Biết rằng đang đứng trước mặt là người đàn ông cao hơn mình một cái đầu, nhưng tôi vẫn không cách nào kiềm chế được ảo giác như đã từng quen biết.
—–
Chương 3
Từ cửa sổ có thể nhìn thấy toà nhà chính và phía tây của toà lâu đài, phía trước toà nhà là một thảm cỏ được chăm sóc rất tốt, vào mùa xuân những nhánh cỏ sắc nhọn mang màu xanh nhạt, những viên đá cuội xếp thành đường chia nó thành bốn, năm hình thù đồng dạng.
Cô hầu gái dọn sỏi vụn trên đường, vẩy nước lên cỏ.
Thật là một buổi sáng bình yên đẹp đẽ.
Tôi duỗi thẳng chân tay đi lại trong phòng ngủ một lúc rồi nhìn đồng hồ, đã tám giờ. Tôi vội vàng rửa mặt, thay quần áo, nhìn vào gương thắt nơ.
Mặc dù đã hơn hai tháng trôi qua, nhưng mỗi lần tôi làm động tác tương tự tôi lại không kiềm chế được mà nhớ tới Mary. Nàng sẽ mặc áo choàng tắm chải đầu cho tôi, rồi nói: “Jean, tóc của anh rất đẹp, giống như màu hổ phách vậy.” Mỗi lần tôi vụng về thắt nơ, nàng sẽ cười gạt tay tôi ra, sau đó dịu dàng cười nói tôi không quen chăm sóc bản thân. Vậy nên từ ngày nàng ra đi, tôi chưa bao giờ thắt được cho mình một chiếc nơ ngay ngắn nào.
Thử mấy lần, rốt cục cũng thắt ra được một kiểu miễn cưỡng được coi là hợp cách, vừa vặn gặp phải bà Harding, người phụ trách dọn dẹp phòng ngủ cho tôi.
“Đúng rồi, bà Harding, có thể cho tôi biết ngài công tước đang ở đâu không?”
“Đại nhân đang ở morning room, để tôi đưa ngài đi.”
(Morning room: một dạng phòng đón được nhiều ánh sáng buổi sớm, dùng để tiếp khách, uống trà hoặc cà phê sáng. Thường được làm bằng kính hoặc cửa sổ kính từ chân tường lên đến trần nhà để đón ánh sáng.)
“Cám ơn.”
Dọc theo hành lang tầng ba, phía bắc chính là toà nhà chính, ở khúc rẽ có một chiếc cầu thang xoắn ốc, bà Harding dẫn tôi đi xuống tầng dưới cùng, đi vào một căn phòng ở phía tây.
Đây là một căn phòng rộng gấp đôi phòng khách nhà tôi, ước chừng gần 100 feet vuông (khoảng 9,3 mét vuông). Cửa sổ được xây sát đất lên đến trần khiến căn phòng ngập tràn ánh sáng, hai bình hoa tươi mang sương sớm được đặt trên chiếc bàn làm bằng gỗ gụ. Công tước đang ngồi trên ghế bên cửa sổ, dưới ánh mặt trời nhàn nhã xem tờ báo ‘The Times’, trên chiếc bàn thấp bên cạnh đặt một ấm trà đen nóng hổi và hai đĩa điểm tâm, vài người hầu nam mặc đồng phục màu đỏ thẫm rất có quy củ.
Tôi nhắm mắt đi tới, làm bộ ho khan hai tiếng: “… Chào buổi sáng, ngài công tước.”
“À, ngài Pontona.” Hắn gập báo lại, mỉm cười quyến rũ với tôi, “Tối qua ngủ có ngon không?”
“Tốt lắm, cám ơn.” Tựa như hắn không hề để ý đến chuyện không vui giữa chúng tôi. “… Ừm, sao tôi không thấy nam tước phu nhân Siena?”
“Cô ấy còn đang ngủ.”
Hoá ra tôi lại hỏi một vấn đề ngớ ngẩn; hắn cũng không ngại, khiến mặt tôi có chút nóng.
“Đúng rồi, anh vẫn chưa ăn sáng đúng không? Muốn ăn gì?”
“Bánh mì và cà phê là được, cám ơn.”
Những người hầu đưa tới một chiếc ghế, hai người chúng tôi ngồi song song với nhau. Không biết có phải vì tối hôm qua tôi đã hứa với Mary rất nhiều điều, mặc dù tôi không thể tha thứ cho sự máu lạnh của hắn, nhưng ít ra cũng không có ác cảm quá lớn.
Dùng hết bữa sáng trong không khí hoà bình, hắn nói sẽ đưa tôi đến nhà thờ gần đó để tản bộ; nghĩa trang của gia tộc St. Clair, nơi đó, chính là nơi Mary sẽ vĩnh viễn ngủ yên.
“Tốt nhất là cậu nên mang một đôi giày thoải mái một chút.” Hắn vừa bảo quản gia thay quần áo cho hắn, vừa khuyên tôi, “Chúng ta phải đi bộ.”
“Xa à?” Tôi chỉ đem theo một đôi giày da và một đôi giày cao cổ không quá dày.
“Gần lắm, đi bộ chỉ mất một giờ.”
Khác với rừng thông lúc tôi đến, ra khỏi toà lâu đài đi về hướng tây là một ngọn đồi nhấp nhô, chỗ đó không có cây cao, tất cả đều là bụi cây và hoa dại đang nở rộ, con đường rộng 10 feet giống như một dải lụa đen quanh co đến phương xa, mặt đường hơi ướt, dường như cơn mưa đêm qua chỉ đến nửa đêm rồi tạnh. Bị kẹp giữa ánh mặt trời ấm áp và hơi gió mang theo mùi bùn đất phả vào mặt, tôi không nhịn được mà hít thở sâu.
Công tước mặc một chiếc áo khoác mỏng màu xám tro, một chiếc áo khoác dài đơn giản, chẳng giống tôi chút nào, đeo cà vạt, mặc âu phục chật chội, lại còn cầm thủ trượng, giống hệt như một người đàn ông trung niên lỗi thời.
Chúng tôi thong thả vừa đi vừa nói chuyện phiếm.
“Nhà thờ ở một ngôi làng gần đây, cũng thuộc đất của gia tộc Saint Clair.” Công tước chỉ về phía xa, “Nơi đó giáp biển, phong cảnh rất đẹp. Đúng rồi, tôi phải nói thêm một câu, nơi đó không phải là nhà thờ Thiên Chúa giáo.”
“Yên tâm, tôi đã đổi sang đạo Tin Lành.”
Công tước bất ngờ nhìn tôi: “Pontona, tôi có thể nhận thấy rằng cậu rất yêu Mary.”
“Đúng, tất nhiên rồi. Chúng tôi… rất yêu nhau…”
“Trong thư Mary từng nói cậu vô cùng dịu dàng, đối xử với nó rất tốt, nó thường khen ngợi rằng cậu là người chồng tốt nhất. Bây giờ tôi hoàn toàn tin rồi. Có điều lúc vừa thấy cậu tối hôm qua, tôi vẫn cảm thấy so với miêu tả của nó có chút khác biệt.”
Tôi biết ý hắn là gì: trời sinh tôi có gương mặt trẻ con, mặc dù đã hai mươi sáu tuổi, lại không có thói quen để râu, nhìn thoáng qua giống hệt như một sinh viên đại học, ngay cả Mary vẫn thường hay trêu đùa là không có cách nào khiến người khác tin rằng tôi là một người đàn ông đã kết hôn. Hơn nữa tối qua tôi còn dùng cái giọng đầy thuốc súng mà nói chuyện với chủ nhà, có lẽ tính tình nóng nảy của tôi khiến hắn ta cảm thấy tôi rất không có giáo dục.
Tôi bĩu môi một cái rồi quay đầu, tôi sẽ không vì hành động tối hôm qua mà nói xin lỗi, cho dù tôi cũng muốn chung sống hoà thuận với hắn.
“Cậu tức giận rồi, Pontona.”
“Không, không có.” Tôi kéo nơ, “Anh có thể gọi tôi là Jean.”
“Được, Jean, cậu thấy nóng à?” Hắn nhìn chằm chằm vào cổ tôi.
“Có một chút, có thể là do đi bộ.”
“Để tôi giúp cậu.” Hắn đột nhiên dừng lại, đưa tay về phía tôi, “Nơ của cậu chặt quá!”
Tôi ngây người, nhất thời quên mất phải từ chối, chỉ ngơ ngác nhìn đôi mắt màu tử la lan mang theo nụ cười đến gần mình, bàn tay thon dài rõ các khớp xương nhẹ nhàng tháo nơ của tôi ra, động tác khéo léo. Không phải mùi cơ thể mà tôi quen thuộc, mà là mùi chanh và cả mùi thuốc lá; không có động tác dịu dàng, chỉ có thể cảm nhận được sự linh hoạt của hắn. Biết rằng đang đứng trước mặt là người đàn ông cao hơn mình một cái đầu, nhưng tôi vẫn không cách nào kiềm chế được ảo giác như đã từng quen biết. Tôi cố gắng kìm nén, rất sợ rằng nước mắt sẽ rơi.
Chỉ chốc lát, hắn thắt cho tôi một kiểu thoải mái hơn, cười cười vỗ vai tôi: “Jean, cậu đúng là không giỏi chăm sóc bản thân.”
Đi dọc theo con đường đến ngôi làng, quả thật chỉ mất có một giờ, không hơn. Tôi hết sức bội phục khả năng tính giờ chính xác của công tước. Hắn nói với tôi, nơi này cũng gọi là Almet, có hơn trăm hộ dân, nhà thờ nằm ở chính giữa làng.
Những ngôi nhà bên đường đều được làm từ đá hoa cương và gỗ, phía bên ngoài con đường đầy rêu xanh và nước đọng, nhìn một cái là biết nhiều năm rồi, nhưng mỗi ngôi nhà đều rất ngay ngắn, không ít nhà còn trồng hoa đỗ quyên màu trắng và đỏ dưới cửa sổ. Những người dân chất phác đó đều cởi mũ và cúi chào công tước khi đi ngang qua chúng tôi, thậm chí mấy thiếu nữ ngại ngùng còn len lén liếc nhìn mấy lần.
Chỉ chốc lát sau đã nhìn thấy đỉnh của nhà thờ, công tước dẫn tôi đi vào cửa sắt màu xám tro, cười nói: “Rất cũ kỹ đúng không? Có hơn mười vị công tước Cernando đã ở đây tiếp nhận lễ rửa tội, cử hành hôn lễ, cuối cùng là tang lễ.”
Mặc dù trong giọng nói của hắn mang một chút bất cần, nhưng tôi vẫn nhìn nhà thờ cũ trải qua lịch sử mấy trăm năm này với sự tôn trọng tự trong cõi lòng; thời gian lễ bái đã qua, ở trong đó không có người dân, bên trong rất rộng, ước chừng có thể chứa đến 400 người.
Nhìn ra được nơi này đã được tu sửa rất nhiều lần, mặc dù pho tượng bên ngoài đã bị phai mờ, nhưng những bức bích hoạ bên trong vẫn vô cùng đẹp đẽ. Tượng Thánh được lau chùi không dính một hạt bụi, trên giá nến hoàn toàn không có dấu vết của đèn cầy, hoa văn trên những cửa sổ dài trong hội trường vì không có bụi nên rực rỡ đến chói mắt, ánh mặt trời xuyên qua rọi xuống nền đá trơn nhẵn, hình thành khúc xạ ánh sáng. Mười mấy hàng ghế gỗ dài xếp rất ngay ngắn, từ tựa lưng đến tay vịn không có một chút vết bẩn.
Nhìn sự sạch sẽ trước mắt, tôi có thể tưởng tượng được linh mục ở nơi này có bao nhiêu hiền hoà, tóc râm bên thái dương của ông nhất định là đã tích luỹ từ nhiều năm thành kính.
“Lại đây, để tôi giới thiệu linh mục Yassan Gada với cậu.” Công tước hướng cằm đến bên kia, lại cao giọng, “Chào, linh mục, không đến đón khách sao?”
Một người mặc đồ đen từ phía bàn thờ chậm rãi đứng lên. Vì vậy tôi mới biết bây giờ vẫn còn có người đang cầu nguyện.
“Ngài công tước, thật không ngờ ngài sẽ đến chỗ này.” Một âm thanh trong trẻo vang lên, mắt tôi suýt chút nữa thì rơi ra ngoài: Người được gọi là ‘linh mục’ đi về phía chúng tôi, mái tóc dài đen như lụa của người cột thành búi sau đầu, khuôn mặt trắng nõn như gốm đẹp đến mức giống như thiên sứ bên cạnh Đức Thánh, dáng người thon dài, cử chỉ trang nhã, nếu không mặc bộ đồ kia, dù thế nào tôi cũng không tin người đơn giản chỉ là một giáo sĩ.
“Vị này là…” Đôi mắt xanh thẳm của người nhìn tôi.
“À, xin lỗi.” Công tước vỗ vai tôi, “Đây là ngài Pontona, chồng của Mary. Jean, vị này chính là linh mục Yassan Gada, người sẽ chủ trì tang lễ cho Mary.”
“Xin chào, ngài Pontona, rất hân hạnh được biết ngài.”