Đã Mất Nay Lại Tìm Thấy

Chương 5: Nơi này không còn an toàn nữa



Vị khách được mời vào nhà là một quý ông lịch thiệp, tráng kiện, với gương mặt điển trai nhẵn nhụi ở tuổi ngoài năm mươi, ăn vận không khoa trương nhưng vẫn đủ xa xỉ với tước hiệu của mình. Ông ta được Frieda cung kính dẫn vào nhà, rồi vào phòng khách nơi gia chủ đương đứng đợi bên chiếc bàn trà cạnh lò sưởi. Johannes phủi tay ra hiệu cho Frieda dẫn Herbert về phòng, còn mình thì kính cẩn cúi chào người đàn ông trước mặt. “Buổi tối tốt lành, thưa Hầu tước,” ông nói, hơi rùng mình trước dáng dấp khổng lồ của người kia – cao hơn ông nửa cái đầu, tức là, đã xấp xỉ hai mét [1]; “ngài ghé thăm gia đình ta thực bất ngờ quá,” ông tiếp, rồi họ bắt tay nhau, cả hai đều thoáng vẻ ngạc nhiên với thân nhiệt thấp bất thường của kẻ còn lại, “vì vậy, xin thứ lỗi cho sự xuề xòa của ta, cũng như sự thiếu sót trong việc chuẩn bị tiếp đón ngài. Mời ngài ngồi.”

Vị hầu tước – trái với gia chủ đang dường như căng thẳng đến mức sắc mặt đanh lại – liền mỉm cười gật đầu, “Cũng do ta đường đột đến vào lúc khuya hôm khuya khắt như thế này, bởi vậy, ta không phiền đâu.” Ông ta nói, giọng hơi lơ lớ phát âm của người địa phương – cho thấy rằng ông ta là người ngoại quốc, hoặc ít ra, không phải người vùng Berlin nơi họ đang cư ngụ. Ông ta yên vị trên chiếc ghế bành đối diện Johannes, chống cả hai tay lên chiếc gậy của mình, rồi quan sát Johannes bằng một ánh nhìn hiếu kỳ đến kỳ lạ, mà ngoài bản thân ông ta ra cũng không ai biết được đó là ánh nhìn của sự thích thú. Nhưng Johannes chỉ vào thẳng vấn đề, hỏi:

“Ta có thể giúp gì được cho ngài?”

“Đại công tước nhờ ta chuyển bức thư này.” Người kia như sực tỉnh đáp ngay, đưa cho Johannes một phong thư đã được niêm phong kỹ lưỡng. “Thứ lỗi cho ta vì vẫn chưa quen đường xá nơi này, đến tận bây giờ mới tìm đến nơi. Nhưng ngài ấy yêu cầu vào sáng mai phải có câu trả lời.”

“Gấp vậy sao?” Johannes chau mày, vội mở bức thư ra khi hầu tước gật đầu cho phép. Lại là chuyện Herbert bị kết tội hỗn xược với con trai đại công tước, Johannes thở dài, ông cứ ngỡ đã giải quyết ổn thỏa, nhưng đại công tước vẫn muốn bồi thường thêm, yêu cầu được nhường lại mảnh đất có quận khu sầm uất ở phía đông thành phố, bằng không Herbert vẫn sẽ phải chịu đòn để răn đe. Đành chấp nhận yêu cầu vậy, Johannes nghĩ. Nhưng ông ấy đã không ngờ rằng hầu tước cũng biết tỏng cơ sự chuyện này, mà bằng chứng chính là việc ông ta nhún vai, nói:

“Cuộc ẩu đả đó thật chẳng đáng để làm rùm beng lên, nên ta đoán câu trả lời phải là “có”, nhỉ?”

“Ta e là như vậy. Ta cũng không phải kẻ có đủ tư cách để mà từ chối.”

“Tiếc thật.” Hầu tước chậc lưỡi, rồi bình thản huyên thuyên, “Dù gì cũng chỉ là chuyện trẻ con gây gổ với nhau, là ai đúng ai sai, hay sự tình như thế nào, ngài ấy thậm chí còn chẳng thèm hỏi. Cứ thản nhiên nổi cơn thịnh nộ giữa buổi gặp mặt của chúng ta… Phải chịu thiệt cả một mảnh đất màu mỡ vì một chuyện bé tẹo như thế này… chà…” Ông ta thở dài, chép miệng, “Nhưng biết làm sao được? Ngay cả ta cũng không nên phản đối lời của ngài ấy, còn vì những lợi ích sau này. Đằng nào Đại công tước cũng là một kẻ thích đòi hỏi, có phải không?”

“Ngài đừng khinh suất như thế.” Johannes nhắc. Người kia chỉ phì cười:

“Phải, phải… Những lời đó có trời biết đất biết, thật không nên. Vậy hãy quay lại vấn đề nhé, bá tước? Ngài cứ ký tên hoặc đóng dấu vào bức thư, còn việc chuyển lại lời cứ để ta lo.” Hầu tước đề nghị, khiến Johannes không khỏi ngạc nhiên bởi sự nhiệt tình có phần hơi quá sức của ông ta, nhưng vẫn gật đầu đồng ý. Nhận thấy trên bàn không có bút hay mực, Johannes đương sốt sắng liền cắn vào ngón tay cái, để máu nhỏ giọt xuống mảnh giấy không chút chần chừ. Hiển nhiên việc này làm vị hầu tước kia cảm thấy sửng sốt, nhưng nét mặt ông ta lại cho thấy rằng sự thích thú đang chiếm phần hơn, một bên chân mày nhếch cao hơn bên còn lại. Cẩn thận cất bức thư đã có dấu vân tay vào, hầu tước cất giọng bông đùa, “Răng của ngài bén thật đấy.”

Lập tức, Johannes giật mình, không thể nhớ được ban nãy mình đã hoàn toàn thu nanh lại hay chưa, và trong lòng ông dấy lên một nỗi lo khác rằng liệu vị hầu tước kia có xem hành động của ông là khinh suất. Thế là ông mím môi, muốn nở một nụ cười chữa thẹn nhưng không thành. Hầu tước bình phẩm:

“Trông ngài có vẻ căng thẳng quá.” Ông ta vừa nói vừa cười giòn. “Đừng cứng nhắc trước mặt ta như vậy, ta đơn thuần chỉ thích đùa một chút thôi. Ta không để bụng chuyện gì cả.”

Johannes thở một hơi dài và nặng:

“Xin cảm ơn ngài, và cũng mong ngài thứ lỗi. Đã có một ngày dài, ngài biết đấy.”

“Ui dào!” Hầu tước thốt lên, giọng điệu như thể ông ta vừa phát hiện ra điều gì. “Đúng thật nhỉ? Nhắc đến thời gian, cũng đã quá nửa đêm rồi. Chậc, chuyện cũng đã xong, làm phiền ngài thêm thật không nên. Vì vậy, ta xin phép.”

Nói đoạn, ông ta đứng lên, chống gậy quay ra cửa. Johannes theo sau nói ngay, “Để ta tiễn ngài.”

“Thật quý hóa quá.” Hầu tước gật gù, “Được, được.” Ông ta đáp, đôi mắt hấp háy tỏ vẻ hài lòng.

Họ cùng nhau bước ra mảnh sân trước phủ tuyết, Johannes cầm chiếc đèn dầu trên tay mà dẫn đường trước vị khách của mình, điệu bộ xem chừng phần nào gấp gáp. Không gian tĩnh lặng đến ngột ngạt giữa đêm hôm, đến nỗi âm thanh duy nhất lọt vào tai là tiếng thở của hai người, xen lẫn với tiếng gậy lọc cọc gõ trên nền đất theo từng nhịp bước đi, tất cả đều đem lại cho Johannes một nỗi sợ vô hình mà ông không nói ra được. Khi cánh cổng chính chuẩn bị mở ra, người phía sau bất chợt nắm lấy cánh tay ông, câu hỏi thì thầm thốt ra khiến ông không khỏi lạnh toát:

“Cái bóng của ngài đâu rồi?[2]”

“Sao?” Johannes quay lại, sự hoảng loạn tột độ dâng lên từ đáy mắt, khi hầu tước nhìn chằm chằm xuống dưới chân cả hai. Trời đêm sáng trăng, cái bóng của vạn vật trải dài ngoằn ngoèo trên nền đất, nhưng dưới chân Johannes tuyệt nhiên vẫn chỉ là mảnh sân trơ trọi. Nhưng hầu tước trong ít giây lại chớp mắt lắc đầu, lảng đi:

“À không, chỉ là ta suýt quên mất.” Ông ta cười trừ, rồi lấy từ trong túi áo ra một chiếc khuy cài bằng sắt đã hoen gỉ, chìa ra cho người kia. “Ngài xem, đây có phải là vật của gia đình ngài không?”

Johannes thầm thở phào, nhưng vẫn bồn chồn không nguôi, nheo mắt nhìn. “Phải”, ông đáp gọn, muốn kết thúc cuộc trò chuyện càng nhanh càng tốt nhưng cũng không dám mạo phạm làm phật lòng kẻ kia, “Làm thế nào ngài có được nó?”

“Ta va phải một người trong gia đình ngài vào chiều hôm kia.” Hầu tước kể, sấn lại gần để quan sát gương mặt Johannes, khiến ông ấy không khỏi cảm thấy muốn rụt cổ lại trốn đi. “Người đó đánh rơi chiếc khuy có gia huy nhà ngài.”

“Vậy sao? Cảm ơn ngài rất nhiều.”

“Người đó… là ngài, có phải không?” Hầu tước gặng hỏi, lại đưa cho Johannes ánh nhìn chằm chằm. Johannes khẽ quay mặt đi.

“Đúng vậy, là ta.” Ông không dám giấu. “Xin thứ lỗi, ta đã không biết mình va phải ngài.”

“Ui dào, ta không phiền đâu.” Hầu tước phủi tay. “Nhưng bá tước thân mến, ngài chắc rằng mình ổn chứ? Bởi những vết đỏ trên mặt ngài…” Vừa nói, ông ta vừa chỉ tay lên mấy vết sẹo lồi đã lên da non trên trán và ngang dọc hai gò má Johannes. “Bị bỏng thật sao?” Ông ta nhỏ giọng.

“Do ta bất cẩn khi bỏ củi vào lò sưởi thôi.” Johannes ấp úng đáp nhanh, tay mở khóa cổng chính như một lời nhắc khéo. Hầu tước bật cười, đôi mắt ánh lên:

“Vậy mà lúc ấy ta cứ tưởng ngài bị bỏng lạnh, hay thậm chí bị bỏng do ánh mặt trời chứ!”

“Sao ngài lại nghĩ như vậy, nếu như ta được phép hỏi?”

“Ôi chà, ngài biết đấy, cũng tại ngài cả, ai bảo lúc ta kéo mũ trùm xuống lại rít lên như thế làm gì!” Hầu tước vẫn cười giòn, tự lắc đầu với chính bản thân. “Chậc, ta đúng là ngớ ngẩn, có phải không?”

“Ngài thật khéo đùa.” Johannes lúng túng đáp lại, thầm mừng vì vị khách cũng chịu bước ra khỏi cổng, chẳng buồn để ý rằng ông ta đã không những không trả lại, mà còn cất chiếc khuy cài kia vào trong túi áo. Johannes lịch sự nói, “Thật vinh dự khi được tiếp chuyện ngài như thế này, nhưng ngài thấy đấy, cũng đã muộn rồi, ta e rằng chúng ta sẽ phải gặp nhau ở một dịp khác.”

Nói rồi, ông toan khép cánh cổng lại. Song, vị hầu tước quay phắt ngay, chặn chân ở ngưỡng cửa khiến Johannes không khỏi giật thót. Ông ta hỏi, thái độ bỗng dưng chuyển thành kích động:

“Có chắc chắn sẽ gặp lại nhau không?”

Johannes nuốt khô trong cổ họng, nhưng bằng một giọng đủ bình tĩnh, ông đáp, “Nếu định mệnh đã sắp đặt, ta tin rằng trong tương lai chúng ta sẽ có dịp gặp lại nhau.”

“Vậy sao…” Hầu tước ngâm nga, khuôn mặt chấp nhận giãn ra và khóe môi chầm chậm cong lên thành một nụ cười. “Thế thì tốt.” Ông ta gật đầu. “Rất mong được gặp lại ngài. Chúc ngài ngủ ngon.”

“Chúc ngài ngủ ngon.”

Johannes đã đứng đó sau cánh cổng sắt khép hờ, chăm chú quan sát vị khách của mình trèo lên cỗ xe ngựa đương chờ sẵn của ông ta đến tận khi cả cỗ xe mất hút sau những rẽ đường vắng. Đã hơn một giờ sáng khi Johannes trở vào nhà, ông lẳng lặng vào thư phòng, khóa lại cánh cửa phía sau lưng, đôi vai cuối cùng cũng duỗi ra khi ông đứng chống tay xuống mặt bàn và thở một tràng dài, nhưng tâm trí của ông lại bị vướng bận bởi một chuyện khác. Ông nhận ra cuộc gặp gỡ đường đột đêm nay với người kia sẽ là chuyện ám ảnh ông suốt nhiều đêm dài, và nếu ông có thiếp đi khi mặt trời ló dạng, thì hình ảnh của người kia vẫn sẽ lại lướt qua tâm trí ông như một lời đe dọa khủng khiếp. Johannes nhắm nghiền mắt nhớ lại. Ánh nhìn mà người kia dành cho ông không lúc nào thôi chòng chọc, như thể muốn xoáy thẳng vào những bí mật không thể và không bao giờ được phép tiết lộ ra, nhưng chính diện mạo của vị hầu tước đó mới là thứ bất thường hơn cả – nước da tái nhợt và xám ngoét không chút sức sống, với vùng da trũng sâu phía dưới mắt lại đỏ ngầu màu máu, trong khi đôi mắt lại mang một màu bạc của mặt trăng trên cao, hoang dại đến kỳ lạ, và một vết sẹo ngang tàng cắt ngang khóe môi; tất cả đều mang cho Johannes một niềm tin rằng vị khách của ông không phải con người. Nỗi sợ trong ông càng lớn dần thêm khi ông nghĩ đến những câu hỏi như thăm dò của người kia, cũng như phát hiện ra được cây gậy chống của ông ta thực chất là loại giấu được lưỡi gươm lưỡi kiếm[3].

Có tiếng gõ cửa truyền lại, ngay sau khi Johannes – bị đè nén với những suy nghĩ chồng chất của mình – bực tức hất đổ chồng sách trên bàn làm việc. Frieda đương đứng đợi ngay bên ngoài cửa thư phòng, mặt cắt không còn một giọt máu khi ông chủ của thị hằn học mở cửa rồi nhìn xuống với cặp mắt đỏ ngầu và gương mặt cau có, trước khi ông lôi thị vào trong rồi đóng cửa với một tiếng rầm.

“Chủ nhân tha mạng…” Frieda run rẩy, cố bật ra từng tiếng khi bàn tay của Johannes siết lấy cổ của thị và ấn thị vào tường, gương mặt trắng bệch của thị nóng bừng và dần đỏ lên. Johannes rít qua kẽ răng, cặp nanh từ lúc nào đã dài thêm đến kinh hãi.

“Là ngươi để lộ bí mật, có phải không?” Ông hỏi, tiếng gầm gừ rung lên trong cổ họng. “Nói.” Ông lặp lại, hơi thả lỏng bàn tay để Frieda lấy hơi, nhưng vẫn ghì chặt không cho thị nhúc nhích được. “Là ngươi để lộ chuyện ta là ai, có phải không?”

“Không, không có!” Frieda cố gắng lắc đầu, nước mắt giàn giụa. “Bấy lâu nay tôi luôn giữ kín chuyện này mà…”

“Thế tại sao tên kia lại hành xử như một tên thợ săn ma cà rồng ngay trong nhà ta hả?” Johannes tức giận gầm lên, bàn tay một lần nữa siết chặt khiến Frieda rên rỉ thành tiếng. “Hắn nghi ngờ và chất vấn đủ điều, thậm chí còn đem cả vũ khí. Hắn hành động hấp tấp và đáng ngờ như những kẻ làm điều bất chính vậy.” Ông ấy nghiến răng. “Nên nói đi, Frieda, ngươi có vì vài đồng bạc lẻ mà bán thông tin cho người ngoài hay không?”

“Không, thật sự không có…” Frieda mếu máo, hai bàn tay ra sức vô ích cố nới lỏng gọng kìm trên cổ mình. Thị ứa nước mắt, “Tôi thề, thưa chủ nhân, rằng tôi tuyệt đối trung thành, và bấy lâu nay vẫn luôn giữ kín miệng.”

“Ngươi biết rõ cái giá của việc biết quá nhiều mà, đúng chứ, Frieda?”

Câu hỏi như một cú đánh mạnh vào trí nhớ của Frieda, và thị không sao gạt bỏ được hình ảnh thê thảm của người hầu trước với cổ họng bị rách toạc be bét máu. Nước lại trào ra khỏi hai khóe mắt đỏ hoe của thị, gương mặt dần tím tái lộ vẻ hoảng sợ tột cùng khi thị nhìn thấy tay còn lại của Johannes đã bung móng vuốt. Thị cầu khẩn, “Tôi biết, thưa chủ nhân, tôi hiểu rõ cái giá của việc biết quá nhiều thứ không nên biết. Nhưng xin chủ nhân tha mạng, tôi thật lòng không biết chuyện gì đã xảy ra cả, tôi thề có linh hồn nữ tước làm chứng cho tôi…”

“Nếu ta phát hiện ra ngươi hé nửa lời, thì kết cục của ngươi sẽ không đơn giản như Lara đâu, hiểu chưa?”

“Vâng, vâng ạ!” Frieda lắp bắp, há miệng thở hổn hển khi thị lại run rẩy van nài, “Chủ nhân, làm ơn… Tôi không thở được…”

Lập tức, Johannes buông tay ra, để cho Frieda ngã phịch xuống sàn mà cố hít cho căng đầy buồng phổi. Ông chán nản quay lưng về bàn làm việc, nện tay xuống mặt bàn khiến Frieda giật thót và càng co rúm lại, bàn tay thị vẫn không ngừng lẩy bẩy xoa xoa vết bầm vừa hằn lên cần cổ mình. Một lúc sau, “Ta xin lỗi,” Johannes khàn giọng thở dài, dường như đã tự chủ trở lại, “nhưng ngươi về đi.” Ông nói.

“Về… về đâu ạ?” Frieda giật mình quên cả khóc, trừng mắt nhìn bóng lưng của người đàn ông. Johannes chỉ lắc đầu:

“Ngươi đã phục vụ rất tốt rồi, không cần ở lại đây nữa đâu. Ta sẽ cho ngươi tiền đủ sống an nhàn đến cuối đời. Về nhà đi.”

“Nhưng… tại sao? Chủ nhân, sao lại đường đột như thế?”

“Nơi này không còn an toàn nữa. Ta sẽ chuyển đi.” Ông đáp. “Chuyện hôm nay sẽ còn tệ hơn nếu gã vừa rồi là một tên người lai quỷ, và chúng ta đã lỡ mời hắn vào nhà rồi[4]. Lũ lai căng đó thích hành nghề thợ săn hơn bao giờ hết, và khả năng cao hắn đã nhìn ra được ta là thứ gì…” Thở một hơi dài nặng nề, Johannes quay mặt lại, đưa cho Frieda một ánh nhìn buồn bã, “và ngươi biết rõ việc đấy sẽ ảnh hưởng đến Herbert như thế nào mà, phải không?”

“Vâng… vâng ạ.” Frieda yếu ớt gật đầu, không dám nhìn thẳng. Johannes nói tiếp:

“Vì vậy ngươi về đi. Quên hết quãng thời gian làm việc ở đây. Xem như cái tên của ta chưa từng tồn tại. Dính líu đến quỷ dữ cũng không đem lại điều tốt lành gì cho ngươi đâu.”

“Nhưng thưa chủ nhân, riêng việc này tôi không đồng ý.” Frieda bạo gan cất tiếng. Thị dè chừng ngẩng mặt lên, đối diện ngay với ánh mắt ngạc nhiên của ông chủ, nhưng trong phút chốc Johannes không phản ứng gì thêm. Nuốt nước bọt, thị phân trần, “Chủ nhân, tôi đã theo nữ tước từ khi chúng tôi còn bé, dù tôi chỉ là một nữ hầu hèn mọn, nhưng nữ tước lúc nào cũng xem tôi như em gái của nàng. Tôi không thể, và thực lòng không muốn thất hứa với nữ tước thêm một lần nào nữa…” Thị rơm rớm nước mắt, giọng vỡ ra, đôi vai nhỏ run lên theo từng tiếng nấc, “Tôi đã không thể giữ trọn lời hứa luôn luôn ở cạnh bên nàng. Bây giờ tôi không muốn ngay cả lời hứa cuối cùng cũng không thực hiện được…”

“Vậy ngươi đã hứa gì với nàng ấy?” Johannes hỏi, giọng thều thào hẳn đi. Frieda thành thật trả lời:

“Tôi đã hứa rằng mình sẽ chăm sóc cậu chủ đến khi nào cậu chủ không còn cần tôi nữa…”

“Vậy ra ngươi cho rằng thằng bé vẫn còn cần đến ngươi sao?”

“Không, không ạ, tôi không có ý ngạo mạn như vậy…” Frieda lắp bắp. “Xin chủ nhân đừng hiểu lầm. Nhưng tôi cũng không còn nơi nào để đi, nơi này từ lâu cũng đã trở thành gia đình, vì vậy xin ngài hãy nhân từ suy xét, hãy cho tôi được đi theo, để tôi được tiếp tục chăm sóc và bầu bạn với cậu chủ. Đối với tôi, như vậy còn đáng giá gấp ngàn lần những đồng vàng đồng bạc trên đời.” Vừa nói, thị vừa chắp hai tay lại cầu xin, rồi cúi đầu quỳ rạp xuống sàn.

Johannes đã không đáp gì trong nhiều giây, chỉ đứng đó và thở từng hơi dài nặng nề. Đến một lúc, khi cả hai dường như không chịu nổi thêm sự yên lặng ngột ngạt, bằng một giọng mỏi mệt, Johannes mới cất tiếng, “Được rồi.” Ông gật đầu, cho phép Frieda ngẩng mặt lên và đôi mắt thị lấp lánh. “Mau thu dọn những gì cần thiết đi. Cứ bỏ hết tất cả những thứ còn lại. Chúng ta sẽ rời đi trong đêm nay.”

Hiển nhiên Herbert đã không khỏi sững sờ khi cha cậu đột ngột vào phòng để thông báo rằng họ phải chuyển nhà, và không những thế, ông còn hành xử với một thái độ gấp gáp như thể thời gian của mình sắp cạn, vội vàng thu dọn đồ đạc giúp cậu và nhanh chóng thay cho cậu quần áo khác. “Cha ơi, đã có chuyện gì vậy?” Cậu lo lắng hỏi, Johannes liền quỳ xuống trước mặt cậu và kéo cậu vào lòng ôm, hôn lên trán cậu một cái. Ông trả lời với một tiếng thở dài, bàn tay vuốt lấy mái tóc con, an ủi cậu khi cậu chau mày khó hiểu:

“Xin lỗi con vì chúng ta phải đi gấp như thế này, nhưng nơi này không còn an toàn nữa.”

“Vì sao ạ?”

“Đã có người phát hiện ra ta là ai rồi.”

“Có người biết cha là ma cà rồng ạ?”

“Phải.” Johannes mím môi. “Ta tin rằng sớm muộn gì họ cũng đến để kiểm chứng lại điều đó thôi.”

“Họ… họ sẽ bắt cha đi, có phải không?” Herbert hoảng hốt, rồi lập tức choàng đến ghì chặt lấy cha khi ông ấy gật đầu. Cậu rúc vào ngực áo cha mình, vừa lắc đầu nguầy nguậy vừa kêu, “Không, không chịu đâu! Cha là cha con, con không cho cha đi đâu hết! Con không muốn cha bỏ con đi đâu!”

“Ta biết, ta biết…” Johannes khẽ suỵt, kéo Herbert ra để họ có thể nhìn mặt nhau. “Nên đó là lý do chúng ta phải rời đi đêm nay. Chỉ có đến nơi khác vào lúc này, ta mới có thể bảo vệ con được.”

“Vậy, chúng ta sẽ đi đâu?”

“Chúng ta sẽ đến Transylvania.” Johannes nói, xoay quả địa cầu khổng lồ đặt trong phòng của Herbert và chỉ vào một điểm thuộc đất nước Romania. Ông giải thích, “Cụ cố của con có để lại cho ta một lâu đài, chúng ta sẽ chuyển đến đó sống.”

“Lâu đài sao?” Herbert tròn mắt. “Nghe hay vậy…” Cậu liền cười hì hì, híp cả mắt lại.

“Thế nào? Chịu không?”

“Dạ chịu!” Cậu bé con gật đầu ngay. “Con thích lâu đài lắm! Nhưng mà… nơi đó là một nơi như thế nào ạ? Con chưa bao giờ nghe cha nói đến nơi đó hết.”

“Cũng lâu rồi ta chưa đến đó.” Johannes ngập ngừng suy nghĩ. “Một nơi khá lạnh, yên bình hơn nơi này. Nhưng nếu con muốn đi chơi, thì gần lâu đài có một ngôi làng không nhỏ.”

“Thật vậy ạ?” Herbert vỗ hai tay vào nhau. “Nghe thích thật! Vậy chúng ta đi, đi nhé?”

“Được rồi, vậy chúng ta đi.”

“Cô Frieda có đi cùng không ạ?” Herbert sực nhớ ra. Johannes đáp gọn:

“Có.”

“Thế còn thầy giáo của con thì sao? Ngày mai con có lớp học tiếng Pháp mà.” Herbert lại ngây ngô hỏi. Johannes vừa quấn khăn choàng cổ cho cậu vừa trả lời:

“Trên đường đi ta sẽ ghé ngang nhà ông ấy. Ta sẽ để lại lời nhắn rằng ông ấy không cần phải đến đây gặp con nữa.”

“Ồ, vâng ạ…” Herbert gật đầu, nắm lấy tay cha khi ông dắt cậu xuống nhà. Họ tắt hết đèn trên đường đi, toàn bộ dinh thự chìm vào bóng tối lạnh lẽo ảm đạm, và Johannes dẫn con trai mình ra cổng sau, nơi Frieda đứng đợi cùng cỗ xe ngựa đã chuẩn bị sẵn. Ông ra hiệu cho Frieda vào trong xe, rồi bế Herbert lên để cậu vào ngồi cùng với thị.

“Đường khá xa, nên con chịu khó một chút, được chứ?” Johannes dặn, bật ra tiếng cười hiếm hoi khi Herbert ngoan ngoãn gật đầu rồi hôn lên hai gò má của ông. Ông nhẹ nhàng véo má cậu một cái, trêu, “Không sợ ta nữa à?”

“Không, không sợ nữa.” Herbert quả quyết. “Con nói rồi, cha không có đáng sợ.”

“Cảm ơn con rất nhiều.” Johannes mỉm cười. “Nhớ phải ngoan với Frieda đấy.”

“Vâng ạ.”

Nói rồi, Herbert ngồi sâu vào trong cỗ xe, ngoan ngoãn nép vào bên cạnh Frieda và ngả đầu vào vai thị. Đóng cửa cỗ xe lại, Johannes lại khoác áo, đội lên chiếc mũ trùm che kín mặt, rồi trèo lên lưng ngựa. Chẳng mấy chốc, họ đã khởi hành.

– —-

[1]: Như được đề cập ở chương 1, câu chuyện đang diễn ra ở năm 1621, tức đầu thế kỷ 17. Vào thời điểm này, chiều cao trung bình của con người là khoảng 1m67, ở đàn ông thì có thể cao hơn, nhưng cũng chỉ đến khoảng dưới 1m75. Vì vậy, vị khách của Johannes cao gần 2m có thể được xem là người khổng lồ, và điều này cũng lý giải được vì sao Frieda ở chương 2 nói rằng Johannes mắc bệnh xương – ông ấy cũng cao gần 2m.

[2]: Theo truyền thuyết dân gian, ma cà rồng không có cái bóng.

[3]: Tiếng Anh là swordstick hay cane-sword, là một loại vũ khí với nhiều biến thể khác nhau xuyên suốt chiều dài lịch sử, nhưng thường bao gồm một chiếc gậy rỗng ruột được dùng như vỏ gươm, trong khi lưỡi gươm sẽ gắn liền với đầu gậy và được giấu trong chiếc vỏ rỗng đó.

[4]: Theo truyền thuyết dân gian, ma cà rồng, hay ma cà rồng lai, chỉ có thể vào nhà một người nếu được người đó mời vào. Tuy nhiên, chỉ cần được mời một lần, chúng sẽ không cần phải đợi ai mời trong những lần tiếp theo đến nơi đó nữa.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.