chiếc đuôi nhọn đầy gai. Trên thực tế, trong khi hắn đang nơm nớp lo sợ bước vào sảnh phụ, đã có một người phụ nữ vóc dáng nhỏ nhắn mặc chiếc váy dài màu trắng họa tiết sọc xám đậm chờ sẵn ở ghế bành, trông bà tựa như một chú chim nhạn mào với đôi mắt sáng rực, có thêm những trang sức mảnh trên búi tóc thì sẽ càng giống hơn. Những đường nét Louis thừa hưởng từ bà cũng rất rõ ràng: đôi mắt xanh xám và sống mũi như đúc cùng một khuôn, sự hiếu kỳ xen lẫn với cảnh giác như loài chim khi quan sát người khác. Trong khoảnh khắc gặp lại Louis, phu nhân liền đứng dậy, chạm vào bên mặt anh rồi thốt lên “bé con đáng thương”. Louis cúi xuống, hôn nhẹ lên bên mặt của bà và giới thiệu với bà “Trung sĩ Charles Sinclair anh dũng”. Chuck theo bản năng định bắt tay Hầu tước phu nhân, sau đó kịp thời nhận ra hành động này không phải phép nên thay vào đó, hắn đã hôn lên bàn tay của bà. Phu nhân hẳn cũng đã nhận ra chuyện này, nở một nụ cười khoan dung và hỏi hắn đã quen với thời tiết nước Anh chưa.
“Vẫn khá ổn, như là mùa đông ở Oklahoma quê tôi nhưng kéo dài hơn mười tháng thôi.”
“Ta dám chắc rằng không có nơi nào có khí hậu tệ hơn hòn đảo nhỏ của chúng ta.”
“Vậy thì phu nhân nên thấy mùa bão và lốc xoáy của chúng tôi.”
Người hầu mang rượu Sherry đến, mỗi người nâng một ly, lắng nghe Chuck mô tả trận lốc xoáy năm 1937 đã cuốn nhà kho ở thị trấn lân cận lên và hất nó bay xa hai mươi bảy ki-lô-mét, cuối cùng thả nó tự do xuống những cánh đồng thuốc lá như thế nào. Hầu tước phu nhân và trưởng tử của bà đều là những người biết lắng nghe, ít nhất thì Chuck không thể phân biệt được rằng họ đang thực sự quan tâm hay chỉ tỏ ra lịch sự. Sau khi buổi tiệc rượu nho nhỏ trước bữa tối, họ rời sảnh phụ và ngồi vào chiếc bàn ăn dài, rất nhanh sau đó món khai vị đã được mang lên, là món cá gì đó ướp. Ngay khi Chuck bắt đầu buông lỏng phòng bị, cuộc trò chuyện hoàn toàn rẽ sang hướng khác và đi vào vùng biển phóng đầy ngư lôi.
“Ta hy vọng câu hỏi này không quá đường đột, Trung sĩ Sinclair, vì sao anh lại tới đây?” Hầu tước phu nhân ngồi ở đầu bàn ăn, sau lưng bà là chiếc lò sưởi không có lửa, tối tăm và trống rỗng, trông cứ như là bức tường đang há thật rộng cái miệng không răng của nó ra.
“Tất nhiên là vì chiến tranh, nhiệm vụ của tôi là lái-“
“Không phải Vương quốc Anh. Ý ta là, tại sao anh lại đến nhà chúng ta.”
“Mẹ,” Louis phản đối, “Trung sĩ Sinclair là khách của con.”
“Ở tại nhà của ta và của cha con.”
“Trung sĩ đến để giúp con xử lý công vụ, trong trường hợp mẹ không để ý, con vừa bị trúng đạn vào đùi.”
“Nói ta nghe, con yêu.” Chim nhạn mào nâng ly rượu, giọng nói của bà vẫn như cũ, dịu dàng ôn hoà, không một câu to tiếng, “Con chỉ vừa từ chối phục vụ ở Bộ chỉ huy, hiện tại có thể có nhiệm vụ gì?”
Chuck nhìn sang Louis và Louis thì nhìn mẹ anh. Hắn rất muốn hỏi “từ chối phục vụ ở Bộ chỉ huy” là chuyện gì, nhưng hiện tại nơi đây giống như một trận hỗn chiến trên không, mà nếu như bắt gặp hai máy bay tiêm kích đang đánh nhau thì sẽ chẳng có ai ngu đến mức lao thẳng vào tầm bắn. Louis nhấp một ngụm rượu, từ đầu tới cuối vẫn không nhìn Chuck.
“Con không nghĩ hiện tại là thời điểm thích hợp để nói chuyện này, thưa mẹ.”
“Cũng chẳng còn gì để nói thêm nữa, con đã gửi điện tín đi từ lâu rồi.” Hầu tước phu nhân chuyển hướng sang Chuck, mỉm cười như thể vừa rồi họ chỉ đang bàn luận về kỹ thuật làm vườn nào đó, “Anh có chắc là không muốn thử miếng thịt cừu này không, Trung sĩ Sinclair?”
Chuck từ chối khéo, trong lòng chỉ mong được thoát khỏi nơi này càng sớm càng tốt, bị mắc kẹt trong khoang điều khiển đang bốc cháy ngùn ngụt có khi còn đỡ hơn là phải ngồi ở đây. Louis không nói gì, cũng không ăn gì thêm, liên tục ra hiệu cho người hầu thêm rượu vào chiếc ly rất nhanh lại cạn của anh. Món tráng miệng là những chiếc bánh ngọt được trang trí bằng vài lát lê ngâm rượu, nhưng do chẳng ai có hứng ăn nên đã bị dọn xuống dù vẫn còn nguyên. Hầu tước phu nhân rời đi trước, sau đó Louis và Chuck cùng đứng lên nhìn theo bà.
“Louis.” Chuck gọi.
Thiếu úy im lặng nhìn hắn.
“Đây là chuyện anh muốn nói với tôi lúc đó à? Anh vốn dĩ định rời khỏi Đồi Biggin?”
“Không phải ban nãy anh đã nghe rồi sao? Tôi đã thay đổi ý định ngay sau đó, cho nên tôi cảm thấy không cần thiết phải nhắc lại chuyện này.”
“Là do tôi à?”
“Đương nhiên không phải.” Louis trả lời rất nhanh rồi quay đi chỗ khác, cứ như đã dự tính trước câu hỏi này, “Ngủ ngon nhé, Trung sĩ, sáng mai gặp lại.”
Louis đi rồi. Chuck ngồi một mình trong phòng ăn, uống nốt chỗ rượu còn lại dưới ánh đèn sáng rỡ rồi trở về phòng ngủ. Hành lang không có người, hắn gõ cửa phòng Louis, đợi một chút, lại gõ nhẹ lần thứ hai. Bên trong không có tiếng động nào phát ra. Chuck nhìn chằm chằm vào mấy họa tiết chạm khắc trên cửa gỗ một lúc lâu, cuối cùng bỏ cuộc và quay trở lại phòng ngủ của mình.
Hắn gỡ chiếc nơ, cởi áo sơ mi và áo khoác ngoài ra rồi rót cho mình một ly whiskey. Vầng trăng sáng ngời xuyên qua màn sương đêm dày đặc đang bao phủ lên khu vườn. Chuck nhấp một ngụm rượu, lại rót thêm một ly, kéo chiếc ghế bành đến bên cửa sổ, ngồi xuống và tưởng tượng về đội máy bay ném bom đang bay dọc theo bờ biển trải dài.