Nói là do tiếng chim hót, chi bằng nói là do sự tĩnh lặng đã đánh thức Louis. So với căn cứ Không quân vẫn luôn náo loạn ồn ào trong tiếng động cơ máy bay, tiếng chuông reo inh ỏi, tiếng bước chân vội vàng và những tiếng gõ đập trong nhà chứa; thì phòng ngủ của anh chỉ có ánh nắng tĩnh lặng, trong khi chú mèo mẹ nuôi đang đi tuần trên mái thì đàn chim sơn ca hót líu lo trên thảm cỏ. Louis quay sang, khẽ nheo mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, mây tan dần, để lại một ngày nắng trong lành ấm áp.
Vậy là người Mỹ lại phải bay đi.
Hầu gái không một tiếng động bước đến, vén rèm và buộc chặt lại bằng móc đồng, theo thói quen của Louis mà đặt áo sơ mi đã được gập gọn gàng lên ghế. Anh đứng dậy, thay quần áo, định với lấy bộ quân phục trên móc treo nhưng sau đó ngay lập tức thay đổi ý định, khoác chiếc áo màu xám dùng từ trước khi nhập ngũ rồi đi xuống phòng ăn.
Cha không có nhà, ông ấy đã lại đi Luân Đôn từ sáng sớm. Mẹ thì đang đeo kính, lật từng trang báo trên bàn. Con mèo không còn trên mái nhà nữa, giờ đây nó đang cuộn mình ở cuối bàn ăn, cái đuôi ngoe nguẩy. Con mèo đầu tiên trong nhà tên là Muội Than, là một con mèo mướp màu đen xám, đã theo bà nội suốt quãng đường từ Áo tới Anh năm bà 21 tuổi. Sau khi nó ra đi, cái tên này được truyền lại cho tất cả các con mèo khác sau nó, và con mèo trên bàn kia chính là đời thứ tư.
“Trên báo viết rằng người Mỹ đang đến căn cứ chúng ta, bọn họ nói như thể ngày mai chiến tranh sẽ kết thúc vậy.”
Mẹ luôn dùng từ “căn cứMẹ luôn dùng từ “căn cứ chúng ta”, như thể chính bà ấy mới là người điều khiển máy bay ra trận vậy. Louis cúi người hôn lên má mẹ, mẹ có mùi như mùi hoa diên vĩ, từ khi Louis bắt đầu nhớ được đến giờ, mùi hương này vẫn luôn phảng phất trên người bà ấy.
“Mẹ cũng biết chúng ta đang rất cần người mà, hơn nữa họ không tệ đến vậy, chỉ một vài thôi.” Anh nghĩ đến Chuck, nhất thời không tìm được tính từ thích hợp, “Họ đều là những người hơi bốc đồng, cũng hơi liều lĩnh, nhưng nói chung đều biết mình đang làm gì.”
“Ta rất hài lòng vì cuối cùng con cũng đi Luân Đôn.”
“Con còn chưa quyết định đâu, mẹ.”
“Còn gì đáng để do dự?”
Quá nhiều. Louis mỉm cười, lấy một miếng bánh cuộn, nói rằng mình cần chút không khí trong lành. Mẹ nhìn thấu cách lảng tránh chủ đề cũ rích của anh, phàn nàn rằng anh giống hệt cha, nhưng cũng không ngăn lại. Louis lẻn vào phòng tắm nắng, nơi có một cánh cửa dẫn tới phòng tranh, do quá lười đi bộ dọc hành lang quanh co nên anh và William thường trèo qua cửa sổ ở đây để vào hoa viên. Hôm nay Louis cũng đi đường này, trèo lên bậu cửa sổ với mẩu bánh trong miệng, nhảy xuống bãi cỏ mềm.
Nói trang viên này hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh nghe cũng không đúng lắm, nhưng so với căn cứ Không quân, nơi đây tựa như một mảnh nhỏ của thế giới cũ được bảo tồn trong lồng kính, đài phun nước vẫn róc rách chảy, từng nhành cây bụi cỏ đều được cắt tỉa gọn gàng nhường chỗ cho một lối mòn đi sâu vào trong rừng, nơi mà dấu móng guốc của hươu nai thường in lại trên lớp bùn ẩm ướt, nhưng từ lâu nơi đây đã chẳng còn ai săn bắn. Chú Albert đã đi làm ở Bộ Ngoại giao, được cử sang Tây Ban Nha từ năm 1939, giờ đang công tác tại Đại sứ quán Anh ở thủ đô Madrid. Chú là người duy nhất trong gia đình đoán trúng rằng chiến tranh rồi sẽ lại đến, nhưng chú chẳng thể thấy được hồi kết của nó.
Louis cúi xuống tránh một cành cây vươn dài, sum suê toàn lá, tiếp tục đi sâu vào rừng; gạt những cây dương xỉ chắn lối sang một bên, nghiêng đầu lắng nghe tiếng nước. Con lạch cách đó không xa, còn đang trong mùa nước dâng, tiếng nước chảy róc rách nghe rõ mồn một. Trong một khoảnh khắc anh còn tưởng rằng mình đã bị lạc, nhưng cây sồi thô ráp góc đường cho thấy rằng anh không hề đi nhầm. Hồi nhỏ, bất cứ khi nào muốn ở một mình anh đều sẽ đến nơi này, ngay cả William cũng không thể tìm ra. Vào mùa đông, dưới những tán cây, lá rụng chất thành đống và phủ đầy sương, mà giờ đây nơi mặt đất trũng xuống nước đã ùa vào, tạo thành một vũng cạn trong lòng đất. Louis trải áo khoác ra đất rồi ngồi xuống, nhìn dòng nước chảy trên những tảng đá phủ đầy rêu. Rời khỏi Đồi Biggin chưa chắc đã là một quyết định tồi, ra trận không phải lúc nào cũng cần đến súng đạn, bởi đôi khi chiến trường đã nằm ở ngay trên bàn giấy. Anh nhận thức rõ điều này, nhưng việc chọn rời khỏi phi đoàn của mình – bất kể vì lý do gì – cũng giống như một sự phản bội.
Một chú sóc chạy vụt qua đám cỏ thưa thớt rồi leo lên cây sồi. Louis nằm xuống, ngắm nhìn những tia nắng xuyên qua tán cây, với niềm hy vọng rằng bình yên trong tâm hồn vốn tan biến từ lâu kia sẽ lại xuất hiện như trước, thế nhưng, nó chẳng tới được. Thay vào đấy, Louis lại nhớ về vùng ngoại ô gần Hornchurch trong biển lửa, khi mà dàn ngưng¹ của Spitfire ngừng hoạt động, khói trắng bốc lên từ động cơ, để không bị thiêu chết ở đây, Louis buộc phải nhảy dù thoát thân, trơ mắt nhìn Spitfire lộn vòng trên không rồi lao thẳng xuống ruộng, nổ tung thành một quả cầu lửa chói lọi. Louis thì rơi xuống cánh rừng, chiếc dù vướng vào một cành cây, suýt nữa khiến cho cánh tay phải của anh đứt lìa khỏi vai. Anh cố gắng với lấy dao găm trang bị cho lính dù để cắt đứt dây, nặng nề ngã sõng soài trên mặt đất, nằm đó một lúc giữa đống cành khô củi mục, nhìn lá cây rơi rụng giữa khoảng không rách toạc. Anh đã không có nổi một giấc ngủ đàng hoàng nào suốt ba ngày qua, giờ đây đã quá mệt mỏi để gượng dậy. Hai máy bay tiêm kích xoẹt qua trên những ngọn cây, súng máy nổ vang. Đằng xa, máy bay ném bom Stuka tiến vào khúc ngoặt, phát ra tiếng gầm đặc trưng của nó.
Louis chớp chớp mắt, rồi ngồi dậy. Tất cả những ồn ào và ảo giác kia đều tan biến, dòng chảy yên bình với những con cá nhỏ chỉ dài bằng ngón tay trỏ lang thang giữa những vết nứt của mấy tảng đá xếp la liệt, chụm lại mổ chuẩn xác vào đám tảo rêu mọc nơi đó. Sóc nhỏ thận trọng quan sát anh từ một cành cây cao, chiếc mũi nhỏ của nó khịt khịt. Thiếu úy trẻ tuổi đứng dậy, phủi sạch áo khoác, vắt lên cánh tay, men theo lối cũ trở về biệt thự. Đã đến lúc gửi một bức điện tín cho ông Dawson rồi.
–
Chuck nheo mắt dưới ánh nắng mặt trời.
Mây nhạt lững thững nơi chân trời xa xôi, có lẽ sau đó sẽ kéo tới những trận mưa như trút nước. Nhân viên mặt đất đang bận vận chuyển ắc quy dự trữ trên xe đẩy trở lại nhà chứa. Máy bay của Louis vẫn im lìm tại chỗ, thiếu úy đã biến mất ba ngày, nghe nói là đang nghỉ phép.
“Mày lại nhìn chằm chằm phi cơ của gã, dị ghê.”
Chuck liếc đi chỗ khác, vỗ vào gáy Jody: “Không hề.”
“Nhìn thế cũng chẳng để làm gì, mày biết mà. Linden đi nghỉ chứ có đi chết đâu?”
“Tao không có hứng thú với lịch trình của gã.”
“Sao lại không? Tao thì vô cùng có hứng thú luôn.” Chuck lại giơ tay, tên xạ thủ nhỏ con lần này đã kịp tránh hắn, “Mày có biết cha của ổng có tước vị không? Tao muốn biết người như vậy sẽ đi nghỉ kiểu gì, chắc là mỗi ngày đều tắm trong tiền.”
“Làm gì có ai tắm bằng tiền-“
“Mày cứ nghĩ đi đâu đấy?”
Jody nghiêm túc giơ ba ngón tay: “Tiền, về nhà, bạn gái.”
“Im mẹ đi, Jody.”
“Im mẹ đi, Jody.” Jody cố tình bắt chước ngữ điệu của hắn, làm mặt quỷ, “Biến đi bảo mẫu, đám chim non đang chờ mày ở ngoài kia kìa.”
Chuẩn xác mà nói phải là “vài con chim non còn lại”. Mùa hè này, Đại đội Máy bay ném bom số VIII đã miễn cưỡng cử biệt phái các máy bay tiêm kích tới Đại đội Máy bay ném bom số IX² đóng quân tại Bắc Phi để chuẩn bị cho chiến dịch bí mật, đến nay đã là lần điều động thứ ba. Một nửa trong số mười sáu đơn vị ném bom mà Chuck phụ trách đã được cử đi, đám còn lại còn đảm nhận thêm cả nhiệm vụ vận chuyển, ấy là tranh thủ tiếp tế cho bộ binh Anh đang rút về thủ ở El-Alamein³ trên tuyến đường trung lập từ Tây Ba Nha đến Ai Cập.
Đội vận tải khởi hành lúc hơn tám giờ như thường lệ, cộng thêm thời gian tiếp nhiên liệu giữa đường, đến khi trời xẩm tối mới đuổi theo những tia nắng cuối cùng còn sót lại để trở về Đồi Biggin. Đám chim non tới thẳng quán bar, Chuck định đi cùng thì chợt thấy một chiếc xe xanh đỗ ở bãi cỏ. Chỉ mới đây thôi, hắn suýt chút nữa thì phi thẳng vào cột điện bằng chiếc xe này.
“Chuck?”
“Tôi có chút việc, mấy cậu đi đi.”
Hắn bước tới xe. Louis không có ở đó, nhưng nắp capô vẫn còn hơi nóng, có lẽ anh chỉ vừa quay lại. Hắn dạo một vòng ở nhà chứa máy bay gần nhất, chỉ thấy mấy nhân viên mặt đất đang làm nhiệm vụ vẫy tay chào, Chuck vẫy lại đối phương nhưng không nói được mấy câu. Hắn ngó vào phòng chờ của phi công, ở đây cũng không có ai. Cuối cùng, sau gần nửa phút do dự, Chuck quyết định đến ký túc xá để thử vận may.
Phòng của Louis ở góc hành lang, Chuck đứng trước cánh cửa gỗ mà đấu tranh tư tưởng một hồi. Một giọng nói khuyên hắn nên quay lại và rời đi, một giọng nói khác lại thúc giục hắn gõ cửa. Ngay khi Chuck quyết định nghe theo giọng nói thứ hai thì vừa hay, Louis mở cửa định bước ra ngoài, hai người suýt chút nữa đập đầu vào nhau.
“Có chuyện gì sao, Trung sĩ?”
“Không có.” Chuck buột miệng nói, gãi gãi đầu, cố gắng biện hộ, “Tôi chỉ… đi ngang qua thôi. Thực ra tôi đang tìm, ừm, bút chì của mình. Không biết vứt nó đâu rồi, cho nên tôi cứ đi loanh quanh xem thử, biết đâu lại thấy. Không biết anh vừa trở lại, trùng hợp ghê.”
Louis nhướng mày, nhưng dù biết rõ Chuck đang ngụy biện, anh cũng không nói gì.
“Tôi rất thích cái bút chì đó, thưa chỉ huy.” Chuck yếu ớt bổ sung.
“Có thể hiểu.” Thiếu úy nhận ra Trung sĩ còn chưa kịp thay bộ đồ bay, “Vừa đi săn về à?”
“Không, lái máy bay vận tải, Bắc Phi.”
“Năng lực dùng từ của anh còn kém hơn so với trong trí nhớ của tôi.”
“Cách nói chuyện của anh vẫn khiến người ta vui vẻ hệt như trong trí nhớ của tôi, chỉ huy.”
Louis lắc lắc đầu, đóng cửa lại rồi đi ra ngoài. Chuck chậm rãi bước theo sau anh.
“Không phải anh đang tìm bút chì sao, Trung sĩ?” Louis hỏi mà chẳng cần quay đầu lại nhìn.
“Tìm sau cũng được.”
“Chúc anh may mắn. Nhân tiện, anh không cần phải đi theo tôi.”
“Tôi không “đi theo” anh, chúng ta đang đi cùng đường. Mà anh có chắc là không muốn nghe về chiến trận ở Ai Cập không?”
“Khi nào muốn nghe tôi sẽ cho anh hay, nhưng không phải bây giờ, cảm ơn.”
“Vừa nãy anh đang thu dọn đồ đạc đấy à? Xin lỗi nhé, tôi không cố ý nhìn, chỉ là tình cờ lúc đó cửa đang mở-“
Louis thở dài, dừng bước và quay lại nhìn Chuck. Bấy giờ cả hai đang đứng ở đại sảnh, ánh hoàng hôn xuyên qua lớp kính vẽ lên một gam màu ảm đạm, từng góc tăm tối lại càng sắc nét hơn. Tình cờ, một sĩ quan bước xuống cầu thang, Louis đành đợi cho đến khi người đó bước qua cánh cửa rồi mới nói,
“Trung sĩ, tôi có chuyện này muốn nói với anh.”
Anh còn chưa kịp nói hết câu thì tiếng còi báo động đã vang lên inh ỏi. Căn cứ Đồi Biggin đã lâu rồi chưa nghe thấy âm thanh này, âm thanh nhắc nhở các phi công lập tức vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Louis và Chuck nhìn nhau, rồi lao vọt ra khỏi cửa, chạy thẳng đến nhà chứa máy bay.
Hai người là những phi công đầu tiên đến đường băng trong thời điểm bất thường thế này, bởi lúc bấy giờ những người khác hầu như đều đang ở quán bar hoặc trong nhà ăn. Nhân viên mặt đất đã nhanh chóng đẩy chiếc máy bay tiêm kích ra đường băng, Chuck vốn chưa thay bộ đồ bay ra liền dẫn đầu leo lên cabin. Louis tốn nhiều thời gian hơn một chút để đeo dù dưới sự trợ giúp của nhân viên mặt đất. Hai chiếc Spitfire lần lượt cất cánh, bay lên theo chỉ dẫn của điều phối viên.
“Phi đội Hurricane tại căn cứ Tangmere yêu cầu tiếp viện,” Điều phối viên giải thích qua bộ đàm, “Một đội tàu vận chuyển của Canada đã bị tấn công, quân địch có sáu máy bay ném bom Dornier Do17, số máy bay hộ tống không xác định, rơi vào khoảng hai mươi. Phi đoàn 64 cũng nhận được yêu cầu tiếp viện, sẽ gia nhập hai người sau.”
“Đã hiểu, hết.” Giọng Louis phát ra từ bộ đàm hơi bị bóp méo.
Chuck thoáng nhìn mặt trời chìm dần về hướng tây, ngày dài đặc trưng của mùa hạ sắp kết thúc, có lẽ ánh sáng chỉ duy trì được trong hai mươi tới ba mươi phút nữa. Hai chiếc Spitfire không có radar, đường về ắt sẽ gian nan – nếu như còn có thể trở về. Mây trời loãng ra như nhuốm đầy máu đỏ, hai chiếc máy bay tiêm kích vượt qua từng tầng bay về phía xa kia, nơi biển cả đang dần bị bao phủ bởi bóng tối.
–
Chú thích của người dịch (Translator’s Note):
1. Gốc: 冷凝管 (冷凝器), tiếng Anh: Condenser (Heat-Exchanger), tiếng Việt: Dàn ngưng hay Dàn nóng, là một dạng bộ tản nhiệt hay thiết bị trao đổi nhiệt, sau khi không khí bên ngoài đi qua dàn ngưng sẽ được giải nhiệt trong hệ thống lạnh.
2. Gốc: 第九航空队, tiếng Anh: Ninth Air Force. Bắt đầu hoạt động với tư cách là đơn vị máy bay ném bom hạng nặng của Lực lượng Lục quân Hoa Kỳ ở Trung Đông (USAFIME) trong Chiến dịch Ai Cập – Libya năm 1942.
3. Gốc: 阿拉曼, tiếng Anh: El-Alamein. Nói về Trận El-Alamein thứ nhất vào tháng 7 năm 1942. Đọc thêm tại: Battle of El-Alamein và tham khảo những thông tin bên dưới để biết thêm chi tiết.