Tôn sư trọng đạo là điều tiên quyết,
tự cao tự phụ là điều tối kị.
Năm Tái Hữu thứ Hai mươi mốt, Lâm Xuyên Quận vương Đường Diễm mười bốn tuổi, Lục điện hạ Đường Đại tám tuổi, Thất điện hạ Đường Oanh năm tuổi.
Ngôi Trữ quân chưa định.
Mặc dù kiếp trước Đường Oanh không có tư duy chính trị, thế nhưng bốn năm thính chính ở Cẩn Thân điện, bây giờ nàng cũng có thể coi là có chút tâm tư, có đủ hiểu biết về Tấn triều.
Đồng hồ nước, truyền giáo, nước hoa, hỏa thương,… và còn nhiều manh mối khác nữa, chỉ ra rằng triều đại này quả thật song song với Minh triều. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương bãi bỏ chế độ Thừa Tướng đứng đầu quan lại, Minh Thành Tổ Chu Lệ lập Nội Các, nắm chắc trong tay quốc sách triều cương. Nội Các là nơi bàn luận chính sự, dưới có Lục bộ, dưới Lục bộ có các Thừa tuyên bố chính sứ ty, Đề hình án sát ty, Đô chỉ huy sứ ty. Phối hợp chặt chẽ, từ hành chính đến tư pháp, quân sự.
Dưới thời Minh Tuyên Tông, Nội Các đưa kiến nghị phối hợp với một trong mười hai giám – chính là Tư Lễ giám, cùng nhau luận nghị can gián những quyết định đã được Hoàng đế thông qua, sau đó mới thành chiếu chỉ, xuống đến Lục bộ. Cũng chính vì lẽ này mà quyền lực san đều, vừa kìm hãm vừa phối hợp lẫn nhau, không để cá nhân nào nắm trong tay quá nhiều quyền lực, dẫn đến thảm trạng thao túng triều đình. Pháp chế, triều cương của Tấn triều gần như là hoàn toàn tương đồng với Minh triều, dưới Hoàng đế có Nội Các, dưới Nội Các có Tả tướng Hữu tướng khắc chế lẫn nhau, Nội đình mặc dù có Thập Nhị giám, lại không có Thiệp chính.
Hoàng đế vẫn là Quân chủ cao cao tại thượng, phía dưới có Tả – Hữu phò trợ lại khắc chế lẫn nhau, cơ hồ là làm thành một khóa sắt, không thể nào có sơ hở cho quyền thần lộng hành.
Nhưng rồi lại vẫn có một câu hỏi chưa có lời giải.
Ngôi Trữ quân có nên để trống hay không?
Không nên. Vậy nếu như lập, lập ai?
Với năng lực nhìn thời thế của bá quan trong triều, những năm qua đã sớm nhìn ra được Hoàng đế và Tiêu Thận có ý hướng về Lục điện hạ Đường Đại. Thân phụ của Đường Đại là Hoàng đệ cùng chi với Hoàng đế. Năm ấy tước Vương bị giáng xuống thành Quận Vương, cũng là do hắn và Nhan Hoài Tín đối nghịch, bị Nhan Hoài Tín lợi dùng thiên thời mà xúi giục thao túng đám Ngự Sử buộc tội. Sau, Nhan Hoài Tín thoái ẩn quan trường, Trưởng tử Nhan Tốn nối theo gót cha, cầm hốt của Hữu tướng quyền cao chức trọng, tâm tư thâm sâu, đã nhìn ra được nếu Đường Đại đăng cơ, án của đời trước rồi sẽ lần nữa bị mang lên. .
||||| Truyện đề cử: Boss Hung Dữ – Ông Xã Kết Hôn Đi |||||
Nhan Tốn, dường như nghiêng về phía Lâm Xuyên Quận vương Đường Diễm. Sinh phụ của Đường Diễm, Thọ Vương, phong đất xứ Điền Nam, nơi ấy khó có thể coi là đất lành phì nhiêu, mà còn có thể nói là đất phong thủy không lành. Thời điểm Đường Diễm nhập cung làm dưỡng tử của Hoàng đế, khi ấy hắn đã mười tuổi, hiểu được ai là thân sinh phụ mẫu, gì là huyết nhục tình thân. Tuy rằng cung kính quỳ lạy khấu đầu gọi ‘phụ hoàng mẫu hậu’, thế nhưng trong lòng hẳn là phải có phụ mẫu thân sinh. Thọ Vương ở đất Điền Nam xa xôi, trong Hoàng cung Yến Kinh này, Đường Diễm và Thọ Vương phi ngụ tại Cam Tuyền cung, cô nhi quả phụ dễ thao túng, dùng chút thủ đoạn, chẳng mấy chốc mà phục tùng.
Mỗi khi thiết triều nghị sự, Tiêu Thận và Nhan Tốn chưa bao giờ thôi căng thẳng. Quyền quyết định tối cao vẫn nằm trong tay Hoàng đế, Hoàng đế xuống chỉ liền xong xuôi – Chuyện đâu có đơn giản như thế? Hoàng đế vừa bày tỏ nghiêng về phía Đường Đại, đã có Ngự sử Đô Sát viện, dẫn theo Cấp sự trung Lục khoa, dâng tấu gián nghị, đương nhiên, chính là mang án cũ năm xưa ra, rằng thân phụ bị giáng tước, việc lập Trữ quân phải cân nhắc thận trọng. Cấp sự trung Lục khoa và Ngự sử Đô Sát viện này nắm trong tay lợi thế không nhỏ. Lục khoa cấp sự là cơ quan gián nghị, thậm chí còn có thể bác ý chỉ của Hoàng đế. Đô Sát viện là cơ quan giám sát tối cao, duy trì trật tự trong triều, mà Ngự sử của Đô Sát viện, đôi khi chỉ nói vài lời cũng đã đủ để tiễn một mạng người.
Con người là phàm nhân, không phải thánh hiền, ai sống trên đời lại không có sai lầm. Hoàng đế đăng cơ đã lâu, thế nhưng nhìn xuống bách tính cũng chỉ là nhìn qua những con chữ trong tấu chương mà triều thần dâng lên. Pháp chế triều cương rất chắc, nhưng giả như, nếu vẫn có lừa trên gạt dưới, cuối cùng vẫn là không thể nắm tường tận trong lòng bàn tay được. Dù là triều đại nào, có trung thần, ắt phải có gian thần, trước tiền triều dù cho là sóng yên biển lặng, nhưng ai dám chắc mạch nước ngầm không sôi sục?
Lại nói, Kim Lăng Nhan thị là dòng dõi thế gia vọng tộc, đã trải qua hơn hai trăm năm hương hỏa nghi ngút, có qua lại với danh sĩ uyên thâm chốn dân gian, được võ tướng quyền thần trong triều đình ủng hộ. Nhan Tốn ủng hộ Đường Diễm, việc này không có gì khó, nhìn vào hợp tình hợp lý.
Giả như, Hoàng đế vẫn cố ý muốn lập Đường Đại lên ngôi Trữ quân, có lẽ ngôn quan sẽ viết tấu từ quan, cởi mũ cánh chuồn, gấp lại quan phục. Nếu Hoàng đế cố chấp hơn nữa, rồi cũng sẽ nhận lấy tám chữ ‘trí tuệ hẹp hòi, chuyên quyền độc đoán’, sau này, tên trong sử sách khó trách được một vết nhơ.
Âu vì lẽ đó, Trữ vị vẫn bỏ ngỏ tới nay.
Suy cho cùng, ngôi Trữ quân này rốt cuộc là của Đường Diễm hay là Đường Đại – hết thảy những việc này cũng không có liên quan tới Thất điện hạ Đường Oanh. Sự tồn tại của nàng, cũng có thể coi là một bảo kiếm trừ tà dành cho Vị Ương cung, để bảo vệ che chở cho tôn tử hoàng tự. Tới nay Đường Oanh vẫn khỏe mạnh, quan hệ giữa Hoàng đế và Hoàng hậu cũng dần dịu đi.
– —
Mặt trời nhô lên, ban mai ló rạng.
Hoàng hậu tới búi tóc cho Đường Oanh, đứa trẻ này lại làm trò cũ, gục đầu trên tay nàng không chịu động đậy. Hoàng hậu nhìn ra âm mưu, rồi cũng chỉ cười cười: “Buồn ngủ phải không, buồn ngủ thì nằm xuống ngủ đi, Cẩn Thân điện cũng không cần phải tới nữa, ta cho người đi nói với phụ hoàng ngươi một câu là được rồi.”
Uy hiếp rõ ràng!
Đường Oanh mím môi: “Không cần… Gần đây tâm tình phụ hoàng rất tốt, rất có hứng đấy, nhi thần nào dám chọc phụ hoàng mất vui.”
Tiên hoàng hậu đã băng thệ được gần bảy năm, miếu hiệu đã định từ lâu, Hoàng đế vậy mà vẫn ngủ mơ thấy Tiên hoàng hậu, nhớ mong trong lòng vẫn chưa mấy nguôi ngoai. Có vài Ngự sử dám can gián nói thẳng, rồi lại chạm đến điểm cấm kỵ của Đế vương, Hoàng đế ban trượng đánh đến tàn phế. Đường Oanh chưa từng tận mắt thấy cảnh ấy, thế nhưng chưa từng nghĩ Hoàng đế lại tàn nhẫn như vậy, nhất thời cũng không khỏi sinh khiếp đảm sợ hãi.
Vừa dứt lời, đột nhiên Đường Oanh thấy mình bị đẩy một cái, đến lúc hoàn hồn đã nằm sấp xuống, cũng chỉ có thể ngước đầu lên dùng ánh mắt mờ mịt mà nhìn Hoàng hậu. Nét cười trên môi càng lúc càng sâu, Hoàng hậu đánh mông đứa trẻ, gọi là đánh, thế nhưng chẳng dùng mấy phần lực, coi như là lướt qua lớp vải mà thôi: “Không dám chọc phụ hoàng tức giận nhưng mỗi sáng thức dậy đều ở đây nghiêng ngả với ta, chính là cố ý bắt nạt mẫu hậu phải không?”
Đường Oanh biến ngốc trong chốc lát, mặt hồng lên, màu hồng giống với màu hồng của nắng sớm phía bên ngoài kia, mặt áp xuống chăn, tựa như chỉ hận không thể chôn đầu vào đó.
Tư thế này, lại còn bị mẫu hậu đánh, mất thể diện tới mức nào?
“Đau sao?” Hoàng hậu nghiêng đầu nhìn, thấy mặt đứa trẻ này đã hồng lên cả, ấp úng không nói nên lời. Tưởng mình quá tay rồi, nhíu mày muốn cởi trung y của Đường Oanh ra kiểm tra. Đầu ngón tay nàng lúc nào cũng lành lạnh, chạm tới bên hông khiến cho Đường Oanh bất giác giật mình, vội vàng giữ lấy bàn tay kia: “Không đau không đau, thoải mái…”
“Thoái mái?” Hoàng hậu nghi hoặc.
Đường Oanh hoảng, thực lòng thực dạ không hiểu hai chữ ‘thoải mái’ kia là từ đâu mà ra, bản thân nàng cũng không hiểu! Lồm cồm bò dậy, lui sâu vào góc giường, nấp phía sau đống chăn, giọng nói ấp úng: “Mẫu hậu đừng chọc nhi thần, nhi thần… da mặt mỏng.”
Nói đùa hay nói thật đây? Ngày ngày bám dính lấy ta, ta đuổi cũng không được, da mặt mỏng?
Hoàng hậu nghe, cười một tiếng, rồi lắc đầu. Lại ngồi vào gần một chút, kéo đống chăn xuống, dịu giọng dỗ dành: “Được rồi, mẫu hậu không chọc ngươi. Mau ra đây, coi chừng muộn giờ.”
Hai má vẫn chưa hết nóng, Đường Oanh vẫn không chịu đi ra.
Nụ cười của Hoàng hậu nhạt bớt, hạ giọng: “Tiểu Thất, đi ra.”
Hoàng hậu nói chuyện, trước nay đều là ôn thanh hòa khí, mỗi khi tông giọng thấp xuống, ắt sẽ khiến người ta cảm thấy uy áp. Đường Oanh đương nhiên thích được dung túng nuông chiều, thế nhưng cũng rất biết ơn mỗi khi Hoàng hậu nghiêm khắc, bởi vì nàng hiểu rằng chỉ có những người thật sự quan tâm đến ngươi mới có thể chỉ ra sai lầm thiếu sót của ngươi, thúc giục cho ngươi càng lúc càng trưởng thành. Mỗi lúc như vậy, Đường Oanh không oán trách, mà biết ơn.
Chẳng mấy chốc sau Đường Oanh đã lồm cồm bò ra. Hoàng hậu nhìn bộ dáng nhăn nhăn nhó nhó kia cũng cảm thấy thật buồn cười, lại chỉnh lại nếp tóc cho nàng. Cung nga đã vào điện chuẩn bị hầu rửa mặt thay y phục rồi, lại nghe Hoàng hậu nói với Đường Oanh: “Con trẻ nhà ai chưa từng bị đánh đòn, xấu hổ vì nỗi gì chứ. Mồ hôi ướt gáy rồi, lát nữa ra ngoài nhiễm lạnh, sinh bệnh cũng chẳng phải mình ngươi chịu khổ.”
Cung nhân nghe thế, có người cười khẽ. Chuyện này một truyền mười, mười truyền trăm, chỉ sợ toàn bộ trên dưới Vị Ương cung sẽ đều biết hôm nay Thất điện hạ bị đánh đòn.
Hoàng hậu nhận lấy khăn ấm, thấm mồ hôi sau gáy cho Đường Oanh, lại thấy vành tai nàng đỏ hồng lên, lập tức nghiêng đầu quét mắt nhìn quanh. Ánh mắt kia cực kỳ nhẹ, ấy thế mà khiến cung nga đứng đó lập tức cúi đầu mím môi. Hẳn là không cần nàng phải mở miệng dặn dò, cung nhân trên dưới sẽ tự biết mà giữ mồm giữ miệng, không để thể diện của Thất điện hạ da mặt mỏng như trường thành kia tổn hại dù chỉ một chút.
Văn Hoa điện nằm ở phía Đông Hoàng thành, lập nên, chính là để làm nơi cho Trữ quân tu dưỡng, nhiếp sự. Cung điện trong Hoàng thành đều dùng ngói lưu ly vàng rực, chỉ duy có Văn Hoa điện khác biệt. Theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, phương Đông thuộc Mộc, mà Mộc gắn với màu xanh của cây cối, sức sống tràn dầy, tự nhiên sinh trưởng. Tầng tầng lớp lớp mái ngói của Văn Hoa điện đều được dùng mái ngói lưu ly lục sắc, cũng có ý tứ rằng tổ tiên dòng dõi hoàng thất nhà họ Đường phù hộ che chở cho tôn tử, phúc khí dài lâu.
Phu tử, tên Thương Tán, là Đại học sĩ Hàn Lâm viện, xuất thân Trạng Nguyên nhất giáp năm Nhĩ Thuận, đức cao vọng trọng, là lão học sĩ mà mỗi người trong triều đều kính trọng.
Hôm đó Thương Tán vừa tiễn vài vị quan viên Hàn Lâm viện trẻ tuổi quay về Văn Hoa điện, từ xa đi tới, đi tới gần lại chợt nghe thấy tiếng của trẻ con: “Hôm qua môn sinh không dự giảng, hôm nay việc học chậm trễ. Môn sinh tạ lỗi, xin tiên sinh lượng thứ.”
Từ khi bắt đầu cầm trên tay sách vở, mỗi khi Đường Oanh vắng mặt, hôm sau tới đều sẽ đích thân tạ lỗi với Thương Tán. Hoặc là có sự khác, hoặc là do bệnh tật, vắng mặt không dự giảng cũng đều là uổng công sư phụ soạn bài, phụ lòng phu tử lo lắng. Người khác thay mình tạ lỗi và chính bản thân mình tạ lỗi, đều là tạ lỗi, thế nhưng khác biệt rất lớn. Thương Tán nghĩ, có lẽ là đứa trẻ này được Hoàng hậu dạy dỗ, dòng dõi thế gia vô cùng trọng lễ tiết, tôn sư trọng đạo là điều tiên quyết, tự cao tự phụ là điều tối kị.
Đường Oanh để nội thị đứng đợi ở phía xa, tự mình đứng ở chỗ rẽ này đợi Thương Tán. Vóc người nhỏ bé, nếu đứng cạnh người khác, sợ là sẽ bị bỏ qua. Thương Tán nghe tiếng quen thuộc, cũng theo đó mà nhìn về, nhìn thấy Đường Oanh, nhanh chóng tới đỡ đứa trẻ lúc này đang hành lễ sư đồ đứng thẳng dậy.
“Tiểu điện hạ vẫn khỏe mạnh chứ? Tiết xuân se lạnh, phải càng biết quan tâm tới sức khỏe của bản thân mới phải.”
Đường Oanh từ nhỏ đã yếu, mỗi khi Đường Oanh vắng mặt, Thương Tán sẽ tự cho là đứa trẻ này lại mệt mỏi không khỏe rồi, đâu biết rằng hôm qua nàng ở Vị Ương cung ngủ tới lúc mặt trời lên lưng chừng mới dậy. Đường Oanh bước bên Thương Tán, bước chân chầm chậm, vô cùng cẩn thận quan tâm đến lão nhân gia, lại nói: “Để tiên sinh lo lắng là lỗi của môn sinh, nhưng cũng là điều khiến môn sinh vui vẻ. Tiên sinh tuy rằng sức khỏe kiện khang, tinh thần phấn chấn, thế nhưng cũng phải chú ý y phục cho ấm mới được.”
Thương Tán xưng là học giả Nho giáo, đương nhiên để ngoài mắt đám phe phái quan lại trên tiền triều, nếu không phải vì lưu luyến tàng thư ở Văn Uyên các, hẳn là cũng đã sớm mai danh ẩn tích từ lâu. Tả tướng và Hữu tướng, đảng phái phân tranh, Trữ quân bỏ ngỏ, ngoại thích loạn chính,… vũng nước đục chốn triều đình này, đối với Thương Tán hết thảy cũng đều như mây khói mà thôi.
Người cầu thị ham học hỏi yêu đạo lý, Thương Tán rất yêu thích. Người cầu thị ham học hỏi yêu đạo lý lại thông hiểu lễ tiết, hắn càng trọng. Nói chuyện vài ba câu với Đường Oanh, Thương Tán cười thành tiếng, gương mặt đã in hằn những vết nhăn nheo, khi cười lên tràn đầy hòa ái. Vừa bàn chuyện công khóa, hai bóng lưng một lớn một nhỏ, cùng bước bên nhau đi vào chính điện.
– — Hết chương 10 —
Editor mạn đàm: Bệ hạ da mặt “mỏng như tường thành” với bán manh không nên nết trong nhà thôi chứ ra ngoài vẫn là có mặt mũi lắm, điện hạ cứ đùa.
Trận Cai Hạ năm ấy,
người Sở nghe khúc Sở
Thương Tán vốn còn muốn tới Noãn các dâng hương lên hương án của Khổng Thánh nhân, vì vậy nên chỉ dẫn Đường Oanh tới trước cửa điện. Văn Hoa điện không bày bàn ghế cao, chỉ có bàn thấp và đệm gấm, lúc vào điện phải cởi giày, ngồi khoanh chân sau án gỗ.
Nội thị đứng ngoài hầu Đường Oanh cởi giày xong, nàng chắp tay trước người, chầm chậm tiến vào.
Thị đọc[1] đều là do Hoàng đế chọn từ tôn thất trong Hoàng tộc, hoặc có dung mạo thanh tú, hoặc có phong phạm đoan chính, nhất định phải có điểm nổi bật. Đường Oanh bước vào, lập tức nhận được đủ loại câu hỏi về việc vắng mặt ngày hôm qua, nào là cớ gì lại xin nghỉ, do đâu mà đổ bệnh, nào là đã uống thuốc hay chưa.
[1]: Người phụ việc bút nghiên cho Hoàng đế, hoặc phụ giúp/học cùng các hoàng tử, hoàng nữ.
Đường Oanh năm tuổi, da dẻ trắng nõn khả ái, giọng nói êm ái, ngôn ngữ linh hoạt, mỗi khi cười liền có thể nhìn thấy hai lúm đồng tiền, khiến cho người nhìn cũng cảm thấy vui vẻ thay. Một hồi sau Thương Tán đã quay trở lại, yên lặng đi vào, thấp thoáng nghe được Đường Oanh đang trò chuyện với các thị đọc, cũng bất giác mà cảm thán trong lòng: “Vẫn nói dòng dõi tôn quý thì ắt sẽ minh tuệ, có điều đứa trẻ này như vậy, nếu không tai nghe mắt thấy sợ rằng cũng khó mà tin.”
Hôm nay Thương Tán giảng Đại Học[2] và Thượng Thư[3].
[2]: Cuốn đầu tiên trong Tứ Thư.
[3]: Hay còn gọi Kinh Thư, một trong Ngũ Kinh
Đường Oanh ngồi sau bàn, khoanh chân thẳng lưng chăm chú lắng nghe, thị đọc ngồi cạnh bên, mỗi khi nàng muốn chép sẽ trải giấy, mài mực. Đường Oanh thường cố nhớ lấy, không viết xuống, thứ nhất tay nàng còn nhỏ, cầm bút không tiện, thứ hai nàng mới học đến năm hai, viết quá nhiều sẽ thành không hay.
Hàng đầu tiên có ba bàn nhỏ, ba đệm gấm, thứ tự lần lượt là Lâm Xuyên Quận vương Đường Diễm, Lục điện hạ Đường Đại, và Thất điện hạ Đường Oanh. Ấy thế mà hôm nay Đường Đại không tới, Đường Oanh nghi hoặc trong lòng. Xưa nay việc học tập tu dưỡng là việc tối quan trọng, từ phi cáo bệnh, hoặc là có chuyện vạn không thể tránh, bằng giá nào cũng phải tới dự giảng.
Vậy thì hôm nay Đường Đại kia có việc gì lại không tới? Sẽ không lấy lí do ốm yếu đấy chứ?
Nhưng rồi không bao lâu sau đã thấy Đường Đại lững thững đi tới, đứng trước cửa điện chờ đợi. Nội thị vào thông báo, Thương Tán cũng vẫn chỉ để đứa trẻ đứng ngoài đợi mà thôi, cho tới khi giảng xong chương sách, cho lớp tạm nghỉ, lúc ấy mới để Đường Đại đi vào.
Bây giờ Đường Đại đã cao hơn xưa nhiều, vậy mà gương mặt vẫn bầu bĩnh, khiến người ta nhìn cảm thấy thoải mái dễ gần. Đường Đại tiến vào, lạ thay lại chẳng còn mang dáng vẻ tươi cười thong dong như thường ngày, hôm nay trầm lặng, tựa như, còn mang mấy phần buồn đau.
Thương Tán đương nhiên đã nhận ra sự khác thường, ôn tồn hỏi đứa trẻ cớ gì lại đến muộn.
Tuy nói là được nghỉ ngơi sau kết chương, thế nhưng trong điện vẫn là yên tĩnh vô cùng, không có tiếng nói chuyện. Nghe sư phụ hỏi, ánh mắt của mấy đứa trẻ cũng đều dồn lại đây.
Đường Oanh chống cằm nhìn, cũng nghi hoặc trong lòng. Lục ca ca của nàng là kiểu người khó buồn dễ vui, nàng hiểu rõ. Còn nhớ năm ấy Đường Oanh và Đường Đại bắt đầu một mối giao tình huynh muội bắt đầu từ việc ‘ta mời muội ăn nhưng ta lỡ ăn hết rồi’, Đường Oanh đoán, khiến cho hắn u sầu như thế, chỉ sợ là đã bị Tuyên Thành Quận vương phi phạt không cho ăn điểm tâm. Nhưng vì chuyện này mà đến muộn như vậy, hoàn toàn không hợp lý.
Thương Tán hỏi xong, cả điện rơi vào trầm lặng, dường như chỉ còn tiếng Đường Diễm vẫn lật sách đều đều và tiếng những người còn lại khe khẽ hít thở mà thôi. Không khí quỷ dị như vậy, cuối cùng lại bị một câu nói dọa người của Đường Đại đánh vỡ:
“A cha bệnh không khỏi, qua đời rồi.”
Thời gian như dừng lại một khắc. Cung nga nội thị quay sang nhìn nhau, trong ánh mắt nồng đậm sự nghi vấn khó tin. Thị đọc ngồi bên, không khỏi trợn mắt chẳng dám tin, ngay đến Đường Diễm vốn là đang ung dung lật sách đều đều, bây giờ cũng đã dừng động tác mà ngẩng đầu nhìn về phía này.
Nỗi đau mất cha là nỗi đau không thể cứ đấm ngực siết tay là có thể áp chế, Đường Đại lúc này chẳng quản đến những ánh mắt đang dồn về phía hắn nữa rồi, câu hỏi của Thương Tán như một ngòi nổ, châm lửa, khiến cho hắn phát tiết, bây giờ mới có thể khóc rống lên. Hắn vừa khóc còn vừa hỏi: “Tiên sinh thường dạy ‘Nhân vô tín bất lập'[2], đạo lý này môn sinh hiểu, nhưng chẳng lẽ a cha không hiểu hay sao? Ông ấy gạt ta, ông ấy gạt ta! Năm ấy khi tiễn ta lên xe ngựa a cha đã hứa phải đợi ta trở về, trở về nhà rồi sẽ dẫn ta đi săn, sẽ dạy ta cưỡi ngựa! Rõ ràng đã hứa rồi!”
[4]: Khổng Tử dạy ‘nhân vô tín bất lập’, tức, không có tín thì không đứng được ở đời.
Tiếng khóc của Đường Đại khiến người ta nghe vào tai mà đau lòng, ngay đến Thương Tán, đôi mắt cũng đã phủ sương. Rồi lại ôn tồn trầm giọng: “A cha của Điện hạ là Bệ hạ, Tuyên Thành Quận vương là thúc phụ mà thôi.” Rốt cuộc lại nói câu ấy, những lời đồng tình an ủi lại đều giấu xuống hết cả.
“A cha còn trẻ như vậy, khi ấy a cha có thể giương cung bắn chết con nai cách xa trăm bước, còn hứa sẽ tặng cho ta một con ngựa hoang rong ruổi ngàn dặm, để ta thỏa sức thuần phục. Còn trẻ như vậy… A cha còn khỏe mạnh như vậy, sao cứ nói đi là đi?”
Hoàn cảnh này của Đường Đại, nói theo sách vở chính là ‘thiên nhân vĩnh cách'[3], bốn chữ này ngắn ngủi mà đem đến sức nặng lớn lao, đủ sức để nghiền nát thân thể chưa trưởng thành của hắn, khiến cho hắn bừng tỉnh ngộ ra – lời cha nương nói năm ấy, nói rằng nhập cung học tập vài năm sẽ về nhà, hết thảy đều là dối gạt. Có những câu hỏi không chỉ dành cho riêng mình Đường Đại. Ở nơi này, phải làm thế nào mới có thể tìm ra một tia hy vọng, một con đường ngay trong dối trá lừa gạt, để rồi trong bi kịch vẫn có thể mỉm cười, để có thể tự vỗ về an ủi linh hồn khi đang đứng trước vách đá sâu thẳm tối tăm?
[5]: Đồng nghĩa với ‘sinh ly tử biệt’, ý rằng sống chết chia lìa, không bao giờ có thể gặp lại thân nhân.
Đường Đại đứng lên, tay nhỏ nắm lấy vạt giao lĩnh của Thương Tán. Người này là sư phụ của hắn, là tấm gương để hắn noi theo, dạy hắn thế nào là đối nhân xử thế, thế nào là làm người quân tử. Đường Đại ngửa đầu nhìn lão học sĩ đức cao vọng trọng, trong đáy mắt toát ra niềm tin và mong chờ, hỏi: “Tiên sinh, a nương chỉ gạt ta thôi phải không? Mấy ngày trước ta không chăm chỉ đọc sách, a nương giận, nói như vậy để gạt ta, khiến ta sợ hãi có phải hay không?”
Chuyện liên quan đến sinh mạng, lừa gạt như thế nào được?
Thương Tán trầm mặc không đáp, chỉ có thể cúi đầu nhìn xuống, bàn tay đầy những nếp nhăn và vết đồi mồi vỗ vỗ bàn tay Đường Đại, khe khẽ buông một tiếng thở dài. Đây chính là câu trả lời chân thực nhất, chính xác nhất, nhưng cũng tàn khốc khó chấp nhận nhất.
Những người đang có mặt trong Văn Hoa điện này, là nội thị cung nga thì có thể là bước vào đây để cầu vinh hoa phú quý, chấp nhận xa xứ vài năm, là thị đọc thì là thế nữ thế tử, phụng mệnh nhập cung, cũng là bất đắc dĩ.
Không khí trầm trọng vô cùng, có thị đọc không kìm được mà thấp giọng nức nở, cũng như ở trận Cai Hạ năm ấy, người Sở nghe khúc Sở vậy.[6]
[6] (Điển cố) Trận Cai Hạ, Sở – Hán giao tranh, Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng vương vừa kinh hoảng vừa bi thương.
Thường ngày Đường Diễm trầm ổn nội liễm đến mức ơ thờ lạnh nhạt, lúc này cũng phải mím môi, ánh mắt lấp lóe tia đau thương.
Mà Đường Oanh, vốn đã cho rằng mình vô duyên với thân tình sâu nặng, nhìn cảnh trước mắt Đường Đại khóc không thể dừng, đáy lòng lại âm ỉ một ngọn lửa. Nàng lại nhớ về phụ mẫu thân sinh lúc này vẫn đang ở đất Cô Tô. Sự tưởng niệm theo tiếng khóc của Đường Đại mà lên xuống, cũng chỉ nhẹ nhàng mờ nhạt như gió xuân thoảng qua mà thôi, thế nhưng không chịu dứt. Nàng vẫn còn nhớ gương mặt tươi cười ấm áp của phu phụ Tĩnh Viễn Quận vương.
Tình cảnh như thế, non nửa buổi học còn lại cũng đành bỏ, lại có nội thị vào báo hôm nay thính chính ở Cẩn Thân điện đã hủy rồi, hẳn là cũng liên quan đến chuyện Tuyên Thành Quận vương tạ thế.
Vô tri vô giác, Đường Oanh về tới Vị Ương cung lúc nào cũng không hay. Về tới nơi rồi mới biết Hoàng hậu không có ở đây. Thở dài một hơi, nàng dùng bữa trưa cho qua loa, sau đó lững thững đi vào tẩm điện, đóng cửa không cho ai vào.
Chăn ấm đệm êm, rèm che trướng rủ. Cửa sổ hé mở, gió xuân phất qua, lụa là bay bổng. Nàng nhìn xung quanh, cảm thấy mình như đang bị nhốt trong một cái lồng xa hoa sang quý. Trầm hương vừa đốt, khói tỏa lượn lờ. Hương trầm này có công dụng an thần tĩnh trí, nhưng trong tâm trí nàng lại chỉ nghĩ đến những tháng ngày còn ở Cô Tô, nàng nằm trong nhà, cha nương ở ngoài nhóm lửa thổi cơm, mùi củi lửa lượn lờ quanh sân, bay vào nơi nàng nằm.
Thân sinh phụ mẫu, gắn kết đến vậy, đạo lý vẫn nói rằng dù có hoán dung đổi cốt cũng không dứt bỏ được cốt nhục tình thân. Sao nàng có thể quên được? Đường Đại cũng chỉ hơn nàng có ba bốn tuổi, nghĩ tới phụ thân hắn hẳn vẫn còn đang ở tuổi tráng niên khỏe mạnh, buông tay trần thế vội vàng như thế thật khiến người ta khó lòng tin tưởng chấp nhận nổi. Nhưng rồi ở thời đại này, quả thực sống chết đành phó mặc cho mệnh trời, huống hồ Tuyên Thành quận vương chỉ có một đứa con trai duy nhất, cứ thế bị Hoàng đế đoạt đi, có lẽ là tưởng niệm nhung nhớ, sức khỏe cũng suy sụp.
Nghĩ thế, Đường Oanh ngồi bật dậy, càng lo lắng trong lòng. Rồi nàng lại lắc đầu, quyết định không nghĩ nữa, ánh mắt chuyển đến bức tượng đất năm ấy khi nhập cung Hoàng hậu đưa cho nàng. Vì sự an nguy của Hoàng quyền, tránh chính biến đe dọa đến Đế vị, tôn tử được chọn đưa vào trong cung không thể xưng thân sinh phụ mẫu hai tiếng cha nương được nữa, phải xưng theo bối phận trưởng ấu, càng không thể lui tới thăm nom, ngay cả thư từ cũng không dễ trao đổi. Đường Oanh lại nghĩ, mình đã ở đây, vô luận có suy nghĩ gì trong lòng, nhất định phải giấu giếm không để lộ ra, khiến Hoàng hậu biết được. Từ nhỏ cho đến nay, nàng muốn thứ gì, Hoàng hậu sẽ cho nàng thứ ấy, bảo vệ che chở, quan tâm thật lòng. Giả như để Hoàng hậu biết được nàng đang nghĩ về thân sinh phụ mẫu, Hoàng hậu với tư cách là Dưỡng mẫu, chắc chắn sẽ không nói ra, nhưng há lại không suy nghĩ sâu xa? Thứ nữa, Hoàng hậu là người vô cùng trọng quy tắc, có rất nhiều những giới hạn mà Đường Oanh không thể chạm tới được.
Ngẫm nghĩ, Đường Oanh mím môi, bàn tay nắm lấy chăn – Dù có như thế nào cũng không thể để mẫu hậu phải bận lòng suy nghĩ, phải khó chịu trong lòng. Vốn đã là việc được định đoạt sẵn, suy nghĩ nữa cũng được ích lợi gì? Không được nghĩ, cũng không được tỏ, càng không thể để mẫu hậu biết được.
Đường Oanh lại nằm xuống, duỗi thẳng chân tay, kéo chăn lên phủ kín đầu. Trong chăn tối tăm một mảnh, hơi thở càng lúc càng nặng nề, hô hấp càng lúc càng khó khăn, mà tâm tư xao động của nàng cũng càng lúc càng bình ổn, bỗng trở nên sáng suốt minh mẫn. Trong bóng tối ấy nàng như thể vẫn có thể cảm được một luồng hương thanh nhã sơ lãnh thoảng về phía này, quanh quẩn bao trùm, là loại khí tức nàng đã sớm quen thuộc.
Người nọ cúi đầu, gọi một tiếng: “Tiểu Thất.”
– — Hết chương 11 —
Editor mạn đàm:
Mần bộ này mà tôi phải bookmark Zhidao với Baidu, toàn những thứ wikipedia không có *thở dài* Đây có phải là vừa chơi vừa học thêm kiến thức trong truyền thuyết?