Vương Tử Ngược Bắc Em Xuôi Nam

Chương 45: Chặng Đường Tìm Nhau



Sáng hôm đó tại doanh trại ải Bạch Vân, lá cờ thêu chữ Vũ trên nền vàng tung bay phấp phới cùng với lá cờ thêu hình đầu voi và một lá cờ khác thêu hình cung thủ ngồi trên lưng ngựa. Khi những tràng tù và cất lên lanh lảnh, đội quân Tượng – Kỵ của Kinh Lạc cũng rầm rập tiến ra khỏi rừng hoa mận trắng, giáo gươm sáng loáng cả một góc trời.

Hai huynh đệ Trần Vũ và Trần Duy Hưng mỗi người cưỡi trên một con voi chiến lừng lững đi đầu, một tay cầm giáo, một tay phất cờ phướn Tượng Binh. Họ chia làm hai cánh trái phải, phía sau là đàn voi chiến đi xen kẽ từng hàng Bộ Binh cầm khiên, cầm gươm và giáo mác. Tống Hàn thì dẫn đầu Kỵ Binh, đảm nhiệm vị trí trung tâm trong đội hình chiến đấu, lá cờ Bộ Binh được hắn cắm sau lưng. Khác với Trần Vũ và Trần Duy Hưng đều đang dùng giáo, Tống Hàn lại sử dụng trường đao. Đội quân Kỵ Binh do hắn chỉ huy thì đã lăm lăm cung tên sẵn trong tay, chỉ chờ hiệu lệnh.

Phía đối diện, đoàn quân của Đại Thương cũng đã sẵn sàng.

Để đối phó với Kỵ Binh của Tống Hàn, Khung Tuấn lệnh cho Quảng Ngân Trình bổ sung Kỵ binh tinh nhuệ của Trích Nguyệt vào đội hình xuất phát thay vì chỉ dùng Bộ binh thuần túy. Sáng nay Đại vương tử đích thân lên ngựa, đứng tại vị trí trung tâm của đội hình Đại Thương, cứ như thể ngài đang nghênh đón người nào.

Kết quả, khi dõi mắt nhìn sang phe địch lại chỉ thấy ba vị tướng quân trẻ tuổi kia, Đại vương tử không giấu nổi một tia thất vọng.

Bất chợt, Trần Vũ, người lớn tuổi nhất trong dàn công tử thế gia nhà Tam Đại Soái nhìn thẳng vào mặt Khung Tuấn rồi phất cờ hô vang:

“Toàn quân nghe rõ! Quyết chiến vì Kinh Lạc, vì Đại công chúa!”

“VÌ KINH LẠC! VÌ ĐẠI CÔNG CHÚA!”

“QUYẾT CHIẾNNNNNNNNNN!”

Tiếng hô dậy lên như sấm rền, hòa lẫn với tiếng rống hùng dũng của bầy voi chiến và những tràng tù và cất cao.

Phía bên kia, Khung Tuấn khẽ nghiến răng.

“Lên!” Đại vương tử phất tay hô.

“LÊNNNNNNNNNNNNNNNNNNNNN!”

Từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy rừng gươm đao ào ào di chuyển, hai quân tràn vào nhau như hai con sóng khổng lồ.

Lửa can qua cuối cùng cũng cháy.

Cùng lúc đó trong lều Thống soái của ải Bạch Vân, Công chúa Vũ Miên đang ngồi uống trà cùng hai vị Đại soái Tống Cơ Long và Trần Lượng.

“Vũ Miên, trông con hơi mệt, có sao không?” Trần đại soái đặt tách trà tuyết cổ thụ còn vương vài sợi khói xuống bàn, đoạn ôn tồn hỏi.

“Dạ, con không sao đâu bác Lượng.” Vũ Miên ngẩng lên khỏi dòng suy tư rồi nhoẻn miệng cười.

“Khà khà, ông nói xem…” Tống Cơ Long hớp một ngụm trà to, sau đó quay sang nhìn Trần Lượng cười cười: “Ba thằng giặc đó chống đỡ được bao lâu?”

“Chí ít cũng phải một hai ngày!” Trần Lượng vừa vuốt chỏm râu bạc của mình vừa gật gù đáp. “Còn ông, ông nghĩ sao?”

“Tôi thì lệnh cho thằng nhà tôi, trước khi Nhạn Quân tham chiến thì đừng làm phiền cha mày ăn ngon ngủ kỹ.” Tống Cơ Long đặt chén trà xuống bàn đánh cạch một tiếng, thản nhiên đáp lời.

Vũ Miên nhìn hai vị Đại soái đáng tuổi cha mình đang làm màu qua lại rồi mỉm cười. Rõ ràng cũng đang lo lắng, thế nhưng vẫn giả vờ nói cứng như thể chẳng hề quan tâm. Nàng khẽ phẩy tay với một người cận vệ, ra hiệu cho người đó tiến lên rồi nhẹ nhàng hạ lệnh:

“Truyền Thùy Dung cho ta.”

“Rõ, Đại công chúa.”

Lúc này trên chiến trường, hai quân đã quần thảo nhau một hồi lâu.

Thống soái phe địch không lộ diện nên Đại vương tử cũng không tham chiến. Hắn chỉ cưỡi con chiến mã của mình, đứng trên triền dốc cao quan sát toàn bộ thế trận. Chiến thuật phá trận Tượng – Kỵ Song Hỗ của phía Đại Thương đã khiến Kinh Lạc bước đầu rơi vào lúng túng. Bầy voi bị đâm vào chân đau, thế là không ít con bắt đầu lồng lên chạy loạn, không giữ đúng thế trận gọng kềm. Nhiều con voi khác thì bị dây cột vật nặng của Đại Thương kéo ghì lại khiến chúng vùng vẫy cực mạnh theo bản năng, vô tình làm cho binh sĩ ngồi trên đầu voi mất quyền kiểm soát. Hai điều này khiến cho hai cánh Tượng Binh trái phải của huynh đệ nhà Trần đại soái hoàn toàn không phát huy được sức mạnh của mình, đẩy Kỵ Binh của Tống Hàn ở vị trí trung tâm vào thế khó. Kỵ binh từ Trích Nguyệt của phía Đại Thương lập tức thừa thế xông lên.

“Nhắm thẳng vào Kỵ Binh của địch!” Quảng Ngân Trình quát lên. “Luận Kỵ Binh, chúng ta nhất định thắng. Phá vỡ thế trung tâm của chúng!”

“Rõ!” Cánh quân Kỵ binh tiên phong bên Đại Thương hô vang, toàn quân nhất tề nhắm vào đoàn Kỵ Binh của Tống Hàn mà tràn đến.

Phía đối diện, Tống Hàn vừa quẹt mồ hôi đang vã ra trên trán vừa gào:

“Vũ! Hưng! Mau ổn định lại, mau! Bọn chúng sắp tới rồi!”

Người thứ tử Trần Duy Hưng vừa khản giọng chỉ huy cánh quân bên mình, vừa không quên quay sang trấn an Tống Hàn đang sốt ruột:

“Ông anh bình tĩnh! Bình tĩnh, đừng có quáng!”

Tống Hàn suýt chút nữa là ném luôn thanh trường đao của mình vào mặt Trần Duy Hưng.

“Giờ phút này mày đừng có nói mấy câu như vậy được khôngggggggg?”

Đột nhiên, Trần Vũ kéo dây thừng điều khiển con voi của mình đi sát về phía Tống Hàn rồi trầm giọng quát:

“Hàn, cho gọi đội cung thủ của Liêm Thanh lên phía trên này, mau!”

Tống Hàn chưa hiểu việc gì nhưng cũng vội vàng quay về sau ra hiệu. Đội hình phía sau nhìn thấy, ngay tức khắc đoàn quân mở lối tách ra hai bên cho toán cung thủ của Kinh Lạc di chuyển lên tuyến đầu.

Liêm Thanh mặt mày cũng đang phừng phừng lửa giận vì ngay trận đánh mở màn mà quân ta lại trên đà thua, khi vừa đến nơi đã không kiêng dè ba vị tướng quân mà hét luôn:

“Mấy ông làm ăn cái kiểu gì đấy? Giờ này mới cho gọi tôi lên?”

Trần Vũ hiếm khi nổi nóng, thế nhưng trong tình thế này hắn cũng ngay tức khắc quát luôn:

“Câm miệng, nghe kỹ! Theo hiệu lệnh của anh mày, rõ chưa?”

Đoạn quay sang hai người kia rồi quắc mắt: “Cả hai thằng bây nữa!”

Trần Duy Hưng cười hề hề: “Biết rồi anh hai! Chiến thôi!”

Trần Vũ hướng ánh mắt về phía toán Kỵ binh của Trích Nguyệt đang xông đến, trong ánh nắng chói chang, vị tướng quân nhếch mép:

“Chiến thôi!”

Dưới hiệu lệnh của trưởng tử nhà Trần đại soái, đội cung thủ của Liêm Thanh nhanh chóng tách ra hai bên, hòa vào hai cánh Tượng Binh trái phải rồi dâng lên cao. Kỵ Binh của Tống Hàn thì được lệnh lùi sâu xuống dưới.

Phía trên triền dốc, Khung Tuấn mở to mắt.

Cho đội hình trung tâm lùi xuống là biểu hiện đầu tiên của việc phe địch đang đuối sức, muốn tìm đường lui.

Giữa chiến trường, Quảng Ngân Trình cũng đã nhận ra điều này.

“Hừ, muốn chạy ư? Đừng hòng! Lên cho ta, lênnnnnnnn!”

“Liêm Thanh, nhắm cho chính xác!” Trần Duy Hưng gào to.

“Hừ, còn phải nói!” Liêm Thanh giơ cao tay ra hiệu rồi quạt xuống.

Họ muốn làm gì? Dùng cung thủ đốn ngã thế vũ bão của Kỵ binh Trích Nguyệt đang tràn xuống ư? Một loạt câu hỏi kéo qua đầu Khung Tuấn. Đại vương tử siết chặt hai tay, một hình ảnh từ rất lâu trong quá khứ bất chợt nảy ra.

Nhị đệ của hắn dùng tay quật gãy xương con sói lửa đầu đàn, sau đó một kiếm xuyên tâm mà giết nó. Trong cả quá trình, gương mặt Khung Dực không có chút gì là sợ hãi, lại còn phảng phất nét ngạo mạn của Chiến Thần Đại Thương.

Nếu có nhị đệ ở đây, nó sẽ làm gì?

Ràooooooooooooooooooooooo.

Mưa tên trút xuống từ hai bên.

Khung Tuấn giật mình, thế nhưng tất cả đã quá muộn. Trên con dốc cao, Đại vương tử sững sờ nhìn thế trận đảo chiều trong nháy mắt.

Tất cả những mũi tên mà đội cung thủ của Liêm Thanh trút xuống không phải hướng về phía Kỵ binh Trích Nguyệt, mà đều nhằm vào những sợi dây thừng đang ghì chặt bầy voi. Liêm Thanh quả không hổ danh là cung thủ hàng đầu dưới trướng Bộ Binh của Tống Cơ Long đại soái, chỉ trong một lượt bắn mà đã thành công giải thoát bầy voi chiến.

Phựt. Phựt. Phựt. Phựt. Phựt. Phựt. Phựt. Phựt.

Những con voi chiến được giải thoát cuộn vòi rống vang, bốn chân rầm rầm giáng xuống.

Hai vị tướng quân nhà Trần đại soái chỉ chờ có thế.

“Vào đội hình! Vào đội hình!” Trần Duy Hưng phất cờ rồi hét lên.

Trần Vũ đứng hẳn lên chiếc ghế mây trên lưng con voi mình đang cưỡi rồi hô một tiếng vang dội:

“Tượngggggggggggggggg! Quây!”

Bầy voi hai bên nhanh chóng nhập đàn, nhất nhất hướng về hai chủ soái đang phất cờ ra hiệu lệnh. Cùng lúc đó, Kỵ binh phía Đại Thương cũng vừa trờ tới.

Thế nhưng đón chờ họ không phải là một đội quân Kinh Lạc hỗn loạn mà là hai cánh Tượng Binh vách sắt thành đồng đang dần dần siết chặt vòng vây.

Lúc này Quảng Ngân Trình mới nhận ra, khi hắn cho Kỵ binh phe mình dâng cao đuổi theo đội Kỵ Binh của Tống Hàn, thực chất hắn đã đưa đoàn quân Đại Thương lọt sâu vào hai gọng kềm Tượng Binh mà Kinh Lạc đón sẵn.

Khung Tuấn nhắm mắt, nuốt xuống một ngụm đắng chát.

Khốn kiếp, dính bẫy rồi.

Trên chiến trường, Quảng Ngân Trình cũng chấn kinh trong lòng, thế nhưng hắn cũng không hổ là phó tướng của lão tướng quân Lưu Mục bao năm nay. Sau một thoáng nhíu mày suy nghĩ, Quảng Ngân Trình lập tức phất cờ rồi quay lại hét to với đội quân sau lưng mình:

“Tách ra hai phía, đối đầu Tượng Binh!”

Nghe lệnh, dàn Kỵ binh của Đại Thương ngay lập tức không dâng lên cao nữa mà nhanh chóng tách ra hai phía, trực diện chống trả hai cánh quân phe địch, còn bản thân Quảng Ngân Trình thì khoát tay ra hiệu cho một nhóm quân tiên phong đang đi đầu tiếp tục phóng ngựa lên cao, bám theo sát nút.

Hắn định làm gì?

Khung Tuấn cau mày, thế nhưng khi nhìn thấy Tống Hàn từ phía bên kia cũng đang xông đến, Khung Tuấn lập tức hiểu.

Quảng Ngân Trình muốn trảm tướng!

Thực lực của Tống Hàn vốn không quá mạnh, thế nên Quảng Ngân Trình muốn nhanh chóng hạ gục vị tướng quân chỉ huy của phía Kinh Lạc. Chỉ cần đầu Tống Hàn rơi xuống, sĩ khí quân Kinh Lạc tự khắc tan, đội hình cũng tự khắc loạn.

Như thể đoán được ý đồ của Quảng Ngân Trình, từ phía sau lưng Tống Hàn, đệ nhất cung thủ của Bộ Binh Kinh Lạc, Liêm Thanh, lập tức vụt ngựa sải vó phóng đến sát bên, tay lăm lăm tên sắt yểm trợ cho chủ soái.

Vúttttttttt. Kengggggggg!

Lại thêm một trận máu đổ đầu rơi.

Tiếng kim loại va vào nhau tóe lửa. Tiếng đao thương cắm ngập trong máu thịt. Tiếng người thảm thiết kêu, tiếng ngựa hí vang hồi, tiếng voi rống lên nhức nhối.

Đó đều là những ký ức mà người cầm binh khiển tướng phải mang nặng suốt cả cuộc đời.

Mặt trời bắt đầu chếch về phía tây, những chiếc bóng đổ dài trên mặt đất.

Đến chiều muộn ngày hôm ấy, khi thế trận hai bên vẫn đang giằng co quyết liệt và bắt đầu có dấu hiệu sa lầy, Khung Tuấn chợt nhận được chiếc đòn bẩy trợ lực mà hắn đã mong ngóng bấy lâu.

“Đinh Đại Đồng đến rồiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii! Nhạn Quân đến rồiiiiiiiiiiiiii!”

Binh sĩ của quân đồn trú Mạc Bắc hò reo vang trời.

Vút.

Trên chiến trường, Trần Duy Hưng vừa xoay mình tránh một thanh trường giáo từ đâu phóng tới vừa quay người lại nhìn về phía triền dốc cao. Liêm Thanh cũng đang bắn nốt ba mũi tên cuối cùng sau lưng thì chợt sững người nhìn về phía trước.

Một bóng đen cao lớn cưỡi ngựa vụt qua.

“Vũ! Cẩn thậnnnnnnnnnnnnnnnnnn!!!” Tống Hàn cách một quãng xa, chỉ kịp thảng thốt kêu lên một tiếng.

Phậpppppppp!!!

“Anh haiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii!!!” Trần Duy Hưng gần như chết điếng.

Trần Vũ phun ra một ngụm máu, sững sờ cúi xuống nhìn lưỡi đao đang cắm ngập bụng mình rồi từ từ khuỵu xuống.

Vị tướng quân trước mắt hắn hoàn toàn xa lạ. Đây… đây chắc hẳn là…

“Tại hạ Đinh Đại Đồng.” Vị tướng quân đó có gương mặt vuông vắn cương nghị, phảng phất chút phong sương có lẽ do hành quân dài ngày, tuy nhiên khí thế vẫn mười phần dũng mãnh. Hắn bình tĩnh kéo thanh đao ra, buông nốt từng chữ một: “Đến từ dải Chinh Sa, Nhạn Quân. Bắc Đại Thương.”

Hự. Trần Vũ gục xuống nền cỏ.

“Khôngggggggggggggggg!!!” Trần Duy Hưng phẫn nộ gào lên một tiếng khản cả cổ, đoạn nhảy xuống khỏi đầu voi rồi vung giáo lao tới.

“Bình tĩnh lại! Hưng! Bình tĩnh!” Tống Hàn giục ngựa phi nước đại sang, nỗ lực tuyệt vọng mà kéo Trần Duy Hưng lại.

Phía bên này, Liêm Thanh đã hết tên, thế là đành rút kiếm ra rồi mở đường máu dần dần tiến lại yểm trợ cho bạn. Vừa đánh, hắn vừa điên cuồng suy nghĩ.

Tại sao tên đó lại nhanh như vậy? Còn trâu nữa! Hóa ra đây chính là Nhạn Quân trong huyền thoại đó sao?

Đinh Đại Đồng thì vẫn một đánh hai, vừa đối phó với Trần Duy Hưng vừa đối phó với Tống Hàn mà vẫn chưa rơi vào thế hạ phong.

Từ trên cao nhìn xuống, Khung Tuấn cũng khấp khởi kích động đến mức toàn thân run rẩy.

Trước giờ bá tánh hay nói, Nhạn Quân đi như vũ bão, quả thật không sai. Đinh Đại Đồng vừa đến đã xông ngay ra tiền tuyến, vậy mà sức lực vẫn nhanh và mạnh như chưa hề trải qua quãng đường hành quân nghìn dặm. Cánh quân của hắn chẳng khác nào cơn lốc trên chiến trường, từ từ vực phe Đại Thương dậy, dần dần chuyển bại thành thắng.

Nhị đệ của hắn trui rèn được mãnh tướng như vậy sao?

Keng!

Đinh Đại Đồng dùng sức lực cực lớn của mình mà hất văng Tống Hàn ra xa. Tống Hàn bật dậy định xáp vào ngay lại, thế nhưng lại bị Quảng Ngân Trình bên phe địch nhào vào chặn đánh. Lúc này chỉ còn lại Trần Duy Hưng.

Đinh Đại Đồng thấy vậy, chẳng chần chừ mà vung đao lên chém tới.

“Anh hai, dậy! Dậy!”

Trần Duy Hưng đang nửa lôi nửa kéo Trần Vũ để cùng lùi xuống, lúc ngẩng đầu lên chỉ kịp thấy bóng đao lạnh lẽo lia ngang cổ mình.

Hắn chỉ kịp nhắm mắt lại theo bản năng.

Thôi xong. Mình lại là thằng đi trước.

Kenggggggggggggggg!

Tiếng kim loại va vào nhau chát chúa vang lên.

Sau một giây run rẩy đi qua, Trần Duy Hưng hé mắt ra nhìn, con tim thì đập bình bịch trong lồng ngực. Bên cạnh hắn, Trần Vũ mặt xanh mét vì đau và mất máu cũng đang gượng mở mắt, môi thì khẽ nhếch lên.

Vào đúng giây phút ngàn cân treo sợi tóc, lưỡi đao thép của Đinh Đại Đồng bị một lưỡi rìu bằng đồng chặn lại. Cán rìu rất dài, lại còn được chạm trổ hoa văn Kinh Lạc tinh xảo. Hai món vũ khí rung lên bần bật vì hai vị chủ nhân của chúng đang so găng đọ sức. Đinh Đại Đồng bất giác cắn răng, trong lòng thì chấn động. Người này…

Khung Tuấn dõi mắt nhìn từ xa, tim không khỏi chùng xuống một hồi.

Lại không phải là nàng.

“Khà khà khà!” Tống Cơ Long chắc tay rìu, mỉm cười nhìn Đinh Đại Đồng rồi gật đầu hữu lễ: “Tống Cơ Long, chủ quản Bộ Binh, Đại soái của Kinh Lạc.”

Vừa dứt lời, người lão tướng khẽ đổi trọng tâm của chân trụ rồi lắc mình một cái, dễ dàng thoát ra khỏi thế giằng co với Đinh Đại Đồng, đồng thời cũng khiến Đinh Đại Đồng mất đà chúi về phía trước.

“Cảm phiền vị tướng quân đây cho hai thằng cháu tôi lui xuống nghỉ ngơi một chút.” Tống Cơ Long không nhân cơ hội tấn công mà đợi cho Đinh Đại Đồng ổn định lại xong rồi mới ôn tồn nói tiếp:

“Tôi hầu ngài.”

“Cha!!!!” Cách đó không xa, Tống Hàn mừng rỡ kêu lên.

“Còn mày.” Tống Cơ Long liếc mắt nhìn trưởng tử của mình: “Mày thì đánh tiếp, chưa được nghỉ.”

Khi Trần Duy Hưng và binh sĩ khiêng được Trần Vũ về doanh trại, máu từ vết thương của vị tướng quân trẻ tuổi nhà Trần đại soái đã thấm đẫm cả chiến bào. Trần Duy Hưng trong lòng nóng như lửa đốt, vừa định quát tháo binh lính gọi nhóm quân y ra thì đã thấy Vũ Miên từ đằng xa đi đến. Bên cạnh Đại công chúa là một nữ tử.

“Đại công chúa!” Trần Duy Hưng mừng đến phát khóc. “Anh Vũ ảnh…”

Vũ Miên vội chạy đến xem xét, sau đó quay sang người nữ tử nãy giờ vẫn yên lặng đứng bên cạnh rồi ra hiệu cho nàng ta.

“Thùy Dung, trông cậy vào ngươi.”

Thùy Dung nhanh chóng gật đầu với Vũ Miên, sau đó ngồi thụp xuống xem xét hơi thở, vết thương của Trần Vũ một hồi, đoạn lấy từ trong mình ra một lọ thuốc nhỏ rồi đổ vào trong miệng hắn. Xong xuôi, nữ tử quay sang công chúa, tay dùng thủ ngữ “nói” một câu ngắn gọn.

Vũ Miên “đọc” xong, thở phào một cái rồi cười:

“Vậy thì tốt, em mau đi đi.”

Thùy Dung vỗ vai binh lính hai cái, bọn họ ngay tức khắc khiêng Trần Vũ vào trong căn lều quân y gần đó.

“Người con gái đó…” Lúc này, Trần Duy Hưng mới ngỡ ngàng thốt ra. “Có phải…”

“Đúng vậy.” Vũ Miên gật đầu xác nhận.

“Hơn nữa còn…”

“Đúng luôn.” Vũ Miên nói nhanh, sau đó đi đến bên chiến mã của mình.

“Hưng, nhớ làm theo kế hoạch.” Nàng nhảy phốc lên chiến mã, trước khi phóng đi bèn quay lại dặn dò. “Bình tĩnh. Có hai vị Đại soái ở đây, sẽ không sao hết.”

“Dạ, Công chúa!” Trần Duy Hưng hành lễ cho phải phép, sau đó lật đật chạy đến nắm lấy dây cương chưa cho Vũ Miên đi.

“Chị đi đâu mà gấp vậy?”

“Chị vòng về Nam Biên.” Vũ Miên khẩn trương đáp, giọng nói không giấu được niềm vui. “A Châu và Nguyễn Huỳnh báo tin, nay mai là họ đưa Ngọc Huyên về đến Nam Biên rồi.”

“Ngọc Huyên về rồi??? Thật tốt quá, tốt quá!”

“Chị đi đây!” Vũ Miên giật lại dây cương, trước khi phóng đi cùng con bạch mã của mình nàng còn nghiêm nghị quay lại nhìn người thứ tử con nhà Trần đại soái rồi hạ lệnh:

“Nhớ kỹ! Lúc nào cũng phải cắm cờ phướn của chị tại ải Bạch Vân!”

Những diễn biến sau đó của trận chiến không nằm ngoài dự liệu của bên nào. Nếu cánh quân của Đinh Đại Đồng giúp Đại Thương phá vỡ thế trận giằng co không hồi kết thì sự xuất hiện của Tống Cơ Long trên chiến trường đã kéo sĩ khí phía Kinh Lạc lên cao ngất. Dưới sự chỉ huy của vị lão tướng huyền thoại này, Tống Hàn và Liêm Thanh dần lấy lại bình tĩnh, sau đó cả hai kết hợp với nhau để phát huy được sức mạnh tối đa. Tống Cơ Long chẳng buồn dùng đến đội hình Tượng – Kỵ Song Hỗ vì nó đã bị Đại Thương khắc chế, có dùng cũng vô dụng. Vị Đại soái này dùng chính kinh nghiệm chiến trường và khả năng điều binh khiển tướng được đúc kết trong mấy chục năm đằng đẵng, tự mình đánh trống phất cờ, ra lệnh từng bước tiến lùi của đoàn quân. Nói cách khác, là lấy mưu địch dũng.

Điều này chính là mấu chốt.

Đinh Đại Đồng có sức mạnh, thế nhưng so mưu trí thì hắn không thể nào bì được với vị lão tướng này, thậm chí ngay cả Khung Tuấn và Quảng Ngân Trình cũng không tài nào sánh kịp. Bí kíp của tướng quân Lưu Mục để lại là chết, thế trận biến hóa khôn lường mới là sống. Chỉ có con người mới có thể nắm chặt vận mệnh trong tay mình, xoay chuyển càn khôn.

Hai quân đánh nhau đến bình minh ngày hôm sau mới ngừng. Đại Thương và Kinh Lạc tạm thời ngang sức, thắng bại bất phân.

Khi rút quân về doanh trại, Khung Tuấn dừng ngựa rồi xoay lại nhìn rừng mận trắng muốt phía xa, gương mặt đậm vẻ trầm ngâm.

Tại sao hắn lại có cảm giác rằng, Tống Cơ Long hôm nay như vô tình mà hữu ý tha cho Quảng Ngân Trình và Đinh Đại Đồng một mạng? Hắn căn bản là không dốc toàn lực, chỉ thủng thẳng ung dung mà đánh cho xong, ngay cả Trần Lượng cũng chưa thèm tham chiến.

“Thuộc hạ cho rằng phía Kinh Lạc đã có viện binh của Đại công chúa Vũ Miên, thế nên không cần vội đánh.” Khi họp quân trong lều Thống soái, Khung Tuấn nêu câu hỏi này ra, Quảng Ngân Trình đã tâu như vậy.

“Hơn nữa, đã có Nhạn Quân tham chiến rồi, bây giờ Kinh Lạc có muốn đánh nhanh thắng nhanh cũng e rằng không thể. Chi bằng cứ chậm mà chắc, bảo toàn lực lượng, hạn chế thương vong, sau đó lợi dụng lúc nào đó quân ta lộ sơ hở thì đột kích. Nếu là thần, thần cũng sẽ làm như vậy.” Quảng Ngân Trình giải thích thêm.

“Ừm.” Khung Tuấn suy nghĩ một chút rồi chầm chậm gật đầu. “Đinh Đại Đồng, ngươi thì nghĩ sao?”

“Thuộc hạ nghĩ… Tống Cơ Long chẳng qua là báo đáp chút ơn nghĩa vặt thôi ấy mà!” Đinh Đại Đồng gãi gãi tai rồi nói. “Chắc hắn cảm kích thuộc hạ không truy sát đến cùng hai người con của nhà Trần Lượng, thế nên nửa trận sau cũng không đuổi cùng giết tận.”

“Cũng có lý.”

“Đúng vậy Đại vương tử, chỉ mới là trận mở màn thôi, vội gì chứ?”

Khung Tuấn hạ mắt, lòng thầm nghĩ đi nghĩ lại câu hỏi này.

Vội gì?

Chẳng lẽ là vì… nếu không nhanh chóng dồn Kinh Lạc vào bước đường cùng, đến khi nào nàng mới chịu xuất hiện phân thắng thua cùng hắn?

“Hôm nay tới đây thôi. Mau chóng kiểm kê thiệt hại rồi chuẩn bị cho những ngày tiếp theo đi!”

“Tuân lệnh, Đại vương tử!”

Cũng trong ngày hôm đó, Trần Vũ, trưởng tử nhà Trần đại soái cũng từ từ tỉnh lại sau khi hôn mê cả ngày trời. Lúc ấy đã là giữa đêm, dế kêu ra rả ngoài sân.

Đập vào mắt hắn là bóng dáng một nữ tử có gương mặt tròn phúc hậu, hai mắt long lanh, trán còn điểm một nốt ruồi son đỏ tươi gần đuôi mày bên trái.

Nàng vận võ phục đơn giản, khăn lụa hình bán nguyệt vấn trên đầu thì tuyền một màu xanh lục, bên trên còn thêu một đóa bạch liên.

Bạch liên?

Trần Vũ khẽ nhíu mày, toan cựa mình ngồi dậy thì nàng đã nhoẻn miệng cười rồi nhẹ nhàng ấn hắn nằm xuống. Nàng lắc đầu, tỏ ý chưa được ngồi, sau đó dùng thủ ngữ mà nói với hắn một câu gì không rõ.

Trần Vũ xem không hiểu, chỉ ngơ ngác nhìn nàng.

Thùy Dung bật cười.

Nàng chỉ vào cổ họng mình rồi lại lắc đầu.

Em không nói được, em bị câm.

Trần đại tướng quân suy nghĩ một chút rồi dò hỏi thử:

“Em là người thứ tám trong Bạch Liên Ảnh Vệ của Đại công chúa Vũ Miên? Chính là cái người mấy năm nay phiêu bạt khắp Kinh Lạc tầm sư, học hết y thuật các miền? Em… chính là người đó?”

Thùy Dung gật đầu cười. Nhìn vào ánh mắt long lanh của nàng, Trần Vũ bỗng chợt nhận ra, dường như hắn hiểu những gì nàng “nói.”

Tướng quân tỉnh rồi, em mừng quá.

Trần Vũ lại ngẩn ngơ.

“Anh tỉnh lại khiến em vui à?”

Thùy Dung chợt đỏ mặt. Nàng trỏ tay ra ngoài lều, sau đó hấp tấp bỏ đi.

Vị tướng quân trẻ tuổi kia ngả đầu ra gối, môi khẽ mỉm cười, trong lòng chợt thầm biết ơn một đao của Đinh Đại Đồng.

Đi đánh trận lần này… hời quá.

Ngọc Huyên vừa ngồi xe vừa tự cưỡi ngựa đến ngày thứ năm thì đến Nam Biên. Đây là thành trì lớn nhất phía bắc của Kinh Lạc, chẳng khác nào Khúc Băng của Đại Thương. Từ đằng xa nhìn xuống, tòa thành này nổi bật bởi những cánh cổng sơn son đỏ rực chạy quanh dãy tường thành bằng đá xám cao vời vợi. Kiến trúc bên trong là dạng kiến trúc nhà vuông và thấp chứ không phải dạng nhà xây cao và có tháp nhọn như ở Khúc Băng hay Trích Nguyệt.

Ngọc Huyên ngồi trên lưng ngựa đưa mắt nhìn Nam Biên rồi bỗng giật mình, đoạn khẽ thở hắt ra một hơi.

Mình lại nghĩ đến Khúc Băng và Trích Nguyệt.

Mình lại nhớ đến Đại Thương rồi.

“Hoàng tử.” A Châu giục ngựa đến bên cạnh Tiểu Bạch rồi thưa: “Chúng ta vào thành sẽ nghỉ lại tư viện của tri phủ. Chậm nhất là ngày mai, Đại công chúa sẽ đến hội ngộ với ngài.”

“Ừm.”

Vào thành, cả đoàn cho ngựa đi thật chậm, riêng Ngọc Huyên thì ngồi xe để tránh gây ra động tĩnh quá lớn. Tạm thời thân phận của y vẫn được giữ kín, sau khi gặp Vũ Miên thì mới để nàng quyết định xem sao.

Ngọc Huyên vén rèm xe rồi ngẩn ngơ nhìn ra phố xá bên ngoài. Trang phục Kinh Lạc, tiếng nói Kinh Lạc, sắc màu Kinh Lạc, ngay cả mùi vị cuộc sống nơi đây cũng thấm đẫm hơi thở, văn hóa Kinh Lạc. Mùi xôi nếp nhà ai vừa chín, mùi gạch ngói ẩm mốc trong tiết mưa xuân, mùi hơi đất ngai ngái, nằng nặng, mùi sen thoang thoảng từ những gánh hàng hoa ven đường… Ngọc Huyên khẽ nhắm mắt, cảm nhận tất cả sức sống đang cuồn cuộn chảy trên mảnh đất này.

Thật khác với cảnh sắc, mùi vị của Đại Thương.

Nhưng cũng lại thật giống.

Suy cho cùng, sự sống ở nơi đâu cũng đều đáng quý như nhau, mà khung cảnh thái bình thịnh thế ở nơi đâu cũng đều đẹp đẽ như nhau.

Sáu năm trước khi anh hộ tống y về đến Trích Nguyệt, y vừa ngồi trong xe vừa tròn mắt nhìn ngắm khung cảnh phố xá hai bên đường. Cái gì cũng mới mẻ, lạ lẫm. Ngọc Huyên năm mười hai tuổi chợt thấy cuộn lên nỗi bất an mơ hồ. Như một bản năng hay điều gì không rõ, y dõi mắt tìm bóng lưng anh.

Vừa vặn, y bắt gặp một cái quay đầu.

Anh không nhìn thấy y, vì y đã thụp người xuống tránh đi ánh nhìn đó. Y vẫn còn dỗi anh chuyện anh bắt nạt y vài ba hôm trước. Thế nhưng vào đúng giây phút đó, y lại thấy ấm lòng.

Bộp.

Ngọc Huyên sững người. Hai giọt nước mắt đã nặng trĩu rồi rơi xuống ống tay áo màu lam.

Y tựa đầu vào thành xe rồi dần dần nhắm mắt.

Từ khi biết anh bặt vô âm tính, Ngọc Huyên đã mất ngủ trọn năm đêm liền.

“Huyên à… Huyên…”

Có tiếng gọi dịu dàng vang lên bên tai kèm theo một cảm giác hơi thô ráp đáp lên trên má. Ngọc Huyên mơ màng mở mắt. Khi đã dần quen với ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn lồng treo trong phòng, y mới nhìn rõ người trước mặt.

Chị Miên đang nhìn y cười, thế nhưng hai mắt thì long lanh ngập nước.

Ngọc Huyên ngay lập tức cảm thấy sống mũi và hai hốc mắt cay xè. Y bật dậy rồi nhào tới.

“Chị ơi… Chị ơi…”

“Không sao nữa rồi Huyên à… Em đã về nhà rồi. Em an toàn rồi, không ai có thể hại em nữa hết!” Vũ Miên sụt sùi ôm Ngọc Huyên, tay xoa xoa lưng y, vuốt tóc y mà nói.

“Chị Miên…”, Ngọc Huyên ngồi dậy nhìn Vũ Miên, đoạn lo lắng hỏi: “Chị có sao không? Chúng ta khai chiến với Đại Thương rồi phải không?”

“Ừm.” Vũ Miên gật đầu. “Em đừng lo. Em vất vả rồi, tạm thời cứ nghỉ ngơi dưỡng thương, mọi việc khác khoan nói tới.”

Vừa nói xong, nàng kéo Ngọc Huyên đứng dậy khỏi giường rồi đến bên bàn. Trên đó đã bày sẵn cơm nóng canh sốt từ lúc nào.

“Em ăn chút gì đi. Có cháo cá lăng, nấm hương xào miến dong, thịt bằm sốt gừng tỏi và một bát chè sen tuyết nhĩ nữa. Ăn đi cho mau khỏe, nào.”

Ngọc Huyên ngoan ngoãn gật đầu. Y nhìn mâm cơm tươm tất trên bàn với toàn những món ăn Kinh Lạc mà y đã nhớ mong bao năm, đoạn ngần ngừ một chút rồi đưa tay bưng lên chén cháo trắng muốt còn tỏa khói.

Đêm mồng một Tết, anh đã hứa sau khi xong việc sẽ ghé qua ăn tối cùng y.

Ngọc Huyên thấy đau đớn lại cuộn lên trong bụng, hai mắt cũng nặng trĩu. Y cắn môi cố nén, đưa chén cháo lên húp hòng che đi hai giọt nước mắt đang chực chờ rơi xuống.

Hớp cháo nóng hổi khiến Ngọc Huyên gần như bị bỏng. Y phun vội ra, ho sặc sụa, cùng lúc đó nước mắt tuôn ra.

Ngày xưa anh luôn thổi cháo cho nguội bớt rồi mới đưa sang cho y.

“Huyên à…”

Vũ Miên thở dài, giúp y đỡ chén cháo đặt xuống bàn, đoạn khẽ vuốt lưng cho y.

“Em cứ khóc đi, khóc ra hết đi. Có chị đây rồi.”

Ngọc Huyên nghe vậy thì không nhịn được nữa. Y đưa tay lên ôm mặt, nghẹn ngào khóc không thành tiếng. Lồng ngực trĩu nặng mấy ngày nay, đau đớn bị đè nén và giấu kỹ sau vẻ mặt điềm tĩnh suốt chặng đường trào ra như thác lũ. Y ôm chặt lấy Vũ Miên, hai bờ vai run lên bần bật.

“Chị ơi… huhuhuhuhuhuhuhuhuhu… Anh ấy vì em mà bỏ giang sơn rồi. Nhưng mà… nhưng mà em lại vì giang sơn mà bỏ rơi anh ấy!”

Vũ Miên thoáng cứng người trong một giây, thế nhưng nàng đã nhanh chóng ôm Ngọc Huyên càng chặt hơn.

Bên ngoài đã tối mịt. Thỉnh thoảng có gió giật khiến hai cánh cửa sổ gỗ rung nhè nhẹ. Có lẽ là một cơn mưa dông trái mùa.

Hơn một canh giờ sau mưa mới tạnh, Ngọc Huyên khi ấy cũng đã bình tĩnh lại, tuy nhiên cả người mệt lả, hai mắt thì sưng húp. Vũ Miên nhìn mà xót cả ruột, bèn lệnh cho Nguyễn Huỳnh mang vào một thố canh định thần.

“Huyên, uống đi.” Vũ Miên dịu dàng bảo.

Lần này Ngọc Huyên ngoan ngoãn uống gần cạn thố canh. Uống xong, y đặt chén canh xuống bàn rồi dùng chất giọng còn nghèn nghẹt mà hỏi:

“Chị Miên, người của chị có tin tức gì về anh ấy không?”

Vũ Miên tặc lưỡi, chầm chậm lắc đầu.

Ngọc Huyên rủ mắt, sau đó chợt ngẩng lên rồi nói:

“Chị Miên, em muốn đi tìm anh ấy.”

“Cái gì?” Vũ Miên sửng sốt, sau đó ngay lập tức nghiêm mặt: “Không được.”

“Ngọc Huyên, vất vả lắm chúng ta mới đưa được em về nhà, suýt chút nữa là em cũng mất mạng. Bây giờ em còn muốn quay lại bên đó để đi tìm Khung Dực sao?”

“Em không thể mặc kệ mọi chuyện như vậy được.” Ngọc Huyên chùi nước mắt đang rơm rớm chảy ra lần nữa. Cứ nghĩ đến anh là lòng y lại quặn đau.

“Ảnh… bây giờ không còn gì cả, không còn ai cả. Ảnh chỉ còn mỗi mình em thôi…”

“Cho dù có là như vậy, việc quay lại Đại Thương quá nguy hiểm! Kinh Lạc ta không thể mạo hiểm mất em lần nữa!”

“Chị ơi…” Ngọc Huyên mếu máo, nghẹn ngào nhìn Vũ Miên, đoạn run run vươn hai tay ra nắm lấy tay nàng. “Lúc này… lúc này chị đừng coi em là Hoàng tử Kinh Lạc, chị coi em là em trai của chị được hay không? Em… em xin chị mà!”

Vũ Miên lặng người, không thốt nổi câu nào.

“Chị Miên… Chị có biết sáu năm qua em làm thế nào mà chống chọi được hay không?”

“Đều là nhờ anh ấy.”

Ngọc Huyên nhắm mắt, nửa như hồi tưởng, nửa như nén đau thương.

“Thứ tình cảm vụng trộm, trái lẽ thường mà em dành cho anh ấy cũng chính là điều ích kỷ nhỏ nhoi em làm vì chính bản thân mình. Nó khiến em cảm thấy mình là một con người, không phải một món hàng bị đem ra trao đổi.”

Ngọc Huyên nén tiếng nghẹn ngào, nhưng sau cùng vẫn nức nở gục mặt xuống bàn.

“Chị Miên… chúng ta còn có nhau. Thế nhưng anh ấy… anh ấy bây giờ không còn ai cả!”

Vũ Miên mím chặt môi, hai mắt đỏ ngầu. Nàng khẽ quay mặt vào trong vách, không nói thêm gì nữa.

“Em… em cứ tưởng anh ấy sẽ theo lệnh Hoàng đế mà xuất binh thảo phạt nước ta. Em không biết anh ấy lại…”

“Chị ơi… huhuhu… chị ơi… Cho em đi tìm anh ấy đi mà…”

“Huyên à!” Vũ Miên khẽ đưa tay lên ngăn tiếng khóc rồi quay sang dịu dàng vuốt tóc em trai mình. “Cho dù có gặp lại hắn đi, em định sau đó thế nào?”

Ngọc Huyên ngơ ngác ngẩng đầu, im bặt.

Giây phút trầm mình xuống dòng Vạn Kiếp, y đã thật sự nghĩ mình chẳng bao giờ còn gặp lại anh. Thế nên bây giờ quả thật Ngọc Huyên cũng không biết, gặp anh rồi thì thế nào.

Trước đây cũng chưa từng nghĩ qua, vì vốn dĩ tương lai của bọn họ không tồn tại. Đúng ra nó sẽ chấm dứt ngay từ giây phút y được trao trả về quê hương.

Vũ Miên cũng không biết nói gì hơn, chỉ đành thở dài.

“Việc này… tạm thời đừng nhắc nữa, Huyên à.”

“Sáu năm qua em đã chịu khổ nhiều rồi, bây giờ chị và cha chỉ mong em yên ổn nghỉ ngơi. Em không cần phải lo lắng về bất cứ việc gì cả, thậm chí là cuộc chiến với Đại Thương.”

Vũ Miên đau xót vuốt má Ngọc Huyên, sau đó đỡ y sang giường nằm xuống, kiên quyết bắt y đi ngủ. Dường như Ngọc Huyên cũng đã mệt mỏi quá độ, y im lặng kéo chăn, trùm kín lấy bờ vai mình rồi nhắm mắt.

Vũ Miên không rời đi, chỉ lặng lẽ thổi tắt đèn.

A Châu đã bẩm, năm đêm liền Hoàng tử đều không ngủ được, có lẽ do sợ hãi một phen nên tâm lý bất an. Đêm nay, Vũ Miên ngồi bên giường canh cho Ngọc Huyên ngủ được một giấc tròn.

Vậy mà nàng làm không được.

Ngọc Huyên trở mình cả đêm. Khi thì y mê man, thế nhưng cứ chốc chốc lại choàng tỉnh. Lần nào Vũ Miên cũng ngồi cạnh giường dỗ dỗ cho y vào giấc lại, tuy nhiên cứ được tầm nửa nén nhang là y lại tỉnh. Mãi đến gần sáng Ngọc Huyên mới ngủ được lâu hơn, cơ mà gương mặt y vẫn không hề thư giãn. Hai đầu mày nhíu chặt, trán thì rịn mồ hôi, hai bàn tay co lại tự ôm lấy mình. Thậm chí trong cơn mơ, nước mắt y còn chảy ra ướt gối.

Vũ Miên cứ thế ngồi lặng người nhìn em trai mình cả một đêm dài.

Sáng hôm sau, Ngọc Huyên thức giấc đã thấy căn phòng trống trải chỉ có mình mình. Ngay cả Nguyễn Huỳnh sáng sáng hay vào hầu y rửa mặt, chải tóc và thay y phục hôm nay cũng chẳng thấy đâu. Ngọc Huyên cố nén nỗi ngạc nhiên kỳ quặc trong lòng, đoạn nhanh chóng xuống giường sửa soạn chỉnh tề.

Y đã về quê hương. Y phục được chuẩn bị sẵn cho Ngọc Huyên dĩ nhiên là tơ lụa hạng nhất chuyên dùng may hoàng bào, triều phục và các loại y phục khác dành cho hoàng thất. Ngọc Huyên nhìn qua hết thảy y phục, sau cùng chọn một bộ đơn giản nhất, chỉ có màu trắng tinh tươm, may bằng vải mềm. Ăn vận chỉnh tề xong xuôi, Ngọc Huyên khẽ đẩy cửa bước ra ngoài.

Bên ngoài là một khoảnh sân rộng rãi, ngập cỏ hoa và nắng ấm. A Châu có nói đây là tư viện của quan tri phủ Nam Biên, thế nên bài trí vô cùng tinh tế nhã nhặn. Vườn cây được chăm sóc kỹ càng, lại đang đúng dịp tiết xuân hoa đào nở rộ, lộc non mơn mởn, cây trái sum suê. Ở phía xa cuối vườn đoạn gần nguyệt môn có một mái đình nhỏ sơn son, Ngọc Huyên thấy chị mình đang ngồi bên bàn đá, bên cạnh là A Châu và Nguyễn Huỳnh đang đứng nghe chủ nhân căn dặn. Nghe thấy tiếng bước chân, Vũ Miên quay lại nhìn Ngọc Huyên cười, sau đó vẫy tay với y.

Sáng nay Ngọc Huyên đã khôi phục lại vẻ điềm tĩnh của mình. Bộ y phục trắng dành cho Hoàng tử làm y trông nghiêm trang nhưng cũng không kém phần nhã nhặn. Tóc y búi gọn, lại được cài chặt trong chiếc khăn lụa Kinh Lạc thêu chìm hoa văn hình rồng khiến Ngọc Huyên toát lên vẻ chững chạc hơn cái tuổi mười tám của y.

Mà nói cho đúng thì y cũng không còn nhỏ nữa. Ở Kinh Lạc, mười tám tuổi đã có thể thành gia rồi.

“Chị.” Ngọc Huyên ngồi xuống, nhìn thấy hai mắt trũng sâu của Vũ Miên thì khẽ cau mày đau xót. “Tối qua chị không ngủ luôn à?”

“Không sao, chút chuyện vặt thôi.” Vũ Miên cười, sau đó khẽ ra hiệu cho Nguyễn Huỳnh dọn bữa sáng lên. “Ăn với chị đi.”

Bữa sáng ở Kinh Lạc có rất nhiều món từ ngũ cốc. Hôm nay, trù phòng dọn lên món xôi đậu hấp với hạt sen, khoai từ chấm mật mía, bánh bột nếp dẻo nhân hoa nhài ướp đường, tôm xào gừng và một thố cháo trắng ăn kèm thịt kho.

Hai chị em vui vẻ ăn bữa sáng cùng nhau, không ai nhắc gì đến cuộc trò chuyện đêm qua.

“Hôm nay em muốn đi ra thăm đồng, có được không? Lúc đến đây, em để ý ngay trước cổng thành Nam Biên có nhiều ruộng lúa nước và vườn rau.” Ngọc Huyên bóc một củ khoai từ còn bốc khói, sau đó chấm vào bát mật mía màu nâu cánh gián rồi hỏi.

“Em biết nông vụ à?” Vũ Miên đặt bát cháo xuống rồi quay sang nhìn.

“Em không những biết, còn giỏi nữa nha!” Ngọc Huyên hất hất mặt. “Lúc ở Trích Nguyệt, Hoàng đế cho phép em vào thư các đọc sách. Em đọc rất nhiều, còn thử nghiệm thành công nhiều cách trồng hoa màu nữa.”

Vũ Miên mỉm cười, sau đó gắp cho Ngọc Huyên một chiếc bánh nếp dẻo thơm ngát hương nhài. Những việc này mật thám đều báo về, bao năm qua Vũ Miên đã biết.

“Em đi đi, A Châu và Nguyễn Huỳnh sẽ đi theo bảo vệ em.”

“Một người là được rồi.” Ngọc Huyên cắn miếng bánh, xua xua tay.

“Vậy để Nguyễn…”

“Để A Châu đi chị.” Ngọc Huyên nuốt xuống miếng bánh ngọt lịm, đoạn nhoẻn miệng cười. Y cũng ngẩng lên nhìn A Châu, sau đó từ tốn hỏi:

“Ngươi đi cùng ta, có được không?”

A Châu vẫn nghiêm mặt, đoạn nhìn Vũ Miên chờ lệnh. Vũ Miên hơi ngạc nhiên không rõ vì sao Ngọc Huyên chỉ định A Châu. Nguyễn Huỳnh là nam nhi, dù sao cũng tiện hơn, thế nhưng Vũ Miên vẫn gật đầu.

“Được chứ!”

Từ tư viện của tri phủ đi ra cổng thành, rẽ vào thôn nhỏ bên trái, men theo con đường đất hai bờ rợp bóng tre xanh đi chừng nửa khắc là sẽ thấy những cánh đồng bạt ngàn của Nam Biên. Ruộng lúa ở đây là ruộng lúa nước, khác với ruộng lúa mì, lúa mạch khô như ở Đại Thương. Xen kẽ với ruộng lúa là những ruộng khoai, ruộng dưa và rau cải đang cho hoa vàng phấp phới. Ngọc Huyên dừng ngựa, thả Tiểu Bạch tự do ăn cỏ non bên đường rồi thản nhiên xắn tay áo, cởi bớt áo ngoài, bỏ giày. Xong xuôi, y nhẹ nhàng bước xuống ruộng.

Bây giờ vừa ra Tết, lúa còn đang xanh non mơn mởn.

Ngọc Huyên bị làn nước xâm xấp và lớp bùn nhớp nháp dưới chân làm cho rùng mình. Vẫn còn lạnh quá! Y dừng tại chỗ một chút cho quen, sau đó mới bắt đầu lội nước, tiến lại chỗ những người nông dân đang tò mò đứng nhìn mình từ nãy đến giờ.

Đứng trên bờ dưới bóng tre râm mát, A Châu khoanh tay ôm kiếm, lạnh mặt nhìn.

Có vẻ Ngọc Huyên rất dễ dàng bắt chuyện và làm thân với người nông dân. Chỉ sau vài câu trò chuyện, bọn họ đã hồ hởi chỉ cho y xem cái này, kể y nghe việc nọ. Sau khi xem xét ruộng lúa một hồi, bọn họ còn dẫn y sang ruộng dưa và hoa cải bên cạnh, vừa đi vừa nói huyên thuyên không ngớt.

A Châu bèn đi theo bảo vệ y, nhưng do nơi đây ngay địa phận Nam Biên, cách xa chiến trường, nàng cũng không mấy khẩn trương mà chỉ duy trì khoảng cách không xa không gần.

Cả buổi sáng cứ thế trôi qua vùn vụt. Tận khi mặt trời gần đứng bóng, Ngọc Huyên mới vừa đưa tay quẹt mồ hôi trán vừa quay về chỗ rặng tre xanh, đoạn ngồi xuống đất nghỉ ngơi. A Châu thấy vậy bèn đưa bầu nước cho y uống rồi hỏi:

“Hoàng tử, chúng ta quay về cho ngài dùng cơm trưa chăng?”

Ngọc Huyên đang định đáp lời thì vừa đúng lúc đó, xe ngựa của tri phủ Nam Biên đã đưa cơm đến.

Tri phủ của thành Nam Biên tên Nguyễn Hoắc Xung, năm nay đã ngoài năm mươi tuổi. Hoắc Xung có dáng người mảnh khảnh gầy gò, làn da cũng sạm đen, râu tóc đều đã sợi đen sợi trắng. Từ hôm qua Ngọc Huyên vào thành, dù là y ngụ tại tư viện của chính mình, hắn lại chưa có cơ hội bái kiến. Chính vì thế nên sáng hôm nay khi biết Ngọc Huyên ra thăm đồng, lại hỏi trù phòng mới vỡ lẽ Hoàng tử không mang theo cơm trưa, tri phủ Nam Biên bèn canh giờ mà tìm đến.

Vừa xuống khỏi xe ngựa, Hoắc Xung đã lật đật chạy đến trước mặt Ngọc Huyên, hai tay giũ vạt áo toan quỳ:

“Tham kiến Hoàng tử, thần…”

“Tri phủ đại nhân, miễn lễ, miễn lễ.” Không để Hoắc Xung nói hết câu, Ngọc Huyên đã vội đứng lên, đoạn đưa tay ra nâng hắn dậy.

Hoàng tử duy nhất của Kinh Lạc trở về sau sáu năm bị địch quốc bắt làm con tin chính trị, Hoắc Xung dĩ nhiên phải buông mấy lời ca thán cho sự khổ cực của y, sau đó khéo léo bày tỏ lòng trung thành. Ngọc Huyên cũng mỉm cười hữu lễ vừa nghe vừa hỏi han tình hình bá tánh Nam Biên mấy năm nay, trước sau luôn dùng thái độ ung dung nhưng không kiêu ngạo, chừng mực mà không xa cách để chuyện trò với hắn.

Điểm mấu chốt là, từ đầu chí cuối Ngọc Huyên đều dùng lời ăn tiếng nói của Kinh Lạc, ngay cả giọng nói cũng không hề lẫn chút phong vị nào của Đại Thương.

Xem ra sáu năm qua, Hoàng tử cũng lớn khôn không ít.

Hoắc Xung nghĩ thầm trong bụng, đoạn khẽ khom mình tâu lên:

“Hoàng tử, cũng đã trưa rồi, thỉnh ngài vào trong xe ngựa dùng chút cơm canh. Tư viện đơn sơ, thức ăn không thể sánh với sơn hào hải vị trong cung, mong Hoàng tử rộng lòng lượng thứ cho.”

Nào ngờ, Ngọc Huyên lại mỉm cười nhìn hắn, giọng nói và gương mặt như toát ra vẻ cao hứng bất chợt:

“Lúc nãy ta có làm quen được với vài người nông dân, họ mời ta ăn trưa cùng, còn bảo là hôm nay họ có nhiều món ngon lắm. Vừa hay ngươi lại ở đây. Hay là, chúng ta mang thức ăn sang chòi lá ở ruộng dưa bên cạnh ăn cùng họ đi? Họ cũng không biết thân phận của ta. Nguyễn đại nhân… không ngại chứ?”

Đứng nghiêm chỉnh canh gác phía sau, A Châu nghe thấy lời này cũng bất chợt khẽ nhướng mày.

Việc này không hợp quy củ.

Quả nhiên Hoắc Xung cũng bị bất ngờ, thế nhưng hắn đã rất nhanh chóng ẩn đi chút cảm xúc vừa lóe lên trong mắt. Tri phủ Nam Biên lập tức cúi mình, tuân lệnh.

Bữa trưa hôm đó, nhóm nông dân ở ruộng dưa bên cạnh được một phen kinh hỉ. Họ không nhận ra Hoắc Xung nên chỉ nghĩ Ngọc Huyên và hắn là cha con hay chú cháu gì của thế gia nào trong nội thành, ngẫu hứng ra đồng chơi rồi dùng cơm một thể. “Cơm đạm canh bạc” nhà tri phủ Nam Biên chỉ có thịt lợn sữa muối chua ăn cùng dưa hành, chả tôm quấn lá lốt, gà hấp hành bóng mỡ, xanh mướt, canh thịt bò hầm thảo mộc, bánh nếp nhân thịt băm xay nhuyễn cùng nấm hương và một làn hoa quả, một khay mứt mận nhắm với trà sau khi bữa ăn kết thúc. Trái lại, “món ngon” mà toán nông dân đem ra thết khách chỉ có vỏn vẹn một mâm khoai mật vừa hấp chín, một bát đậu rán giòn ăn cùng một đĩa đọt lang xào tỏi và hai nồi cháo loãng.

Từ đầu chí cuối, Ngọc Huyên ăn uống trò chuyện cùng mọi người rất vui vẻ hòa hợp. Hoàng tử ăn mỗi món một ít, nhưng dường như có vẻ thích khoai mật hơn cả, còn nhường cơm canh cho người ta suốt. Tri phủ đại nhân thì có vẻ khá gượng gạo, cả buổi cứ như đang nhai cơm sống.

Ăn xong, Ngọc Huyên đứng lên đa tạ thịnh tình của quan tri phủ, lại còn tiễn hắn ra xe ngựa. Trước khi Hoắc Xung cáo lui, Ngọc Huyên cười bảo:

“Hôm nay dùng cơm cùng ngài, ta rất vui. Ngày mai ngài lại đến ăn cùng ta nhé?”

Những ngày sau đó, Ngọc Huyên không ra thăm đồng nữa mà chuyển sang đi thăm chỗ khác. Hôm thì y đi xem trại ngựa, trại voi chiến. Hôm thì y đi đến lò rèn, lò thuộc da. Hôm thì y đi trường học, còn ngồi nghe phu tử giảng bài cả buổi. Ngày nào tri phủ Nam Biên cũng canh giờ trưa để chạy đến nơi Ngọc Huyên đang ở, sau đó cùng Hoàng tử dùng cơm. Mâm cơm mà Hoắc Xung chuẩn bị vẫn đầy đủ món canh món chay món mặn, tuy nhiên hắn đã biết ý mà căn dặn trù phòng làm thức ăn đơn giản hơn nhiều.

Đến chiều ngày thứ năm, sau khi thăm xong phường đúc đồng và phường dệt vải trong thành, Ngọc Huyên ngỏ ý cùng Hoắc Xung tản bộ quay về.

Con đường quay về tư viện của tri phủ đi ngang ba con phố đông đúc náo nhiệt, sau đó đi vào một ngõ nhỏ đường đất, hai bên trồng toàn những giậu tơ hồng tươi tốt, giậu mướp đang trổ hoa rực rỡ. Ngọc Huyên vừa im lặng đi vừa khẽ cúi đầu, ra chiều đang suy nghĩ.

Hoắc Xung thấy vậy bèn cười nhạt, đoạn đằng hắng một tiếng rồi mở lời trước:

“Hoàng tử, ngài… có điều gì dạy bảo, xin cứ tự nhiên nói với thần. Mấy hôm nay ngài đi khắp nơi xem xét tình hình bá tánh Nam Biên, thiết nghĩ… cũng có không ít điều muốn răn đe.”

Lời nói rành rành có ý bất mãn.

Ngọc Huyên nghe vậy bèn dừng bước rồi quay sang nhìn Hoắc Xung. Tri phủ Nam Biên cũng không chần chừ, đĩnh đạc vén vạt áo, quỳ xuống ngay trên đường, sống lưng thẳng tắp.

Để xem Hoàng tử trẻ người non dạ này dạy bảo hắn cái gì.

A Châu trước sau vẫn luôn duy trì khoảng cách mười bước chân, lúc này thấy không khí hơi căng thẳng liền bước lên một chút, bàn tay kín đáo đặt hờ lên thanh kiếm giấu trong người.

“Tri phủ đại nhân.” Ngọc Huyên đăm đăm nhìn Hoắc Xung, đoạn nhẹ nhàng buông từng chữ một:

“Ta thực sự một lòng muốn học.”

Ngọc Huyên đưa tay nâng hắn dậy, sau đó mới chầm chậm bước lại một giậu mướp bên đường, vươn tay ra chạm nhẹ vào những chiếc lá xanh xanh. Lớp lông non trên lá vẫn còn mềm mượt.

“Ta đi xa sáu năm, ngày tháng sống ở Kinh Lạc không nhiều, những năm tháng trưởng thành đều dung thân nơi đất khách. Ta biết rõ ngài nghĩ gì. Ta mới quay về chưa được bao lâu, há lại có thể lên tiếng dạy bảo, răn đe gì ngài ư?”

Hoắc Xung hơi tái mặt, lập tức lại quỳ xuống dập đầu:

“Thần không dám!”

Ngọc Huyên xoay người lại, nhìn hắn mỉm cười.

“Mấy ngày nay ta thấy rõ, bá tánh Nam Biên dù sống cách chiến trường có hai ngày cưỡi ngựa, thế mà vẫn có một cuộc sống thanh bình, yên ấm. Lò rèn, lò thuộc da đều có tay nghề rất tốt. Trại ngựa chiến và voi chiến cũng cực kỳ quy củ, sạch sẽ.”

“Vả lại, bọn họ còn nhận ra ngài.”

Hoắc Xung ngẩng lên nhìn Ngọc Huyên, trong lòng đã biết Hoàng tử muốn nói cái gì.

“Ngài coi trọng việc quân, việc sản xuất nên thường lui tới. Những người ở lò rèn, lò thuộc da, trại ngựa, trại voi, phường đúc đồng, phường dệt vải trong nội thành đều nhận ra ngài. Còn nông dân ngoài ngoại thành thì không.”

Tri phủ Nam Biên cúi đầu: “Thần biết tội.”

Ngọc Huyên ngạc nhiên nhìn hắn, sau đó lại tiến đến nâng hắn dậy:

“Đó sao lại là tội chứ?”

Hoắc Xung ngỡ ngàng ngước lên, chỉ bắt gặp gương mặt thanh tú của Ngọc Huyên như mọi lần.

“Trong trăm công nghìn việc, làm sao có thể cáng đáng hết mọi thứ, làm mọi thứ đồng đều như nhau? Nam Biên có địa thế cực kỳ quan trọng. Đây là thành trì lớn nhất phía bắc của nước ta, nếu có một ngày ải Bạch Vân thất thủ, quân địch tràn xuống từ phương bắc, đây sẽ chính là thành trì đầu tiên trong lãnh thổ Kinh Lạc đương đầu với địch. Ngài dĩ nhiên phải lựa chọn chăm lo cho việc quân, việc rèn vũ khí, đúc đồng nhiều hơn. Nông vụ có thể xếp sau.”

Một ngọn gió chiều khẽ mơn man làm đám hoa mướp vàng lay nhẹ. Ngọc Huyên quay lại, vươn tay ra chạm nhẹ vào bông hoa đang độ bung nở căng tràn, giọng nói chợt khấp khởi mông lung:

“Tuy nhiên… nếu như có một ngày chiến tranh chấm dứt, thịnh thế thái bình… Nếu ngày đó đến, Nam Biên hoàn toàn có thể trở thành cửa ngõ thông thương. Từ đây vận chuyển lương thực, nông sản, vải vóc đi ngược lên mạn bắc, chỉ tầm năm, bảy ngày là có thể đến trung tâm Đại Mạc, từ đó tỏa ra bốn phía, về Lam Thủy hay về Vương Đô, lên Khúc Băng đều thuận tiện. Hoặc giả, từ Nam Biên đi ngược về hướng nam, nhắm đến thành Thanh Châu, Lục Tĩnh, có thể đi thuyền hay đi xe, chở hàng trung chuyển đến kinh đô Loa Thành rồi đi tiếp xuống phía dưới, tận cho đến khi chạm vào cực nam của nước ta, là dãy Hoành Sơn. Nói tóm lại, dù ngược bắc hay xuôi nam, mọi tuyến đường vận chuyển đều phải đi ngang thành Nam Biên này. Nơi đây hoàn toàn đủ tiềm năng để trở thành một thành trì lớn mạnh về kinh tế, thậm chí có thể vượt cả Loa Thành, vượt cả Vương Đô… “

Hoắc Xung ngước lên nhìn bóng dáng nhỏ nhắn của Ngọc Huyên, trong lòng khẽ chấn động.

Hoàng tử… Hoàng tử đang nghĩ gì vậy?

Như giật mình tỉnh mộng, Ngọc Huyên chợt lắc đầu vài cái, đoạn quay lại nhìn Hoắc Xung cười khổ.

“Ngài đừng bận tâm. Đó chỉ là mộng tưởng của ta. Thực tại trước mắt, vẫn nên ưu tiên chăm lo việc quân. Ngài đang làm rất tốt rồi.”

Hoắc Xung nắm chặt hai tay, đoạn quỳ dập đầu, khóe mắt hơi đỏ.

“Hoàng tử, thần có chết cũng nguyện trung thành, tận lực gầy dựng Kinh Lạc và Nam Biên hùng mạnh. Thần cũng sẽ để ý đến nông vụ nhiều hơn, thưa Hoàng tử!”

“Nguyễn đại nhân.” Ngọc Huyên bước đến nâng hắn dậy lần thứ ba. “Cha ta, chị Miên, triều đình Kinh Lạc trông cậy vào trung thần như ngài. Ta cũng vậy.”

Chiều hôm đó sau khi về đến tư viện của Hoắc Xung, Ngọc Huyên và tri phủ đại nhân cáo từ nhau, sau đó y cùng A Châu quay về gian viện dành riêng cho mình. Suốt cả đoạn đường, A Châu không nói tiếng nào, gương mặt luôn phảng phất sự nặng nề, u ám. Nàng đưa Ngọc Huyên về đến trước cửa phòng, đang định lui xuống thì chợt bị Ngọc Huyên giữ lại.

“Ngươi luyện cung cùng ta một lát, có được không?”

Lúc trước ngày nào y cũng luyện cung, mấy hôm nay đã bỏ bê quá rồi.

A Châu hạ mắt, không tình nguyện mà đành đi theo Ngọc Huyên ra sau vườn.

Phía sau gian viện này là một vườn tre rất rộng. A Châu đem ra hai ống tên cùng hai cánh cung còn rất mới, đoạn đưa cho Ngọc Huyên rồi hỏi.

“Hoàng tử, ngài muốn luyện thế nào?”

Ngọc Huyên ướm thử lực căng của dây cung, sau đó nhìn A Châu rồi tủm tỉm cười:

“Ai bắn trúng mười chiếc lá trước thì thắng nhé.”

A Châu cắn môi gật đầu, sau đó cũng lấy cho mình một bộ cung tên, bắt đầu lắp vào dây.

Thi thế này nghĩa là vừa thi về tốc độ, vừa thi về khả năng trúng đích.

Trong vườn tre mênh mông, chỉ nghe thấy tiếng vòm lá đung đưa, xào xạc. Sau một trận gió thổi qua, hàng trăm nghìn chiếc lá tre bắt đầu lả tả bay. Ngọc Huyên nắm chắc dây cung, đoạn khẽ liếc A Châu rồi mỉm cười chờ đợi. A Châu cũng bắt đầu rút tên ra, sau đó hô to:

“Bắt đầu!”

Vút vút vút vút vút.

Tên bay xé gió. Ngọc Huyên và A Châu vừa rút tên vừa xoay mình, nâng cung, ngắm bắn, thả dây. Hai người, một người thì phong thái cường ngạnh ngang tàng, một người thì uyển chuyển ung dung nhưng lại tiềm ẩn niềm kiêu hãnh của Chiến Thần phương bắc.

Khi gió lặng, Ngọc Huyên và A Châu cũng ngừng tay cung rồi đưa mắt nhìn nhau.

Thắng bại đã rõ.

Ở mũi tên cuối cùng, A Châu đã nóng lòng nên bắn trượt, thế nên mũi tên của nàng ghim trên thân tre không có chiếc lá nào bị xuyên qua.

Ngọc Huyên dường như đã đoán được, y khẽ cười rồi nheo nheo mắt hỏi:

“Thử lại lần nữa nhé?”

A Châu cắn chặt môi, im lặng không nói gì, hai tay cuộn chặt run run.

Ngọc Huyên phớt lờ, cứ thế bước đến bắt đầu rút tên ra khỏi thân tre. Khoảnh khắc bàn tay Ngọc Huyên sắp chạm vào mũi tên, y chợt nghe tiếng A Châu phía sau nói nhỏ:

“Dù ngài có tài giỏi thế nào đi chăng nữa, ngôi vị Vua chủ Kinh Lạc cũng chỉ có Đại công chúa mới xứng đáng ngồi lên.”

Ngọc Huyên khựng lại, sau đó quay sang nhìn A Châu ngỡ ngàng:

“Thì ra bấy lâu nay… là do việc này?”

Lúc này đến lượt A Châu ngẩng lên, ngỡ ngàng nhìn Ngọc Huyên trước mắt:

“Hoàng tử… ngài… cố tình ép ta nói ra?”

Ngọc Huyên cười khổ, không quan tâm đến cung tên gì nữa, đoạn quay lại bước về phía A Châu:

“Ta còn tưởng ngươi bất mãn ta việc gì…”

Đến trước mặt A Châu rồi, nụ cười trên gương mặt Ngọc Huyên biến mất, thay vào đó là ánh mắt cực kỳ nghiêm khắc và nét mặt lạnh lùng hiếm thấy trên gương mặt y.

“A Châu, quỳ xuống.”

A Châu khẽ nhắm mắt rồi hít vào một hơi, sau đó hạ gối, dập đầu.

“Những lời vừa rồi của ngươi là đại nghịch bất đạo.”

Ngọc Huyên hạ ánh mắt rọi xuống A Châu, giọng vẫn đều đều như dòng nước tĩnh.

“Cho dù suy nghĩ của ngươi xuất phát từ lòng trung thành với chị Miên, những việc như ai lên ngôi Vua chủ Kinh Lạc, ai xứng đáng hay không xứng đáng, đến lượt ngươi nói hay sao? Nếu lời vừa rồi lọt vào tai kẻ khác, nếu kẻ đó có lòng bất trung, ngươi nghĩ sẽ gây ra gió tanh mưa máu thế nào?”

“Ngươi sẽ liên lụy chị Miên ra sao, ngươi có nghĩ đến chưa?”

Toàn thân A Châu khẽ run, sau đó nàng nghèn nghẹn mà tâu:

“A Châu biết tội. Nguyện lấy cái chết đền đáp công ơn Đại công chúa đã cưu mang, nuôi dạy A Châu suốt bao năm qua.”

Nói đoạn nàng ta nhanh như cắt, với tay đến bên hông tuốt kiếm ra rồi hướng vào cổ mình. Thế nhưng Ngọc Huyên còn nhanh hơn. Y sải chân đến, một tay chụp thanh kiếm lại, một tay túm lấy vai A Châu rồi quát lớn:

“Ngươi chết thì có ích gì?”

A Châu sững người, trong một tích tắc nàng chần chừ, Ngọc Huyên đã tước kiếm của nàng rồi vứt ra xa.

“A Châu.” Ngọc Huyên đặt nốt tay còn lại lên vai A Châu, nhìn sâu vào mắt nàng rồi nói:

“Nếu có chết, ngươi cũng phải chết khi đang bảo vệ chị Miên, đang phụng sự vì chị ấy, vì Kinh Lạc. Sao lại chết vô ích đến nực cười như thế này, hả?”

“Hoàng tử…” A Châu lắp bắp, mắt đỏ hoe.

“A Châu.” Ngọc Huyên nâng nàng đứng lên, đợi nàng đứng vững rồi mới buông nàng ra, sau đó khẽ thở dài.

“Giữa ta và chị Miên vốn không tồn tại loại tranh đấu mà ngươi lo nghĩ.”

“Không phải là ai được làm Vua chủ, mà là ai nên làm, ai phải làm. Cho dù là ai ngồi lên ngai vị Vua chủ phương nam, đó cũng sẽ là điều tốt nhất cho bá tánh, cho Kinh Lạc. Ngươi không tin ta thì cũng phải tin cha ta, tin chị Miên chứ.”

“Hoàng tử…” A Châu ôm mặt òa khóc nức nở. “Thần…”

Ngọc Huyên đặt tay lên lưng nàng, khẽ khàng vỗ hai cái.

“A Châu, chị đã ở bên cạnh bảo vệ chị Miên của em bao năm qua rồi. Hãy tiếp tục ở bên chị ấy, bảo vệ chị ấy trong nhiều năm nữa, nhé. Có được không?”

Vườn tre lại khẽ xạc xào. Gió chiều lay nhẹ, nắng ấm mềm mại của phương nam rót mật xuống chân.

A Châu vừa đưa tay quẹt nước mắt, vừa nghẹn ngào gật đầu.

“Dạ.”

Mãi tận đến khi Ngọc Huyên và A Châu đi rồi, một bóng hắc y nhân mới lặng lẽ ra khỏi nơi ẩn nấp trên một tán tre um tùm phía xa, đăm đăm ánh mắt nhìn theo hai người.

Đêm khuya hôm đó, Vũ Miên ngồi trong mái đình nhỏ nhìn ra khu vườn tĩnh lặng. Bóng trăng yên ả rọi xuống khóm hoa nhài, hoa quỳnh đang lặng lẽ đơm bông. Mùi hương ngòn ngọt từng chút, từng chút lan tỏa trong không khí. Hắc y nhân phi thân đến rồi nhẹ nhàng đáp xuống, phủ phục dưới thềm.

“Công chúa.”

“Nguyễn Huỳnh.” Vũ Miên không nhìn lên, vẫn đưa tay nâng chén, nhấp một ngụm rượu mơ nồng đậm.

“Đêm nay cũng như mọi đêm trước. Hoàng tử… vẫn không ngủ được. Đêm qua y nằm thao thức đến gần sáng mới thiếp đi. Lúc nãy trước khi thần tới đây, Hoàng tử vẫn còn đang ngồi bên cửa sổ. Chỉ… ngồi nhìn ra ngoài thôi, thưa Công chúa.”

Vũ Miên không nói gì, lặng lẽ cúi đầu nhìn vào chén rượu trên tay, đoạn thở dài.

Sáng hôm sau, Ngọc Huyên lại thay y phục chỉnh tề, giữ nét mặt bình thản rồi bước ra vườn. Y đang chầm chậm bước, vừa đi vừa nghĩ xem hôm nay sẽ đi thăm nơi nào, bất chợt một bàn tay nữ nhân nhẹ nhàng đặt lên vai.

“Chị Miên!” Ngọc Huyên ngẩng lên, cười rạng rỡ.

“Huyên à.” Vũ Miên mỉm cười, giấu đi nỗi xót xa khi nhìn thấy hai mắt trũng sâu của em trai mình. “Lại đây với chị.”

Hai chị em bước vào trong đình nhỏ nhìn ra ao cá con con và khoảnh sân xanh mướt ngay trước viện của Ngọc Huyên. Đến khi ngồi xuống bên cạnh Vũ Miên rồi, Ngọc Huyên mới thấy dưới hai mắt nàng có một quầng thâm nhàn nhạt, gương mặt tuy vẫn hồng hào nhưng nét mệt mỏi thoảng qua còn vương rõ.

“Đêm qua chị lại không ngủ ngon ư?” Ngọc Huyên đau lòng hỏi khẽ.

“Đừng lo.” Vũ Miên lại cười hiền. “Huyên à, nghe chị dặn kỹ nhé.”

“Em nghỉ ngơi hai ba ngày cho lại sức, sau đó A Châu và Nguyễn Huỳnh sẽ đưa em quay lại Đại Thương.”

Ngọc Huyên không tỏ vẻ ngạc nhiên lắm khi nghe Vũ Miên đồng ý đáp ứng thỉnh cầu của mình. Y vươn tay ra nắm lấy tay Vũ Miên, hơi sụt sùi rồi nói:

“Em cảm ơn chị. Em cảm ơn chị nhiều lắm.”

Vũ Miên cũng nắm tay y, đoạn mỉm cười rồi nhẹ nhàng nói:

“Em đã làm đến thế, chị có thể không cho em đi sao?”

“Trong vòng năm ngày thu phục nhân tâm. Vừa là tri phủ Nam Biên trụ cột của triều đình, vừa là A Châu ngang ngạnh. Em cố ý cho chị thấy, sáu năm qua ở Đại Thương em đã trưởng thành không ít, có thể lo cho mình, đúng không?”

Ngọc Huyên im lặng một chút rồi nhỏ giọng đáp.

“Đều là nhờ anh ấy.”

“Em ở cạnh anh ấy mấy năm, cùng anh đi khắp Đại Thương, nhìn cách anh đối xử với tùy tướng, với binh sĩ, nghe anh giảng giải việc thu phục nhân tâm, lại được nhìn thấy nhân tình thế thái, tự em cũng nghiệm ra rất nhiều. Chị Miên, nếu không có Nhị vương tử, sáu năm qua em vẫn chỉ mãi là một đứa trẻ mười hai tuổi bị nhốt trong cung cấm.”

Ở những câu cuối, giọng Ngọc Huyên nghẹn lại. Nhắc đến anh là ngực y đau buốt. Y có thể bình tĩnh với hết thảy mọi người trên thế gian này, duy chỉ với anh, y sẽ luôn luôn không nhịn được mà phô ra hết sự yếu đuối của mình.

Vũ Miên vỗ vỗ lưng Ngọc Huyên cho y bình tĩnh lại, sau đó mới từ từ nói:

“Nhưng mà Huyên à, chị chỉ cho em tối đa ba tháng.”

“Sau ba tháng, bất kể em có tìm được Khung Dực hay không, A Châu và Nguyễn Huỳnh cũng sẽ mang em quay về Kinh Lạc.”

Ngọc Huyên ngồi ngay ngắn lại, chùi đi nước mắt rồi cẩn thận gật đầu.

“Em biết rồi.”

“Em có nghĩ ra sẽ bắt đầu tìm Khung Dực ở đâu chưa?”

“Em đoán anh ấy chỉ có thể đi đến ba nơi này thôi: Khúc Băng, dải Chinh Sa và vịnh Lam Thủy. Em sẽ đến ba nơi đó trước. Tìm được người của Nhạn Quân là sẽ biết tin anh ấy.”

“Được. Chị sẽ hạ lệnh cho A Châu và Nguyễn Huỳnh dẫn theo một Bạch Liên Ảnh Vệ nữa. Nàng ta tên Thùy Dung, tinh thông y thuật, chuyến đi này ba người bọn em sẽ cần đến nàng.”

Nghe vậy, Ngọc Huyên cắn môi đắn đo:

“Chị Miên, nếu nàng ta tinh thông y thuật, chẳng phải nên để lại ải Bạch Vân giúp sức cho chiến trường hay sao?”

Vũ Miên nhìn Ngọc Huyên một lát, sau đó chầm chậm lắc đầu:

“So với chiến trường ải Bạch Vân, chị càng cần Thùy Dung ở phương bắc hơn.”

“Chị Miên, vậy…” Ngọc Huyên chợt nhớ ra điều gì, lo lắng quay sang nắm tay chị. “Còn cha thì sao?”

Vũ Miên vỗ vỗ tay y rồi trấn an: “Chị sẽ nghĩ cách, không sao đâu. Cùng lắm chị sẽ truyền tin về Loa Thành, bảo rằng tạm thời cho em dưỡng thương tại Nam Biên, khỏe rồi mới về kinh.”

Vũ Miên im lặng một lúc, sau cùng mới kiên quyết nói:

“Huyên, nhớ kỹ. Ba tháng sau, dù có tìm thấy hay không, em cũng phải quay về. Lần này về rồi thì đừng đi nữa.”

Ngọc Huyên cúi đầu, sau đó siết tay Vũ Miên.

“Vâng, em biết rồi.”

Cùng lúc này, đoàn người của Kháp Tư đã đưa Khung Dực về đến nam Đại Mạc. Hôm đó khi nghe được rằng Khung Dực muốn sang biên giới, tộc nhân của Kháp Tư đã cãi vã nhau om sòm một trận. Đa số đều không muốn đi vào vùng chiến sự, hơn nữa lại vì giúp một kẻ xa lạ không đâu. Kháp Tư phải vận dụng hết lời lẽ kèm với cả cái uy của tộc trưởng ra mà thuyết phục, rằng Khung Dực là người của Nhạn Quân, hắn đã giúp tộc mình có hạt giống để trồng trọt, rằng dân du mục coi trọng duyên kỳ ngộ, bằng hữu gặp nhau giúp nhau vài lần đã trở thành huynh đệ một nhà. Sau mấy ngày thuyết phục, tộc của hắn mới chịu vòng về phương nam.

Mấy ngày nay Khung Dực vẫn sốt li bì. Vết cắn, vết cào của con sói lửa khiến hắn nhiễm trùng, bả vai và cánh tay đau nhức không thôi. Trước đó Khung Dực đã mất sức sẵn do phải đi bộ xuyên qua Đại Mạc, giờ phút này hắn cứ nửa tỉnh nửa mê, thậm chí khi tỉnh táo thì cả người cũng uể oải vô lực.

“Đệ không đi Mạc Bắc không được sao? Chữa cho khỏi hẳn đi đã rồi muốn đi đâu thì đi! Y quán lớn chỉ có ở thành trì lớn như dải Chinh Sa hay vịnh Lam Thủy mà thôi. Hay là… về đó nhé?” Kháp Tư ngày nào cũng tặc lưỡi nhìn hắn rồi dụ dỗ.

Đáp lại, lần nào Khung Dực cũng chỉ mỉm cười rồi nhẹ lắc đầu.

Hôm nay cũng vậy. Sau khi thuyết phục không thành, Kháp Tư thở hắt ra rồi nói:

“Được rồi, ta cũng chỉ nói vậy thôi chứ chúng ta đến nam Đại Mạc rồi. Từ đây đi chừng một ngày là tới biên cương Mạc Bắc.”

“Thật sao?” Khung Dực hai mắt sáng rỡ, vội vàng ngồi bật dậy. “Kháp đại ca, vậy mau đi thôi!”

“Không vội được.” Kháp Tư khoát tay. “Tộc nhân của ta vốn không biết đường đi bí mật xuyên qua rừng mận, xuyên qua biên giới.”

“Đệ biết!” Khung Dực lập tức kêu lên: “Đệ từng đi rồi! Chỉ cần vào trong rừng mận, có mật đạo dẫn đến Vân Trung Cổ Trấn…”

“Rồi làm sao đi vào rừng mận?” Kháp Tư lừ mắt.

Khung Dực ngay tức thì khựng lại.

Rừng mận… Bây giờ rừng mận đã là chiến trường.

“Đi lối đó là phải đi xuyên qua chiến trường hai nước giao tranh! Đệ đi kiểu gì? Hay là ta cứ giao đệ cho quân đồn trú Mạc Bắc rồi nhờ họ vẫy cờ với Kinh Lạc, bảo rằng huynh đệ à chúng ta nghỉ đánh nhau vài phút, cho ta gửi nhờ vị bằng hữu này đây, để hắn vượt biên qua bên nước ngài một tí, nhỉ?”

Khung Dực nhăn nhăn mặt sau đó đưa tay gãi trán:

“Kháp đại ca, sao trước giờ đệ không biết huynh cũng có tài… châm biếm nhỉ?”

“Hừ! Bởi vậy ta mới nói là không vội được! Ta đã nhờ người truyền tin rồi. Tối nay sẽ có trợ lực tìm đến, thế nên đệ tắm táp thay quần áo đi, tối nay ta cần đệ đích thân ra mặt đó!”

Nhập nhoạng chiều hôm đó, sau khi tắm rửa cạo râu, thay quần áo và thắt lại tóc chỉnh tề, Khung Dực lúc này tuy còn sốt nhưng đã trông ra dáng một con người hơn trước. Hắn bước ra khỏi lều rồi đến đứng cạnh Kháp Tư cùng anh em trong tộc. Tất cả nam nhân có chức vị cao trong tộc đều đang tập trung trước khu lửa trại trung tâm, cứ như thể họ đang chờ đợi ai.

“Đang đợi ai vậy?” Khung Dực đưa mắt nhìn quanh, sau đó ghé vào tai Kháp Tư mà hỏi nhỏ.

“Các bộ tộc thuần ngựa.” Kháp Tư đáp lời, mắt vẫn dõi ra phía trước. “Ba bộ tộc lớn nhất, nắm trong tay gần như tám phần việc thuần ngựa và cung cấp ngựa chiến cho triều đình, chính là tộc Khoát Oa. Ba bộ tộc này thực chất là cùng một gia tộc phân nhánh ra thôi. Họ có mạng lưới trải khắp Đại Mạc, còn móc nối với dân buôn lậu từ Mạc Bắc.”

Vừa dứt lời, phía triền cỏ xa đã vang lên tiếng vó ngựa dồn dập. Từ đằng này nhìn lại chỉ thấy thoảng bụi mờ cùng rất nhiều thân ảnh nam nhân dũng mãnh đang ngược gió mà lao đi. Khi khoảng cách rút ngắn dần, Khung Dực còn nghe tiếng nói cười sang sảng cùng tiếng huýt sáo líu lo, cả âm thanh của những ngọn giáo dài loang loáng va leng keng vào nhau. Dù chưa nhìn rõ mặt ai, với trực giác của người cầm binh lâu năm như Khung Dực, hắn vẫn có thể cảm nhận được sự ngang tàng, kiêu ngạo đang chảy rần rật trong mạch máu của đoàn người nọ.

Khoát Oa, dòng tộc thuần mã, luyện mã lâu đời trên Đại Mạc, dòng tộc đứng đầu các tộc dân du mục mà ai ai gặp cũng phải bảy phần cung kính ba phần nể sợ. Chỉ có thể dùng một cụm từ để hình dung về những con người này: chiến binh kiêu hùng.

Thật ra trước đây Khung Dực cũng có nghe sơ qua về bọn họ, tuy nhiên hắn không chú tâm vào. Hắn phụ trách rìa biên giới phía bắc và phía đông, vùng Đại Mạc ngay trung tâm Đại Thương trước giờ do Vương Đô quản lý, nhưng nói thẳng ra là kiểu lợi ích có qua có lại. Phụ hoàng và đại ca không muốn, hay nói thẳng ra là không thể, triệt để theo dõi sát sao toàn bộ các tộc dân du mục. Họ nay đây mai đó, cực kỳ khó nắm bắt hành tung, thế nên triều đình chỉ giữ quan hệ với những tộc lớn nhất, trong đó dĩ nhiên có Khoát Oa.

Khung Dực trước giờ tự thuần ngựa cho Nhạn Quân, thỉnh thoảng còn làm giúp cho thủ vệ quân Trích Nguyệt, thế nên căn bản cũng chẳng qua lại gì với tộc Khoát Oa này cả.

Đoàn người ngựa tới càng lúc càng gần. Kháp Tư liếc mắt sang Khung Dực trước khi tiến lên nghênh đón:

“Nhớ kỹ, con đường vượt biên của đệ nằm trong tay họ.”

Sùyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyyy.

Ba nam nhân đi đầu trờ đến rồi giật bờm ngựa để ghìm ngựa lại, sau đó cứ thế ngồi yên nhìn xuống những người của tộc Kháp Tư, chờ cho Kháp Tư lên tiếng trước. Kháp Tư cũng quen tập tục, lập tức bước tới giơ tay phải lên đặt vào vai trái, sau đó cuộn tay làm thành nắm đấm, tự đấm nhẹ vào ngực ở vị trí gần tim.

“Khoát Oa Mộc, Khoát Oa Lý, Khoát Oa Na Lạp, cảm tạ đã nghe lời truyền tin của ta mà đến.”

Ba người nam nhân chầm chậm gật đầu, sau đó cũng làm động tác chào Kháp Tư. Xong xuôi họ mới nhảy xuống ngựa, bắt đầu tiến lại gần hàn huyên đôi chút.

Khung Dực đứng im, lặng lẽ quan sát họ.

Ba người này nhìn vào có nét tương đồng rất rõ, có vẻ như là họ hàng hoặc thân thích với nhau. Người nam nhân trông như là thủ lĩnh thì dáng người nhỏ gọn quắc thước, tóc dài thắt bím xõa ra sau lưng, trán quấn vòng đai bện từ cỏ vàng và dây táo gai được nhuộm màu sặc sỡ. Khung Dực ước chừng năm nay hắn ta cũng phải ngoài năm mươi tuổi, trong khi hai người còn lại chỉ ngoài ba mươi. Cả ba người đều mặc áo ngắn cộc tay để lộ nhiều hình xăm hoa văn ca ngợi cuộc sống của dân du mục, thắt lưng thì giắt đầy răng nanh mãnh thú.

Theo phong tục, tộc của Kháp Tư cho mời nên phải làm cơm làm rượu đãi khách. Bữa tối đã được chuẩn bị xong từ trước khi khách đến, thế nên tất cả chào hỏi nhau xong là lục tục kéo vào khu lửa trại trung tâm rồi ngồi ngay xuống cỏ. Trên than hồng là ba con dê béo, bảy tám con ngỗng trời và tầm mười con thỏ đang được nướng cho chín tới, ngoài ra còn có rượu mật ong, bánh ngũ cốc và một ít ngô khoai đổi từ vịnh Lam Thủy.

Kháp Tư chưa vội đả động gì tới Khung Dực, cứ điềm nhiên mời tộc Khoát Oa ăn uống no say trước. Khung Dực đang làm khách nên cũng chỉ ngồi im cạnh Kháp Tư, chú tâm ăn uống rồi chờ cho đến lúc.

“Năm nay Khoát Oa làm ăn được không?”

“Được chứ, triều đình cần ngựa chiến loại thượng đẳng. Bọn ta vừa bắt vừa thuần ròng rã gần hai năm mới kịp giao hàng, khà khà.”

“Còn tộc Kháp Kháp của mấy người thì sao?”

“Cũng tạm được, gần đây bọn ta đóng thuyền cho vịnh Lam Thủy, còn lấy về được hạt giống. Bọn ta đang tìm chỗ để gieo trồng thử.”

“Nghe nói tộc Du Lang chuyên dệt vải ở miệt giáp dải Chinh Sa thì hơi kém, ruộng dây dâu của họ bị sâu bọ phá tan.”

“Ừm, còn tộc Chân Diệm chuyên điều chế hỏa dược và độc dược thì bắt đầu làm luôn thảo dược, sau đó bán cho dân buôn lậu Mạc Bắc, kiếm được không ít lúa nếp loại ngon, haha. Hôm nào ta phải đi tìm bọn họ trao đổi một ít xem sao!”

“Khà khà khà, đến lúc ấy nhớ cho chúng ta nếm thử nhé!”

Cứ thế, cuộc trò chuyện kéo dài đến khi thịt hết, rượu cạn, bếp than hồng cũng phủ một tầng tro xám thật dày còn người già, nữ nhân và trẻ nhỏ đều rút hết vào lều nghỉ ngơi, ánh nhìn của Khoát Oa Mộc, người đứng đầu ba bộ tộc mới quay trở lại Kháp Tư.

“Kháp Tư, nói đi. Hôm nay ngươi mời bọn ta đến, rốt cuộc cần gì?”

Kháp Tư buông chén rượu xuống, ngồi thẳng lưng lên rồi nhìn vào mắt Khoát Oa Mộc:

“Khoát Oa Mộc, ta cần các vị giúp một người bằng hữu đi qua biên giới, tiến vào Kinh Lạc.”

Lời vừa nói ra, cả ba tộc Khoát Oa đều rơi vào trầm ngâm.

Khoát Oa Mộc cũng đặt chén rượu của mình xuống, bất chợt nheo nheo mắt rồi rọi ánh nhìn lên người Khung Dực. Trong đêm, cặp mắt của hắn sáng quắc như cặp mắt của một con thú săn mồi.

“Kháp Tư, ngươi ít qua lại với Vương Đô nên có lẽ còn chưa biết.” Khoát Oa Mộc quay sang Kháp Tư, đoạn từ tốn nói:

“Cách đây không lâu, triều đình xảy ra biến động lớn. Nhị vương tử của Đại Thương bị kết tội phản quốc, sau khi xử tử không thành thì đã bị tước bỏ hoàng tịch, giáng làm tội dân, cả đời này không được giữ bất kỳ con chiến mã nào, càng không được thuần mã luyện mã, không được dùng vũ khí, cũng không ai được giúp hắn. Nếu vi phạm thì sẽ bị xử tội theo vương pháp.”

“Ơ… thì sao?” Kháp Tư chưng hửng. “Ngươi cũng biết ta không có hứng thú với triều đình mà?”

Khoát Oa Mộc nhếch mép:

“Để sang biên giới, nhất định phải dùng đến ngựa.”

Khung Dực ngồi kế bên khẽ cắn môi.

Lúc này thì Kháp Tư đã lờ mờ nhận ra vấn đề.

Khoát Oa Mộc thủng thẳng nhìn bọn họ rồi cười: “Ta cũng vừa nhận được tin này từ Vương Đô, vừa hay còn kèm theo một bức tranh họa lại Nhị vương tử đấy. Ngươi… có muốn xem không?”

Kháp Tư ê cả mặt, chầm chậm quay sang nhướng mắt nhìn Khung Dực: đừng nói với ta đệ chính là cái tên Nhị vương tử kia đấy?

Khung Dực đau khổ vừa nhắm mắt vừa gật đầu trong bẽ bàng: chính là đệ đó…

Kháp Tư đưa tay ôm trán: mợ nó chứ!

“Hahahahahahahaha!” Khoát Oa Nhĩ cười vang. “Sao Kháp Tư, còn cần giúp không?”

Kháp Tư hít vào một hơi rồi vỗ đùi đứng dậy:

“Giúp! Vẫn giúp chứ! Khoát Oa Mộc, chẳng phải dân du mục chúng ta vốn không hỏi xuất xứ, nếu đã gặp nhau trên thảo nguyên này thì xem như bằng hữu hay sao? Huống hồ Khung Dực mà ta biết là người trượng nghĩa, luôn luôn đối xử tốt với binh sĩ của mình, còn giúp chúng ta có hạt giống để gieo trồng nữa! Nói gì thì nói, ta vẫn giúp hắn!”

“Được, nói hay lắm!” Khoát Oa Mộc cũng đứng dậy. “Ngươi đã trượng nghĩa như vậy rồi, ta há lại không bằng hay sao?”

Cả Kháp Tư và Khung Dực đồng thời mừng rỡ nhìn nhau: “Thật sao?”

“Ta giúp.” Khoát Oa Mộc tiến tới trước mặt Khung Dực rồi bảo: “Nhưng ta có điều kiện.”

Khung Dực bèn nghiêm trang đứng dậy chắp tay cảm tạ:

“Xin tộc trưởng cứ nói.”

Khoát Oa Mộc lại dùng cặp mắt săn mồi của mình đánh giá Khung Dực một lượt. Lát sau, hắn mới chậm rãi đáp lời:

“Quỳ xuống.”

Khung Dực sững ra, ngay cả Kháp Tư cũng giật mình hỏi lại:

“Ngươi nói sao?”

“Ta nói, ngươi, Khung Dực, quỳ xuống. Dập đầu với ta, cầu xin ta, rồi ta sẽ giúp ngươi!”

Im lặng trầm mặc bao trùm không gian. Ai ai cũng nghe rõ tiếng gió xạc xào thổi trên đồng cỏ, cả tiếng mạch máu nảy thình thịch trong từng thớ thịt.

Khung Dực đứng im lìm bất động, hai tay nắm chặt, quai hàm bạnh ra vì cố giấu tiếng nghiến răng ken két.

Sau cùng, Kháp Tư lên tiếng trước:

“Khoát Oa Mộc, ngươi hà tất phải làm khó huynh đệ của ta như thế!”

Khoát Oa Mộc ngửa mặt lên trời cười vang, một trong hai nam nhân Khoát Oa trẻ tuổi kia cũng cười theo phụ họa. Chỉ có người trẻ nhất trong số họ thì không cười, ánh mắt lóe lên một tia sáng không rõ ý.

“Không quỳ thì không có ngựa. Con đường qua biên giới phải đi xuyên qua hẻm núi, trong đó có một đoạn lộ mình ra dưới tuyến phòng thủ của quân đồn trú Mạc Bắc. Muốn qua đoạn này phải dùng chiến mã phi thật nhanh, vượt khỏi tầm tên bắn. Nếu ngươi đi bộ, chắc chắn không chết thì trọng thương.”

Rắc.

Hai tay Khung Dực siết chặt khiến xương đốt ngón tay kêu lên một tiếng.

“Nhưng hắn là người của hoàng thất! Ngươi bắt người của hoàng thất quỳ dưới chân mình, lý nào lại thế???” Kháp Tư tức giận quát lên, mặt cũng đỏ bừng.

“Hắn ta đã không còn là Nhị vương tử nữa rồi.” Khoát Oa Lý, một trong hai người trẻ tuổi kia lên tiếng.

Lần này thì Kháp Tư cũng nín lặng.

“Kháp đại ca.” Khung Dực quay sang đặt hai tay lên vai Kháp Tư rồi thở hắt ra. “Đại ân của huynh, đệ suốt đời không quên. Sau này huynh cần gì, đệ nhất định xả thân báo đáp. Còn nữa, không phải đệ cố tình giấu huynh về thân phận của mình, đệ…”

“Được rồi được rồi, đừng nói nữa, ta biết rồi.” Kháp Tư xua tay.

“Không quỳ thì không thành giao.” Khoát Oa Mộc cười cười, đoạn ra hiệu cho tộc nhân của mình chuẩn bị rút đi. “Kháp Tư, đa tạ bữa cơm ngon này của ngươi! Hahahahaha!”

Khoát Oa Mộc phóng lên lưng ngựa rồi lao đi. Tộc Khoát Oa có điểm đặc trưng là cưỡi ngựa đều không thắng yên, cứ thế mà ngồi trên mình ngựa. Được một quãng, hắn chợt quay lại nhìn về phía sau, đoạn ném cho Khung Dực một câu, không rõ là mỉa mai hay răn dạy:

“Khung Dực, người không biết khuỵu gối cúi đầu, làm sao làm nên nghiệp lớn trăm năm?”

Câu nói bị gió thảo nguyên thổi bạt đi, chìm chìm nổi nổi giữa đoàn người ngựa đang đi như vũ bão, khi đến được tai Khung Dực thì chỉ còn là những thanh âm vô nghĩa, rời rạc.

Ngày hôm sau, Khung Dực kiên quyết cáo từ Kháp Tư rồi lên đường, tiếp tục đi về phương nam. Kháp Tư cũng không thể đưa hắn đi thêm nữa, đành gói cho hắn nào là lương khô nào là rượu ngọt, chưa kể còn băng gạc và thuốc đắp chữa thương. Người huynh đệ hào sảng này còn nằng nặc bắt Khung Dực lấy ngựa mà dùng, thế nhưng Khung Dực không thể nhận.

Hắn không thể liên lụy Kháp Tư.

Khung Dực cố gắng vận sức đi được hết một ngày, xa xa đã thấy thấp thoáng núi non, cỏ dưới chân cũng chuyển sang màu xanh mơn mởn thì chợt nghe phía sau lưng có tiếng vó ngựa vang lên.

Người đến là nam nhân trẻ tuổi nhất trong ba người tộc chủ Khoát Oa hôm trước.

“Khung Dực!” Hắn gọi giật. “Lên ngựa, ta giúp ngươi!”

Khung Dực quay lại nhìn, đoạn nhíu mày.

“Vì sao?”

“Chú ta tính tình quái gở, ngươi đừng để bụng.” Khoát Oa Na Lạp nói. “Đừng nhiều lời nữa, đi thôi, sắp đến đoạn có tuyến phòng thủ của quân đồn trú Mạc Bắc rồi.”

“Ngươi chưa trả lời câu hỏi của ta. Vì sao?”

Khoát Oa Na Lạp chỉ biết lắc đầu, đoạn nghiêm mặt nhìn Khung Dực.

“Ta muốn ngươi nợ ta một món ân tình.”

Khung Dực cười nhẹ: “Ngươi cũng biết ta không còn là Nhị vương tử gì nữa. Ân tình này làm sao báo đáp? Tộc Khoát Oa các ngươi đã hùng bá một phương rồi, ngươi còn cần…”

Khung Dực chợt im bặt, sau đó dần dần ngộ ra.

Lúc này, Khoát Oa Na Lạp mới mỉm cười xác nhận:

“Đúng thế. Cái ta cần là ân tình của Kinh Lạc, không phải của ngươi, cựu vương à.”

Ngọc Huyên ngồi xuống bóng mát dưới bụi tre, bên cạnh có Nguyễn Huỳnh và Thùy Dung dọn ra chút cơm nắm, hoa quả và chả hấp. A Châu vừa đi thám thính phía trước về, lúc này cũng vừa ngồi xuống cùng bọn họ.

“Hoàng tử, qua khúc quanh phía trước là sẽ đến một hẻm núi hiểm trở, vốn không có ai qua lại, cũng không có quân ta canh gác. Chỉ có những người biết con đường bí mật đi xuyên qua biên giới mới đi vào hẻm núi này.”

Nói đoạn, A Châu trải xuống một tấm bản đồ, sau đó chỉ vào từng nơi bọn họ sẽ đi qua rồi giải thích cặn kẽ:

“Hẻm núi này có hai đoạn, một đoạn phía Kinh Lạc thì nằm trong lòng núi, tuy khá chật hẹp nhưng an toàn, còn một đoạn phía sau nằm bên Đại Thương thì lộ mình ra dưới hàng cung thủ của quân đồn trú Mạc Bắc. Chúng ta sẽ đi vào trong lòng núi trước, sau đó là xem như ra khỏi Kinh Lạc, đến địa phận Đại Thương. Chúng thần sẽ bảo vệ Hoàng tử chu toàn, đến lúc đó người chỉ cần cưỡi Tiểu Bạch chạy nhanh hết mức, mọi việc còn lại cứ giao cho ba người chúng thần.”

“Có nguy hiểm lắm không? Các ngươi sẽ không sao chứ?” Ngọc Huyên vừa cắn một nắm cơm chấm vừng vừa lo lắng hỏi.

Nguyễn Huỳnh miệng nhai nhồm nhoàm chả hấp, đoạn cười bảo:

“Bọn thần đi hoài quen luôn rồi, haha. Ai lần đầu đi mới thấy khó, có khi còn qua không nổi ấy chứ!”

Thùy Dung che miệng khúc khích, sau đó dùng thủ ngữ phác ra một cử chỉ đơn giản, ý bảo Ngọc Huyên hãy an tâm. Phía đối diện, A Châu chỉ im lặng ăn phần cơm của mình, gương mặt suy tư thấy rõ.

“A Châu.” Ngọc Huyên ngần ngừ một lát rồi quyết định nói ra suy nghĩ trong lòng. “Ta xin lỗi đã khiến các ngươi lâm vào nguy hiểm. Ta…”

“Hoàng tử, ngài nghĩ nhiều rồi.” A Châu ngẩn ra một chút, sau đó vội vã lập tức ngắt lời. “Thuộc hạ…”

“Thuộc hạ chỉ đang suy nghĩ cách đi tìm Nhị vương tử làm sao cho nhanh chóng, kín đáo mà an toàn. Chỉ cần là mệnh lệnh của Đại công chúa, tám người chúng thần dù có chết cũng không từ nan.”

Ngừng một chút, A Châu mỉm cười nhìn Ngọc Huyên, nói khẽ:

“Giờ có thêm Hoàng tử nữa. Ngài chỉ cần hạ lệnh, dù có nguy hiểm thế nào, tám người chúng thần cũng sẽ xông vào.”

Ngọc Huyên cảm động, nhoài người ra nắm tay A Châu, nắm tay Thùy Dung. Nguyễn Huỳnh thấy thế cũng không chịu kém, lập tức xáp lại cho đủ. Ngọc Huyên bật cười, sau đó cả bốn người đều cười vang.

Bốn người nhanh chóng ăn xong rồi thu dọn lên đường. Ngọc Huyên tháo dây buộc Tiểu Bạch rồi nhảy lên lưng nó. Theo thói quen, y cúi xuống vuốt ve chiếc bờm xù xù của con chiến mã, đoạn thì thầm:

“Tiểu Bạch, chúng ta cùng đi tìm Nhị vương tử nhé, được không? Ngươi giúp ta lần nữa nhé, Tiểu Bạch!”

Tiểu Bạch khẽ lúc lắc đầu dường như tỏ ý đã hiểu. Ngọc Huyên mỉm cười, ngay lập tức thúc gót rồi giật dây cương cho Tiểu Bạch lao đi.

Qua khỏi ngã rẽ, con đường hẹp dần, từ từ trở nên cực kỳ khó đi. Lát sau, hẻm núi hiểm trở kia đã hiện ra ngay trước mặt. Bốn con chiến mã của đoàn người lần lượt phóng vào, sau đó phi nước kiệu theo sát nhau. Trong lòng hẻm núi tranh sáng tranh tối, chỉ có vài tia nắng yếu ớt lọt qua kẽ đá, rọi sáng mật đạo bên trong. Chỉ cần đi qua khỏi đoạn này là đến đoạn hẻm núi ngoài trời, cũng có nghĩa là khi ấy bọn họ đã chính thức đặt chân vào lãnh thổ Đại Thương, đồng thời phải đối mặt với tuyến phòng thủ Mạc Bắc.

Bất chợt phía trước có tiếng vó ngựa đang phi nước kiệu vang lên chậm rãi.

A Châu đi đầu nên nhìn rõ nhất, sau đó là Nguyễn Huỳnh rồi mới đến Ngọc Huyên và Thùy Dung đi cuối. Ngọc Huyên không nhìn rõ phía trước, chỉ nghe tiếng vó ngựa từ xa vang lên, vốn định cất tiếng hỏi thì đã nghe A Châu quay lại hô to với cả đoàn:

“Đừng để ý, mặc kệ hắn. Có lẽ hắn chết rồi.”

Ngọc Huyên cũng chưa hiểu chuyện gì, thế là Nguyễn Huỳnh bèn quay lại giải thích thêm:

“Chắc là lính mới vượt biên đó, thỉnh thoảng cũng gặp. Bọn họ không biết cách đi, khi sang tới bên này thì một là trọng thương, hai là đã chết. Hoàng tử không cần bận tâm.”

Ngọc Huyên gật đầu, đúng lúc con chiến mã đi ngược chiều chở người “đã chết” kia cũng vừa trờ tới.

Ngọc Huyên khẽ liếc một cái, chỉ kịp thấy người kia nằm gục trên lưng ngựa, hai mũi tên ghim chặt vào lưng, máu đang thấm ra lớp áo bên ngoài. Hắn vận phục trang của dân du mục, mũ trùm che kín đầu tóc nên không thấy rõ mặt, chỉ biết là một nam nhân vóc dáng khá cao to, vạm vỡ.

Ngọc Huyên quay mặt đi, tiếp tục chú ý nhìn phía trước. Hai con chiến mã cứ thế đi sượt qua nhau.

Vào khoảnh khắc đó, con chiến mã đi ngược chiều chở người nam nhân nọ bước vào một khoảnh sáng do tia nắng xuyên qua kẽ đá mà thành. Dư quang Ngọc Huyên bất chợt bắt được một sắc màu quen thuộc.

Lồng ngực y ngay tức thì quặn đau, con tim nảy lên đập liên hồi, giục giã, ngay cả hít thở cũng nghẹn lại, khó khăn.

Ngọc Huyên thảng thốt quay phắt lại, mắt đăm đăm nhìn theo người nam nhân nọ.

Theo nhịp vó ngựa phi chậm rãi, một lọn tóc nâu vàng của người đó tuột ra khỏi chiếc mũ trùm đầu rồi rơi sượt qua vai. Trong giây phút đó, Ngọc Huyên chết lặng.

Y bất chợt gào lên một tiếng thương tâm rồi run rẩy nhảy khỏi lưng Tiểu Bạch.

“Hoàng tử!” A Châu và Nguyễn Huỳnh giật mình gọi theo. Thùy Dung đi sau thấy vậy bèn lập tức nhoài người ra định chộp lấy Ngọc Huyên nhưng y đã vùng ra khỏi tay nàng.

Ngọc Huyên vừa khóc nức nở vừa loạng choạng đuổi theo con chiến mã nọ. Khi y vừa chạm được tay vào người nam nhân kia, hắn cũng chợt buông mình ngã khỏi ngựa. Ngọc Huyên ngay tức thì vươn tay ra đỡ lấy hắn, cả hai cùng khuỵu xuống mặt đất mềm.

A Châu, Nguyễn Huỳnh và Thùy Dung đồng loạt nhảy xuống ngựa rồi lao đến vây quanh Hoàng tử của họ. Đập vào mắt họ là khung cảnh Ngọc Huyên đang ôm chặt lấy người kia mà khóc nghẹn, còn người kia thì có vẻ như chưa chết mà chỉ đang thoi thóp.

Trong cơn mê man, hai mắt hắn nhắm nghiền, gương mặt trắng bệch do mất máu, miệng thì khàn khàn thì thào một câu:

“Ngọc… Huyên… Ta… hận em… đến chết.”

Ngọc Huyên gục đầu, vòng tay ôm chặt hắn vào lòng, vừa khóc nấc vừa thì thầm gọi đi gọi lại:

“Vương tử của em.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.