Bữa tối diễn ra trong một căn phòng ấm cúng với những bức tường chất đầy sách và một cửa sổ nhìn xuống sân. Bên ngoài, lũ chim hồng y đang ríu rít dưới tán dương, và một làn gió thổi nhẹ qua căn phòng. Trên hết, tâm trạng lũ trẻ đã tốt hơn trước rất nhiều rồi, bởi chúng đã vượt qua tất cả các vòng thi của ngày hôm nay, và giờ lại có vài thứ để xoa dịu mấy cái dạ dày lép xẹp nữa chứ. Cả ba ngấu nghiến hết mấy bát súp cà chua, vài cái bánh sandwich nướng pho mát Rhonda mang ra. Giờ đến lượt một đĩa hoa quả to uỵch vừa được để lên bàn. Khi lũ trẻ đang hào hứng với nào là chuối, là nho, là táo, Rhonda ngồi xuống bên cạnh chúng.
“Tất tần tật đều là một phần của kỳ thi này đấy. Cả việc các em bị bỏ đói bị chọc cho đến phát cáu lên. Bọn chị cần quan sát thái độ của các em khi các bạn khác đều được phát bánh, còn các em lại chẳng được gì, hay theo dõi việc trí óc của các em vẫn làm việc tốt thế nào ngay cả khi chủ nhân của chúng đang rất mệt mỏi, đói khát. Và chị phải thừa nhận rằng tất cả các em đều rất xuất sắc.”
Sticky vốn đang khá nhạy cảm trước những gì cậu thể hiện ở phần thử thách với mê cung, cậu nói:
“Em không nghĩ em tốt như chị nói. Em chẳng tìm ra bí mật, cũng chẳng tìm được con đường tắt đến phía sau tòa nhà. Tất cả những gì em đã có thể làm là thử hết lối ra này đến lối ra khác như một thằng điên.”
“Sticky, em không được tự hạ thấp mình như thế chứ,” Rhonda nói. “Chị cá là rất ít người làm được như em ở lượt thứ hai, em có thể nhớ lại chính xác từng hướng di chuyển của mình. Em đã phải rẽ đến cả trăm lần ấy chứ.”
“Tớ nghĩ tớ chẳng làm được thế đâu,” Reynie đồng tình.
“Còn tớ thì chắc chắn luôn ấy, tớ chẳng làm được như thế đâu.” Kate nói với cái miệng đầy nho.
Sticky gật đầu đồng ý.
“Em không phải là đứa trẻ duy nhất gặp rắc rối với cái mê cung ấy đâu,” Rhonda nói. “Lần đầu tiên đi qua đó, chị còn bị lạc khủng khiếp kia.”
“Lạc trong cái mê cung đó ạ,” Sticky hỏi, trong khi hai người bạn của cậu đang dỏng tai lên đợi câu trả lời.
“Phải, cách đây mấy năm, chị cũng tham gia kỳ thi này, giống như các em vậy. Lúc đó, chị tự tin lắm vì nghĩ mình thông minh, và chị đã nhận ra ngay là mình đang ở trong một mê cung của những căn phòng giống hệt nhau. Chị lại vốn có khả năng vượt trội trong những vấn đề tương tự như thế. Chị đã suy luận thế này: nếu mỗi căn phòng đều có ba lối ra, và mình cứ chọn lối phía bên phải để đi, chẳng mấy chốc sẽ đến được phía bên kia tòa nhà thôi. Tất nhiên là ngài Benedict cũng đã tính toán đến khả năng này.”
“Ngài Benedict là ai ạ?” Reynie hỏi.
“Ngài ấy là lí do để chúng ta đang ở đây. Sau bữa tối các em sẽ được gặp ngay thôi.”
“Rồi điều gì đã xảy ra với chị ở trong cái mê cung đó?” Kate hỏi.
“À, giả dụ em là chị nhé,” Rhonda tiếp tục, “sau khi đi qua khoảng sáu căn phòng, em đụng phải một lối cụt, và mấy cái kế hoạch nhỏ bé thông minh em đã chuẩn bị trước đó bay hết ra ngoài cửa sổ. Lúc đó chị rối trí lắm, chẳng buồn nhìn ngắm, săm soi mấy cái mảnh gỗ nhỏ nữa, cứ đè mấy cái mũi tên màu xanh lá cây mà đi – vì màu này thường có nghĩa là “Đi” mà. Sau một lúc, chẳng thấy tình hình được cải thiện tẹo nào, chị chuyển sang thử mấy mũi tên màu đỏ. Cuối cùng, lúc chị tìm ra được bí mật của mê cung thì cũng mất hơn một giờ rồi.”
“Nhưng chị vẫn qua?” Sticky hỏi, vẻ phấn khởi khi có một người khác cũng gặp rắc rối với cái mê cung kia giống mình.
“Tất nhiên,” cô Bút Chì xen vào ngay khi bước vào phòng. “Rhonda là thí sinh tốt nhất từ trước đến nay đấy. Các thử thách trước đó Rhonda đều xuất sắc vượt qua, cho nên kết quả của vòng thi với cái mê cung sẽ chẳng ảnh hưởng gì, dù nó thế nào thì Rhonda vẫn qua.”
“Đừng ngốc thế,” Rhonda nói. “Nếu chị không phải là người thông minh nhất trong số tất cả các thí sinh đã tham dự kỳ thi của ngài Benedict, thì em đã là Nữ hoàng Anh rồi.”
Nghe Rhonda nói thế, hai má cô Bút Chì ửng đỏ, đỏ như mái tóc của cô vậy.
Đúng như Sticky thừa nhận về cảm giác bối rối mỗi khi quá hào hứng về một việc nào đó, giờ cảm giác điên cuồng trước những bí mật liên tiếp khiến cậu bé chẳng thế suy nghĩ thông suốt được nữa. “Chị nhắc đến Nữ hoàng Anh là sao ạ?” Sticky hỏi Rhonda. “Không phải lại là một câu đố nữa chứ ạ?”
Rhonda cười. “Chỉ là câu nói đùa thôi, Sticky ạ. Em biết đấy, chị không phải là Nữ hoàng, và chị cũng chẳng đến từ Anh. Chị sinh ra ở một đất nước có tên là Zambia, và được đưa đến Thành phố Đá này từ khi còn bé lắm.”
“Zambia? Thế chị có nói tiếng Bembi, hay một ngôn ngữ Bantu nào đó không?”
“Tại sao?” Rhonda hỏi lại. “Làm thế quái nào mà em lại biết được nó nhỉ? Em nói được tiếng Bambi à?”
“Chắc chắn là không rồi ạ. Em có thể đọc bằng hầu hết các thứ tiếng, nhưng lại gặp khó khăn khi nói bằng một thứ tiếng nào đó ngoài tiếng Anh. Em chẳng thể làm cho cái lưỡi của mình nó hoạt động theo cách đáng ra nó phải thế.”
Rhonda mỉm cười. “Bây giờ thì chính chị cũng chẳng thể nói được thứ tiếng ấy nữa, lâu quá rồi mà.” Rhonda nhìn Sticky với một vẻ ưu ái. “Hiếm khi chị gặp được một người biết ngôn ngữ của Zambia là gì, và số người biết đọc tiếng Zambia còn ít hơn nhiều.”
“Sticky biết nhiều thứ lắm đấy,” Reynie nói.
“Tớ ước bạn ấy biết khi nào bọn mình được gặp ngài Benedict,” Kate nói. “Ngày hôm nay dài khủng khiếp, và tớ muốn biết tất cả những gì bọn mình đã phải trải qua là để làm gì.”
“À, về việc đó thì,” cô Bút Chì nói, “lý do cô đang ở đây là để thông báo với các em rằng ngài Benedict đã sẵn sàng để gặp mọi người rồi. Ngài ấy đang đợi trong thư phòng.”
“Còn một em nữa mà,” Rhonda Kazembe hỏi.
“Rõ là có sự chậm trễ. Ngài Benedict nói sẽ gặp mấy em này trước, em còn lại đến sẽ nhập nhóm sau.”
Lũ trẻ rất muốn biết người bạn được nhắc đến kia là ai, nhưng chẳng có thời gian để hỏi, vì Rhonda và cô Bút Chì đang giục chúng phải đi ngay. Qua một dãy hành lang dài là đến thư phòng của ngài Benedict.
Giống như tất cả các căn phòng khác trong tòa nhà cũ kỹ này, thư phòng của ngài Benedict cũng được chất đầy những sách. Sách trên các giá cao ngất đến tận trần, sách xếp thành chồng trên sàn nhà, sách làm kệ cho cái bình hoa violet đang cạn khô nước. Trên bốn cái ghế đặt trước một bàn làm việc bằng gỗ sồi cũng đầy những sách – Rhonda và cô Bút Chì phải dọn bớt đi để lũ trẻ có chỗ mà ngồi – và ngay trên chính cái bàn gỗ sồi, sách cũng xếp thành những tòa tháp cao ngất, phải dựa vào nhau để không bị đổ. Lũ trẻ ngồi xuống và nhìn quanh. Nếu không kể đến những cuốn sách, một vài món đồ nội thất và bình hoa violet thì căn phòng gần như trống rỗng.
“Em tưởng cô đã nói là ngài ấy đang đợi chúng em?” Kate nói.
“Và đúng là ta đang làm thế,” một giọng nói cất lên từ phía sau mấy chồng sách, một người đàn ông mắt xanh, đeo kính và mặc một bộ đồ kẻ ô xanh xuất hiện. Mái tóc trắng thì dày và bù xù, cái mũi khá to lại có nhiều nốt mụn, và mặc dù rõ là vừa mới cạo râu nhưng có vẻ như ông ấy đã chẳng dùng đến gương, nên trên cằm và cổ loáng thoáng có dấu vết của dao cạo, đây đó có những sợi râu trắng bị bỏ sót.
Đó là ngài Benedict.
Ngài Benedict cười thân thiện, bước tới tự giới thiệu về mình, bắt tay và gọi tên từng đứa, trong khi Rhonda và cô Bút Chì, mỗi người đứng một bên, theo sát ngài Benedict. Khi ông đã trở về ngồi cạnh cái bàn gỗ sồi, cả hai vẫn không chịu rời nửa bước, lại còn cẩn thận quan sát mọi hành động của ông với vẻ cảnh giác, lo lắng. Hành động khó hiểu này gợi sự tò mò.
“Đầu tiên, ta muốn chúc mừng các cháu,” ngài Benedict nói. “Cả ba đều rất xuất sắc ngày hôm nay. Còn nhiều thứ nữa cần được làm rõ, tất nhiên rồi, nhưng ta sẽ làm việc đó khi nhóm đủ bốn người nhé. Ta e là sẽ phải đợi thêm một lúc nữa đấy.” Rồi ông lôi ra một chiếc đồng hồ bỏ túi, nhìn rồi thở dài. Quay sang cô Bút Chì, ông nói, “Số Hai, có tin gì từ Milligan về người bạn bị lạc của chúng ta không?”
“Chưa ạ,” cô Bút Chì trả lời. “Nhưng Milligan nói sẽ sớm thôi.”
“Em đi gặp họ nhé? Ta muốn chắc chắn rằng cháu ấy đã ăn gì đó rồi.”
Cô Bút Chì nhìn ngài Benedict, vẻ nghi ngại.
“Ta sẽ ổn,” ông trấn an. “Có Rhonda ở đây rồi”.
Cô Bút Chì miễn cưỡng gật đầu rồi đi ra khỏi phòng.
“Ngài vừa gọi cô ấy là Số Hai ạ?” Kate hỏi.
“Chị ấy thích được gọi như thế, bằng mật danh,” Rhonda giải thích. “Chị ấy có vẻ hay ngượng ngùng với tên thật của mình. Nếu em muốn biết lí do, câu trả lời của chị sẽ là lí do đó chẳng hay ho gì cả. Bởi vì đó là một cái tên đẹp, đẹp hoàn hảo.”
“Lí do có chính đáng hay không thì chúng ta ai cũng có riêng một vài thứ để ngượng ngùng mà,” ngài Benedict nói và nhìn Sticky với ánh mắt đầy ẩn ý. Và Sticky ngay lập tức lôi kính ra để lau.
Kate và Reynie nhìn nhau, vẻ suy nghĩ.
“Ta biết cháu muốn hỏi gì đó,” ngài Benedict nói “Và bây giờ thì ta có thể trả lời một số câu hỏi nhất định còn một số câu trả lời thì phải đợi thêm lúc nữa nhé. Thế cháu đang nghĩ gì?”
“Cháu muốn biết chúng ta đang đợi ai,” Kate nói.
“Câu hỏi này ta có thể trả lời luôn. Tên bạn ấy là Constance Contraire, là một thí sinh giống các cháu. Ta phải thừa nhận là cô bé ấy đã mang đến cho tất cả chúng ta một sự thay đổi. Một đứa trẻ hết sức thú vị. Rhonda, em nói là sáng nay cô bé ấy đã mang theo bao nhiêu cái bút chì nhỉ?”
“Ba mươi bảy,” Rhonda nói. “Chúng ta nói chỉ được mang theo một, và cô bé mang ba mươi bảy.”
“Sao chị biết được?” Sticky hỏi.
Rhonda nhún vai. “Chính cô bé ấy nói với chị. Nhớ cái cống thoát nước chứ? Constance cũng dừng lại để giúp chị, nhưng thay vì cố gắng lấy lại cái bút, cô bé điềm nhiên lôi ra từ trong áo mưa những hộp đầy bút chì. ‘Ba mươi bảy cái, cầm lấy một cái đi,’Constance nói thế đấy.”
“Đấy chẳng phải là gian lận sao?” Kate hỏi. “Tại sao bạn ấy lại không bị loại?”
“Đó thực ra là chấp nhận mạo hiểm đấy,” ngài Benedict giải thích. “Tuy nhiên, Constance lại từ chối lời đề nghị xem trước đáp án của Rhonda, và mục đích của bài thi không phải là để kiểm tra xem các cháu mang theo mấy cái bút chì. Mà chuyện cái bút chì, thật ra cũng không quan trọng.”
Reynie lại đang bận tò mò về một chi tiết khác. “Tại sao bạn ấy lại mặc áo mưa? Ngày hôm nay trời đẹp mà.”
“Cháu biết cách lắng nghe đấy,” ngài Benedict nói. “Điều này sẽ rất có ích cho cháu – và cho cả chúng ta nữa, ta cá là như thế. Về cái áo mưa, ta tin Constance mặc nó để giấu đống bút chì.”
“Nhưng sao mà phải mang theo cả đống như thế?” Kate hỏi, giọng bực bội. “Thật là nực cười.”
“Nếu cháu thấy điều đó là buồn cười, Kate,” ngài Benedict nói, “có thể cháu sẽ thấy thích thú với một số câu trả lời của Constance đấy. Để ta xem nào, ta tin là nó đang ở đâu đây thôi.” Ngài Benedict lại biến mất sau cái bàn gỗ sồi, còn Rhonda vẫn theo sát, chăm chú nhìn ông lục lọi mấy tờ giấy. Bọn trẻ thì chỉ nhìn thấy cái chỏm đầu rối bù của ngài Benedict.
“À đây rồi”, ông nói, đi vòng quanh bàn về phía bọn trẻ. Rhonda lại tiếp tục duy trì vị trí ngay sát cạnh ngài Benedict. Ngài Benedict nhìn lướt qua bài thi, “đúng là những câu trả lời thông minh. Các cháu còn nhớ câu hỏi này không nhé: Có gì không đúng trong nhận định này? Các cháu biết Constance trả lời thế nào không? Cô bé viết là ‘Có vấn đề gì với bạn vậy?’”
Nói đến đây, ngài Benedict cười phá lên – tiếng cười bật ra bất ngờ, liên tiếp, nghe như là tiếng kêu của một chú cá heo vậy.
Lũ trẻ nhăn mặt.
“Câu này nữa này,” ngài Benedict tiếp tục. “Câu này nhé, về bàn cờ với quân tốt đen và nước đi đầu tiên ấy. Câu hỏi chúng ta đưa ra là: Theo luật cờ vua, nước đi này có hợp lệ không? Constance trả lời thế này: Luật lệ và trường học chỉ dành cho những kẻ ngớ ngẩn…”
Rồi ngài Benedict lại khoe cái giọng cười cá heo của mình. Lần này, ông chẳng thể ngừng cười, cười đến mức chảy cả nước mắt. Bỗng nhiên, không hề có bất cứ dấu hiệu nào báo trước, ngài Benedict nhắm mắt, cúi gập mặt xuống ngủ ngon lành.
Rhonda vội vàng chạy đến, tháo cái kính, vốn đã trượt khỏi mũi ngài Benedict. Thật may là trước đó ngài Benedict đang dựa sẵn vào thành ghế, nên khi bất ngờ rơi vào giấc ngủ, ông chỉ hơi ngả người về phía trước mà không bị ngã xuống sàn nhà. Mặc dù thế, Rhonda vẫn cẩn thận dìu ngài đứng lên và nói “Nhanh lên, một trong số các em, mang cho chị cái ghế nào.”
Kate vội đứng bật dậy, đẩy chiếc ghế của mình về phía Rhonda. Rhonda cẩn thận đặt ngài Benedict ngồi xuống ghế, chỉnh đầu ông về vị trí thoải mái. Lúc này, ngài Benedict bắt đầu ngáy, cứ như là ông đã ngủ mấy tiếng rồi.
Sau một thoáng choáng váng vì bất ngờ, Reynie hiểu ra vì sao Rhonda và cô Số Hai phải kè kè bên cạnh ngài Benedict suốt thế. Nếu ngài ấy hay ngủ bất thình lình kiểu này, chắc hẳn thỉnh thoảng ngã nguy hiểm lắm.
“Ngài ấy không sao chứ?” Sticky thì thầm.
“Ừ, không, ngài ấy ổn,” Rhonda nói. “Ngài ấy có thể sẽ tỉnh dậy ngay đấy. Hiếm khi ngài Benedict ngủ lâu hơn một hoặc hai phút.”
Quả đúng như thế, ngay khi Rhonda còn chưa kịp nói hết câu, mí mắt ngài Benedict chớp chớp, mở hẳn, rồi ngài ngồi bật dậy khỏi ghế, kêu lên “Aaa” một tiếng.
Liếc nhìn chiếc đồng hồ bỏ túi vừa được lôi ra, ngài Benedict bất chợt đưa tay sờ sờ sống mũi, như đang muốn tìm một thứ gì đó. “Ta e là ta chẳng nhìn thấy nếu không có kính.”
“Đây ạ,” Rhonda đưa kính cho ngài Benedict.
“Cảm ơn em.” Có kính rồi, ngài Benedict nhìn lại đồng hồ và gật gù tỏ vẻ hài lòng. “Chỉ mất vài giây, tốt. Ta rất ghét bắt mọi người phải chờ đợi lâu.” Rồi ngài ngáp dài, uể oải đưa tay lên vuốt vuốt lại mái tóc, giống như người ta vẫn thường làm mỗi khi vừa ngủ dậy. Chắc hẳn đây là lời giải thích cho bộ dạng lôi thôi, lếch thếch của ngài Benedict.
“Thêm một chuyện nữa ta cần giải thích rõ cho các cháu,” ngài Benedict nói.
“Ta mắc một hội chứng có tên là chứng ngủ rũ. Các cháu nghe đến cái tên này bao giờ chưa?”
“Chắc chắn là rồi ạ, đây là một chứng rối loạn, biểu hiện thành những giấc ngủ sâu đến bất ngờ và không thể kiểm soát,” Sticky nói, rồi cúi mặt thẹn thùng. “Ít ra thì đấy là những gì cháu đọc được trong từ điển.”
“Từ điển giải thích đúng rồi đấy. Tuy nhiên, chứng ngủ rũ biểu hiện ở mỗi người mỗi khác. Trong trường hợp của ta, giấc ngủ thường ập đến sau những trạng thái cảm xúc mạnh. Vì thế mà ta mặc đồ kẻ ô màu xanh này đấy – mấy năm trước ta phát hiện ra kiểu vải này có tác đụng xoa dịu đối với chứng bệnh này – và ta lúc nào cũng phải cố gắng để giữ bình tĩnh. Tuy thế, đôi lúc ta vẫn nên tự thưởng cho mình những tràng cười sảng khoái chứ nhỉ? Nếu thiếu đi nụ cười, không biết cuộc sống sẽ ra sao?”
Lũ trẻ lễ phép gật đầu, vẻ bất an.
“Lúc nãy ta dừng ở đâu nhỉ? À, về Constance. Ta đoán là các cháu không thấy mấy câu trả lời của bạn ấy thú vị, giống như cảm nhận của ta. Hoặc là, có phải lúc ta ngủ các cháu đã cười không?” Ngài Benedict nhìn lũ trẻ, hồi hộp chờ đợi, nhưng đáp lại chỉ là những khuôn mặt không cảm xúc. “Ta hiểu rồi. À, mà có thể các cháu sẽ thấy cái này thú vị này. Thay vì trả lời các câu hỏi ở vòng thi thứ hai, Constance sáng tác một bài thơ dài về cái lố bịch của kỳ thi và những luật lệ xung quanh nó, đặc biệt là về cái bước thứ tư bị bỏ qua ấy – và có vẻ như điều này đã khiến cô bé liên tưởng đến lỗ hổng trên mấy cái bánh rán – để rồi cuối cùng mấy lỗ hổng đó lại thành chủ đề của bài thơ thứ hai. Constance đã rất tức giận, có vẻ như thế, vì chẳng hiểu tại sao trên cái bánh lại cứ phải có một cái lỗ như thế. Cô bé thấy như mình đang bị cướp vậy. Ta đặc biệt ấn tượng với một chỗ gieo vần khéo léo giữa “flaky bereft” và “bakery theft”. Xem nào, đâu rồi nhỉ? Ta nhớ nó ở ngay đây…” Rồi ngài bắt đầu giở qua giở lại mấy trang giấy thi.
“Xin lỗi ạ,” Sticky nói. “Thưa ngài, nếu bạn ấy không trả lời bất cứ câu hỏi nào, sao bạn ấy đỗ được ạ? Ý cháu là, ngay cả khi bạn ấy thậm ấy chẳng buồn cố gắng để tìm ra đáp án.”
“Sẽ có bài kiểm tra,” ngài Benedict nói đầy ẩn ý, “và sẽ còn những bài kiểm tra khác nữa.”
“Ý ngài là gì ạ?”
“Điều đó sẽ sáng tỏ ngay thôi, Sticky. À, đây rồi, cuối cùng thì cũng tìm thấy.”
Bỗng cánh cửa bật mở, cô Số Hai, với vẻ mặt bực bội bước vào. Theo sau là Milligan với vẻ thiểu não. Và còn có Constance Contraire rất, rất nhỏ bé.
Phải mất một lúc lũ trẻ mới nhận ra là còn có Constance nữa. Bởi, từ khuôn mặt buồn bã của Milligan, ánh mắt của chúng phải xuống một quãng khá dài mới bắt gặp được khuôn mặt của Constance. Thực sự là Constance rất nhỏ bé, lại còn béo và lùn nữa, nên trông cô bạn cứ như một cái bình cứu hỏa vậy (và càng giống hơn nữa nhờ đôi gò má ửng hồng và cái áo mưa màu đỏ cô bé đang mặc). Điều đầu tiên thôi thúc Reynie là cảm giác thương cảm – chắc phải khó khăn lắm khi ở trong cái hình hài nhỏ bé hơn bạn bè nhiều đến thế – nhưng khi Constance quẳng cho Reynie một ánh nhìn hằn học, dường như cô bạn chẳng thích gì Reynie, thì sự cảm thông trong Reynie mất hết.
Vừa giúp Constance leo lên ghế (dù cái ghế chẳng to lắm, nhưng cô bé vẫn cần có sự giúp đỡ mới leo lên được), cô Số Hai vừa nói, “Thay vì tìm cách đi qua mê cung, cô bé này lại tìm một góc khuất và yên tĩnh rồi lôi đồ ra ăn. Phải mất một lúc Milligan mới tìm ra cô bé đấy.”
“Em không định xin lỗi đâu,” Constance nói.
“Chúng ta cũng không yêu cầu cháu phải làm thế,” ngài Benedict trả lời. “Ta thấy vui khi biết cháu đã ăn tối rồi. Bữa ăn ngon chứ? Cháu đã no chưa?”
“Cũng tương đối ạ,” Constance trả lời.
“Tốt lắm. Cám ơn Milligan nhé.”
Sau một cái gật đầu, người đàn ông sầu khổ Milligan với tay kéo mũ xuống qua mắt, đi ra khỏi thư phòng. Cô Số Hai đã kịp lấy lại vị trí quen thuộc của mình ở bên ngài Benedict. Cuối cùng, sau khi giới thiệu Constance với lũ trẻ (với ai cô bé cũng nhìn với ánh mắt cáu kỉnh đến mức chẳng có ai buồn đưa tay ra chuẩn bị cho một cái bắt tay) ngài Benedict cũng bắt đầu nhiệm vụ.
“Các bạn trẻ,” ngài Benedict bắt đầu với vẻ mặt càng lúc càng trịnh trọng. “Ta vào thẳng vấn đề luôn. Ta ước ta có thể thông báo rằng, vượt qua tất cả các vòng thi có nghĩa là các cháu chuẩn bị được tham gia một khóa đào tạo rất thú vị. Ngược lại, điều ta sắp nói ra đây lại chẳng hề thú vị, thật sự là chẳng thú vị chút nào.”
Lũ trẻ nhíu mày, vẻ bối rối. Ngài ấy đang đùa? Nhưng mà, dường như ngài ấy nghiêm túc đấy chứ. Có thể, điều này cũng lại là một bài kiểm tra nữa – một cách để đánh giá sự tận tụy của chúng.
“Trong những năm qua,” ngài Benedict nói tiếp, “ta đã tổ chức những kỳ thi như thế này với hi vọng thành lập được một đội trẻ em để phụ giúp ta trong một dự án khẩn cấp. Các cháu có thể đã biết rằng cách đây vài năm Rhonda đã tham dự kỳ thi, và Số Hai cũng thế. Thực tế, một số lượng rất lớn đã tham dự, nhưng ta vẫn chưa có thể có một đội như mong muốn. Lý do là gì? Thứ nhất, rất ít em có thể vượt qua các vòng thi. Thêm vào đó, số lượng ít ỏi các em, các cháu vượt qua được thì lại không cùng thời, mà như các cháu có thể thấy đấy, cái này rất quan trọng. Chưa kể đến việc trẻ em thì không thể cứ mãi là trẻ em trong một thời gian dài, do đó mà khó khăn lại càng được nhân lên. Vài năm trước, Rhonda còn là một đứa trẻ, vài năm trước đó thì Số Hai cũng thế, nhưng giờ các cháu thấy đấy, cả hai đều khá lớn rồi. Rhonda và Số Hai ở lại với ta dưới vai trò là trợ lý – và ta phải thừa nhận rằng cả hai đã giúp ta rất nhiều – nhưng cũng như chính bản thân ta, cả hai không thể là một phần của đội mà ta đang tìm kiếm.”
Cho đến tận bây giờ, ngài Benedict vẫn chưa nói gì làm Reynie cảm thấy thực sự không thoải mái. Nếu có một thứ cảm giác nào đó, thì đó chính là cảm giác tự hào. Tự hào về chính mình, về những người bạn mới vì đã làm được điều phi thường. Rõ ràng là ngài Benedict tin rằng chúng có những thứ cần thiết để tạo nên đội đặc biệt mà ông đang tìm kiếm. Tuy nhiên, Reynie cũng cảm nhận được chẳng phải ngài Benedict đang nói tránh đi – nếu ông đã nói sẽ có gì đó không hay, thì Reynie chắc chắn một điều gì đó không hay sẽ đến thôi. Cạnh đó, Sticky đang loay hoay lo lắng, rõ ràng cũng đang có cùng một suy nghĩ với Reynie. Còn Kate, vừa mới quay sang nhìn Reynie thì bắt gặp ánh mắt bất an của cậu bạn, lặng lẽ gật đầu: Điều tồi tệ đang đến.
“Ta hiểu các cháu đang tự hiểu khi nào ta sẽ nói đến cái điều không hay kia,” ngài Benedict nói. “Ta chẳng hề muốn đưa các cháu vào chỗ nguy hiểm. Thậm chí ta khinh thường cái suy nghĩ đó. Trẻ em nên dành thời gian để học tập và vui chơi trong sự an toàn tuyệt đối – đó là quan điểm của ta. Bây giờ thế này nhé, giả dụ như những gì ta đang nói đều là sự thật, các cháu có thể đoán được tại sao ta, trái ngược với suy nghĩ của bản thân, lại kéo các cháu vào nguy hiểm không?”
“Tại sao lại phải giả định là ngài đang nói thật?” Constance thách thức.
“Vì lợi ích của cuộc thảo luận,” ngài Benedict trả lời, “nào, cùng giả định như thế nhé.”
“Nếu ngài đang nói thật,” Reynie nói, “thì lí do duy nhất khiến ngài kéo chúng cháu vào nguy hiểm là ngài tin rằng nếu không làm thế chúng cháu sẽ phải đối mặt với sự nguy hiểm đáng sợ hơn nữa.”
Ngài Benedict vỗ vỗ vào cái mũi sần sùi của mình rồi chỉ Reynie. “Chính xác. Đúng là ta nghĩ thế. Thực tế, ta chắc chắn rằng các cháu – và rất nhiều người nữa – đã đang gặp nguy hiểm ngay vào giây phút này rồi, và ta cũng chắc chắn mối đe dọa này chỉ càng lúc càng tăng lên, chứ chẳng hề giảm đi.”
Sticky ho và lẩm bẩm gì đó liên quan đến việc cần sử dụng phòng tắm.
Ngài Benedict mỉm cười trìu mến và nói, “Sticky, cháu không phải sợ hãi, cháu không bắt buộc phải tham gia đội. Ta muốn các cháu hiểu hơn một chút nữa, và sau đó cháu hoàn toàn có quyền lựa chọn đi hay ở. Công bằng chưa nào?” Lưỡng lự vài giây, Sticky gật đầu. “Bây giờ, cháu có thực sự cần phòng tắm nữa không, hay là cháu có thể đợi thêm một lúc nữa?” ngài Benedict thêm vào.
Thực sự thì Sticky cần, nhưng cậu bé trả lời, “Cháu có thể đợi ạ.”
“Tốt lắm. Bây giờ, trước khi giải thích rõ hơn, ta có một câu hỏi khác dành cho các cháu. Điểm chung của các cháu là gì?”
“Chúng cháu đều vượt qua mấy vòng thi tẻ nhạt,” Constance nói.
“Chúng cháu đều tài năng,” Kate nói.
“Chúng cháu đều là trẻ con,” đến lượt Sticky lên tiếng.
Ngài Benedict gật đầu với mỗi ý kiến, rồi nhìn Reynie, người vừa mới có câu trả lời, “Chúng cháu đều cô đơn.”
Ngài Benedict nhíu mày. “Điều gì khiến cháu nghĩ như thế?”
“Có ạ,” Reynie trả lời, “đó là mẩu tin quảng cáo. Nó không hướng tới các vị phụ huynh, mà nhắm thẳng tới những đứa trẻ. Vì thế nên cháu nghĩ ngài đang tìm kiếm những đứa trẻ cô đơn. Rồi có rất nhiều ông bố bà mẹ đưa con đến tham dự vòng thi thứ nhất, nhưng sau đó tại tòa nhà Thầy Tu cháu chỉ thấy một số ít – và cháu biết ít nhất một số bạn đã tự đi đến đó. Và giờ thì chúng cháu đang ở đây. Cháu là trẻ mồ côi, mẹ Kate mất khi bạn ấy còn nhỏ và sau đó thì bạn ấy lại bị bố bỏ rơi, và cháu chỉ dám phỏng đoán về Constance, còn về Sticky – tớ xin lỗi, Sticky, nhưng tớ đoán cậu đang giấu diếm điều gì đó. Tớ nghĩ, ở một mức nào đó, cậu cũng là người cô đơn.”
“Trước khi cháu nói gì đó,” ngài Benedict quay sang Sticky, cậu bé đang nhìn Reynie chằm chằm với ánh mắt sửng sốt, “để ta nói nói với cháu điều này. Ta luôn luôn có quy định rất nghiêm ngặt liên quan đến việc chạy trốn. Nhưng xét đến hoàn cảnh hiện nay, ta sẵn sàng đưa ra một ngoại lệ. Khi cần phải quyết định đi hay ở, hãy nhớ rằng cháu không cần phải bịa ra bất cứ một lý do nào cả. Và nếu cháu quyết định không ở lại, Rhonda và Số Hai sẽ có nhiệm vụ giúp đỡ cháu. Ta chẳng hề định sẽ để cháu đi ra ngoài phố kia mà không có tiền, không có thức ăn, và không được bảo vệ.”
Đến lúc này, Sticky chuyển ánh nhìn sửng sốt của mình sang ngài Benedict. Cậu bé mở miệng định nói, nhưng rồi suy nghĩ lại, và cuối cùng cúi gằm mặt xuống.
Kate nghiêng người đặt một tay lên vai cậu bạn mới. “Chạy trốn?” cô bé thì thầm. “Cậu suy nghĩ thực tế hơn tớ tưởng đấy, bạn thân ạ.”
“Ai cũng trả lời đúng hết,” ngài Benedict nói. “Các cháu là những đứa trẻ tài năng đã vượt qua mấy vòng thi “nhàm chán” của ta, và đều thể hiện cho ta thấy các cháu cực kỳ có tài xoay sở. Chẳng hạn, ta vô tình biết được là Constance đã bí mật sống ở một thư viện công cộng phía bắc thành phố Đá, và cô bé đã xoay sở để bắt được một chuyến xe buýt, một chuyến tàu điện ngầm, và cuối cùng là một chuyến taxi để đến đây. Và ta cũng biết được là, ở Chicago, Kate đã ăn trộm trên một toa xe, còn Sticky thì đi lậu vé trên một chuyến xà lan. Các cháu đều thể hiện là mình thông minh – bằng cách này hay cách khác – và, tất nhiên rồi, hiểu theo nghĩa này hay nghĩa khác, các cháu đều cô đơn.”
Rồi ông tạm dừng, âu yếm nhìn lũ trẻ đang lẫn lộn trong sự tự hào tuyệt đối và lòng cảm thương vô bờ. Thực sự, nước mắt đã dâng đầy trong mắt ông, và sự chân thành đó khiến Reynie – vốn quen với việc lờ đi sự cô đơn của chính bản thân mình – bỗng cảm thấy thật buồn chán. Khao khát mãnh liệt được gặp lại cô Perumal dâng lên trong lòng cậu. Mới sáng nay thôi, Reynie đã ngạc nhiên biết bao khi cô Perumal khóc lúc họ chia tay? Vậy mà Reynie cảm giác như chuyện đó đã xảy ra lâu lắm rồi.
“Ôi trời ơi,” Rhonda kêu lên, vì ngài Benedict, ngập trong những cảm xúc mạnh, đã lại rơi vào giấc ngủ. Báo hiệu bằng một tiếng ngáy to và bất thình lình, ngài Benedict ngã chúi về phía trước, vào vòng tay ân cần của Rhonda và Số Hai, trước khi hai người nhẹ nhàng đặt ông xuống sàn.
“Chuyện gì xảy ra với ngài ấy thế ạ?” Constance hỏi.
“Ngài ấy bị mắc chứng ngủ rũ,” Kate nói.
“Tức là ngài ấy thường xuyên ăn trộm à?”
“Không, không phải tật táy máy như cậu nghĩ đâu,” Sticky nói. “Ngài Benedict ngủ rất nhiều.”
“Ồ, tớ chẳng thích điều này chút nào đâu,” Constance giận dữ.
“Constance, cô cam đoan là,” Số Hai nói, vẻ phật ý, “ngài Benedict cũng chẳng thích thú gì đâu. Không ai trong chúng ta muốn nó cả. Chỉ đơn giản là phải chấp nhận nó mà thôi.”
Trước cả khi ai đó kịp nói thêm gì, ngài Benedict mở mắt, chớp chớp vài cái, rồi lại đưa tay vuốt mái tóc trắng bù xù của mình. Rhonda dịu dàng, “Chỉ một phút thôi mà. Ngài chỉ ngủ trong vòng có một phút thôi.”
“Thật thế không? Tốt, tốt lắm. Cảm ơn các bạn của ta, cảm ơn.” Rồi ngài Benedict vỗ nhẹ vào tay Rhonda và Số Hai, nhắc họ giúp ngài đứng lên.
“Thường những lúc ta cười,” ngài giải thích với bọn trẻ, “nhưng mấy ngày gần đây lại thêm vài nguyên nhân nữa. Giờ thì, ta đang.. ? À, đúng rồi. Chúng ta đều cô đơn. Để ta giải thích cho các cháu tại sao chuyện này lại quan trọng nhé. Bởi một điều, những đứa trẻ không được bảo vệ vô tình lại phải chịu một mối đe dọa mà những đứa trẻ khác không vướng phải – ta sẽ giải thích cụ thể hơn cho cháu nào đồng ý tham gia đội của ta. Thêm nữa, đơn giản là ta chẳng thể bắt những đứa trẻ không cô đơn phải mạo hiểm. Dù nguyên nhân có quan trọng thế nào chăng nữa, chẳng bố mẹ nào lại thích để con mình gặp nguy hiểm cả. Còn bây giờ ta đang nhìn thấy được sự hiện diện của một nhóm tốt nhất mà ta có thể mong chờ – thực sự ta đã hy vọng từ lâu lắm rồi – và không thể phí phạm thêm một phút giây nào nữa. Các cháu là niềm hi vọng cuối cùng của chúng ta. Và, các cháu cũng là niềm hy vọng duy nhất mà ta có được.”