Tuệ Phong ngả người đong đưa trên chiếc ghế gỗ đã gãy chỉ còn một chân. Hai chân cậu gác lên thành lan can trạm gác, tay chắp sau đầu, thư thả ngắm trời mùa đông u ám vùng núi Lưỡng Long. Đứng từ gác canh sơn trại nhìn ra xung quanh, ai mới đến lần đầu ngỡ tưởng mình đang đứng trên mây khi tuyết phủ dày trắng trên những tán lá tùng, thông ken nhau dày đặc. Tuyết vẫn rơi mau làm những cành tùng to chắc cũng phải oằn mình mới đỡ được. Một số cành già cũng đành chịu thả mình xuống đất nghe bình bịch như tiếng ai lén lút dạo quanh khu rừng, làm những kẻ yếu bóng vía phải ngoái đầu nhìn trước sau với một cái thót tim khẽ. Tuệ Phong ngâm nga một câu hát mà đám sơn tặc hay hát:
Rượu Nữ Nhi Hồng sao hồng bằng má giai nhân trước mặt.
Ta say rượu thì ít mà say nàng thì nhiều.
Vậy mà nàng chỉ nhìn ta một lần rồi quay đi.
Vì ta là đạo tặc, không xứng với nàng tiểu thư khuê các.
Vì ta là đạo tặc, ngày ôm bầu rượu tối ôm đao.
Một đao xả hận
Hai đao đoạn tình
Ba đao nhìn lại quanh mình chẳng có ai
Ta lại uống rượu Nữ Nhi Hồng, ngắm nhìn giai nhân trước mặt..
Bỗng cậu nhíu mày bởi tiếng rên khe khẽ từ phía sau. Dưới sàn là ba kẻ mặc đồ bạch y, che mặt kín mít đang lăn lộn, khẽ rên rỉ đau đớn. Xung quanh chúng là ba cái chân ghế gãy đã nhuốm đỏ màu huyết dụ. Tuệ Phong bình thản hỏi:
– Các ngươi không khai mau ra là kẻ nào sai các ngươi đến do thám Lưỡng Long Trại? Ta đang ngồi thoải mái, đừng để ta phải đứng dậy mà làm gãy nốt cái chân ghế duy nhất còn lại đấy..
Nói đoạn, cậu liếc mắt về một tên, xem ra là trẻ nhất. Hắn cũng chỉ tầm tầm tuổi cậu, đôi mắt hắn vẫn còn nhiều nét sợ hãi lẫn ngơ ngác mà cậu đã bắt gặp nhiều lần khi soi mình xuống dòng suối trước kia. Cậu búng người nhẹ đáp xuống trước mặt hắn, đoạn tiện tay trảm gãy nốt cái chân ghế còn lại trước khi nó kịp đổ. Cầm chân ghế trong tay, Tuệ Phong nhìn vào mắt hắn, nói:
– Ta biết ngươi đang sợ. Ban nãy ta đánh ngươi cũng khá đau rồi. Ta không biết là giờ khi ta không còn ghế để ngồi thì sẽ đánh ngươi thảm hại hơn hay là hai tên đồng bọn hết sức kia của ngươi trừng trị ngươi đau đớn hơn. Nào, nói ta nghe, ai sai ngươi đến đây? Tại sao lại giám sát ta?
Nếu có ai từng đứng trước mặt một con gấu xám đói, cảm nhận được sát khí nặng nề đè nặng lên ngực mình, thì hẳn cũng hiểu tâm trạng của tên mặc đồ bạch y đã loang máu đỏ trẻ tuổi bây giờ. Hắn nhắm tịt mắt lại, lắp bắp:
– Là Độc Vương sai chúng tôi giám sát cậu! Ông ấy muốn biết cậu học võ công từ ai!
Tuệ Phong nhíu mày, hỏi:
– Độc Vương? Ta có đâu có quen biết ai là Độc Vương? Mà tại sao ông ta lại muốn biết ta học võ công từ đâu chứ? Ngươi tên gì?
Kẻ kia run run nói, mắt vẫn lén lén nhìn cái chân ghế đang nhịp nhịp trong tay Tuệ Phong:
– Ta.. ta tên.. Dã.. Dã.. Tượng..
Tuệ Phong gật gù nói:
– Dã Dã Tượng, tên cũng lạ đấy. Dã Dã Tượng, ngươi kể ta nghe rõ hơn về Độc Vương này đi.
Tên Dã Tượng kia liếc nhìn sang đồng bọn, thấy đồng bọn lắc đầu, ra hiệu đừng nói. Nhưng nhìn sang cái chân ghế vừa gõ đánh rầm một tiếng ngay bên cạnh bàn tay hắn, hắn lại run run thưa:
– Độc Vương là tiền bối chuyên dùng độc nức tiếng giang hồ. Tên thật thì tiểu nhân cũng không hay, chỉ biết ông ấy xem ra rất thân thiết với trại chủ Lưỡng Long Trại. Ngoài đó ra thì tiểu nhân cũng không biết gì hết. Tiểu nhân thề có trời đất chứng giám!
Tuỳ Phong gật gù nói:
– Vậy là đủ rồi. Vì tên này đã thành thực khai ra nên ta tha mạng cho mấy người các ngươi. Nhưng nếu ta mà thấy các ngươi lảng vảng ở Lưỡng Long Trại một lần nữa thì đừng có trách!
Mấy kẻ kia vội vã đứng lên, toan bỏ chạy nhưng nghĩ gì lại ngần ngừ đứng ở cửa trạm gác. Tuệ Phong thấy thế, gắt lên:
– Còn không mau cút đi!
Dã Tượng thở dài quay lại, nói:
– Tiểu nhân nghĩ kỹ rồi. Lần này quay về mà lại không có tin tức gì thì Độc Vương cũng sẽ hạ độc thủ với chúng tiểu nhân. So với chết vì độc thì xem ra chết dưới gậy của công tử có vẻ dễ chịu hơn.
Tuệ Phong bật cười, nhưng nghĩ cũng thông cảm cho gã, bèn nói:
– Thôi được, các ngươi giờ ngày ngày đúng giờ dần cứ đến trạm gác này, nhớ mang theo đồ ăn, thức uống mà ngồi đến chiều, thay ta canh gác nơi này. Mỗi ngày ta sẽ cho các ngươi vài tin về mà bẩm báo, giữ mạng cho các ngươi. Các ngươi thấy sao?
Đám người kia thấy bùi tai, vội quỳ xuống lạy sì sụp, nói:
– Công tử đúng là rộng lượng tựa hải hà, không chấp lũ tiểu nhân lại còn bày đường sống. Chúng tiểu nhân nguyện làm trâu ngựa cho công tử sai phái, miễn là giữ được mạng.
Tuệ Phong nhếch mép cười:
– Các ngươi đổi lại cũng phải thăm dò về Độc Vương và trại chủ này cho ta. Hôm nay về cứ bẩm Độc Vương rằng ta học võ công từ một con cáo trắng đã già. Ngày ngày ta ra xem con cáo đó uống nước, săn mồi mà suy ra đao pháp. Giờ ta phải đi có việc. Các ngươi ở lại đây canh trại thay ta, rõ chưa?
Nói rồi cậu xách hũ rượu Nữ Nhi Hồng ở góc phòng, bật người khinh công lướt đi tựa như én lượn ra ngoài. Lao xuống từ trạm gác dựng dọc vách núi, Tuệ Phong khoan khoái cảm nhận từng cơn gió lạnh buốt lùa qua mái tóc thả lòa xòa, xát lên gò má cậu đến ửng đỏ. Cậu thích mùa đông, thích cái lạnh tê tái của gió bắc, thích cảm giác đau đau mỗi khi tung người lướt đi trong gió, có lẽ vì nó làm dịu đi nỗi đau âm ỉ trong lòng cậu suốt tám năm qua. Tám năm.. không một ngày nào cậu không giật mình tỉnh giấc giữa đêm vì những cơn ác mộng về ngày xưa ở Ô Quy Khách. Ngày còn bé, mỗi lúc như vậy cậu đều hét lên bật dậy và bị một cái bạt tai của mấy tên thảo khấu trong trại, sờ xuống gối thì đã ướt đầm nước mắt. Lớn hơn chút, trước khi ngủ cậu cố uống cho thật say với ước mong có một đêm yên giấc, không mộng mị. Nhưng mẹ trong mơ vẫn cứ đêm đêm bước tới, vuốt mặt cậu dặn dò chăm sóc cho Vĩnh Tình. Rồi lại nghe tiếng Vĩnh Tình hét lên lúc cậu bị đánh ngất mang đi. Nỗi ám ảnh đó không vì rượu mà buông tha cậu. Rượu chỉ giúp cậu không đủ sức mà bật dậy, nên thoát được mấy cú bạt tai mà thôi..
Nhẹ bước khinh công thêm một lúc, cậu đã đến trảng cỏ thưa ven rừng, gần thác bạc nơi cậu ngày ngày luyện đao. Hôm nay cũng như bao hôm, lão Hồ ôm đao nằm đong đưa trên một sợi dây leo mắc ngang hai thân cây, nghe thấy tiếng chân cậu bước lại vội bật dậy, khoắng đao một cái đã thấy cuỗm mắt vò rượu trong tay cậu. Lão bật nắp, hít hà thích thú reo lên:
– Nay lại có của hiếm! Nữ Nhi Hồng có mấy khi lại xuất hiện ở cái đất thô lậu này chứ!
Tuệ Phong nhún vai, nói:
– Sắp tới ta phải đi theo hộ tiêu cho chuyến đưa lễ sinh thần đến phủ Thái Sư. Rượu này là ta trộm được trong xe lễ vật đấy. Trong đó có đến cả trăm vại, mất một vài vại cũng chẳng ai biết.
Lão Hồ cười lớn:
– To gan lắm! Dám trộm ngay trước mũi Lãng Nghệ! Nhưng không sao, có rượu là ta thích rồi. Rượu này không phải Nữ Nhi Hồng thường đâu mà là loại hảo hạng đấy.
Tuệ Phong cũng rút đao, xoẹt một cái hất ngay hũ rượu trong tay lão Hồ nghiêng đi, đoạn dùng bản đao hứng rượu dốc vào miệng một ngụm lớn, nói:
– Sảng khoái! Thôi, ta ra thác luyện đao tiếp đây.
Nói đoạn cậu trút bỏ áo ngoài, cởi trần xách đao từ từ đi xuống dưới ngọn thác. Nước mùa đông lạnh đến thấu xương. Nước thác đổ xuống bắn lên những giọt nước li ti tựa nhưng một làn khói lạnh mịt mờ dần che khuất dáng người gọn gàng, rắn chắc của Tuệ Phong. Trong lớp sương mờ đó, bóng cậu từ từ xuất đao. Một luồng khí âm hàn lạnh thấu xương từ từ phát tiết theo mỗi đường đao chầm chậm lướt qua. Qua vài đường đao, lớp sương mờ đó bị kình phong của đao chiêu chém tan hết, không gian dưới chân thác quang đãng lộ ra những đường đao từ tốn nhưng kéo theo một kình lực âm tàng mãnh liệt. Đao chém qua thác tuy không nhanh nhưng kéo theo những luồng xoáy nước trắng xóa. Tuệ Phong lẩm bẩm:
– Vân Long Tam Hiện!
Đoạn lật đao chém ngược từ dưới lên ba đường, đường sau tiếp nối đường trước thành ba vòng tròn, kình lực cực kỳ mãnh liệt. Luồng kình khí xả đôi mạch nước thác ầm ầm chảy xuống đến hơn năm trượng một lúc rồi nước mới nhập lại thành dòng như cũ. Tuệ Phong mỉm cười đắc ý, nói:
– Sư phụ! Chiêu Vân Long Tam Hiện này ta đã đạt thành tựu bằng nửa sư phụ rồi. Thêm một thời gian nữa tất sẽ đạt hoàn mỹ thành tựu.
Lão Hồ gật gù, nhè nhẹ nâng vại rượu uống một hớp nhỏ tựa như đang âu yếm với người tình vậy, nói giọng bỡn cợt:
– Phải rồi, uy lực cũng được đấy. Nhưng đó không phải chiêu Vân Long Tam Hiện.
Tuệ Phong chưng hửng, nghĩ sư phụ đùa mình, hỏi:
– Ta đi sai bộ vị, thế tay, khí lực chỗ nào sao?
Lão Hồ lắc đầu, nói:
– Không sai.
Tuệ Phong phát cáu:
– Thế đó chẳng phải Vân Long Tam Hiện còn gì?
Lão Hồ thủng thẳng bước đến, chỉ chỉ tay vào ngực cậu, nói:
– Ngươi sai ở tâm. Tâm loạn làm khí loạn, khí loạn làm lực loạn. Ngươi nhớ khi dùng chiêu này với Vu Chính, lòng ngươi nghĩ gì không?
Tuệ Phong bỗng nhớ lại lần đầu sử chiêu này, lúc đó tuy áp lực từ Vu Chính rất nặng nề nhưng không hiểu sao lòng cậu lại rất thanh thản, nhẹ nhàng, dường như quên đi tất cả nỗi sợ lẫn đau buồn. Cậu ngỡ ngàng nhìn lão Hồ, gật đầu. Lão Hồ mỉm cười nói:
– Vân Long Tam Hiện là chiêu đầu tiên trong Lãnh Nguyệt Đao Pháp, vốn tựa như bóng rồng ba lần ẩn hiện. Chính yếu không phải ở sức cương cường, mà chính là ở kình khí tiềm tàng như thần long bất lộ, khi địch nhân nhận ra thì cũng muộn rồi.
Nói đoạn lão Hồ vào thế, phát chiêu. Cũng ba đường đao chém vào thác nhưng không để lại tăm hơi gì, nhưng lưng chừng thác, dòng nước như vỡ toang tựa như vừa có một quả đại pháo phát nổ, nước bắn rào rào ra xung quanh đến hơn năm, sáu trượng, chưa kịp chạm đất thì hàn khí từ đao đã phát ra lạnh buốt đến hóa tuyết, lả tả rơi xuống. Lão Hồ đưa lại đao cho Tuệ Phong, đoạn xuất đao của mình chém tới, quát:
– Đỡ chiêu!
Lão Hồ đột ngột hoa đao chém tới, sử chiêu Yên Vân Động Vũ của tuyệt kỹ Kim Ô Đao Pháp. Đao chiêu đi vừa nhanh, vừa chuẩn, lại rất cương liệt như muốn đoạt mạng người. Nên biết Kim Ô Đao Pháp bảy mươi ba chiêu, không chiêu nào không đầy sát khí, thù hằn, nhất nhất đều nhằm đoạt mạng địch nhân, bất chấp tổn hại bản thân. Sát khí từ lão Hồ phát ra ào ạt như lũ thượng ngàn càn quét. Chim chóc trên trời đang chao lượn cũng khép cánh trú thân, muông thú dưới đất đang sục sạo kiếm ăn cũng nằm im run rẩy. Nhưng lạ thay Tuệ Phong không chút nao núng, đơn đao trong tay nương theo đao chiêu của lão Hồ, dĩ khách phạm chủ, tuyết mộng vị tỉnh, đao ý mông lung, nhẹ gạt đao của lão Hồ chệch đi một đường, lại thuận tay đảo chính thủ thành phản thủ, ngược đao xuất một chiêu Triền Thân Trích Tâm, lướt dọc theo sống đao lão Hồ mà chém tới. Lão Hồ mỉm cười, thả cho đao rơi, đoạn một tay vươn ra tóm lấy cổ tay Tuệ Phong, cản đường đao, lại uyển chuyển áp sát, tay kia sử Lãnh Nguyệt Chưởng đánh vào bụng cậu khi bịch một tiếng. Tuệ Phong thấy người như bị sét đánh, tê liệt không thể gượng dậy được, từ từ khuỵu xuống gục trước mặt lão Hồ. Lão Hồ cười lớn nói:
– Hôm nay ta dạy cho ngươi thêm một chiêu, không phải là Lãnh Nguyệt Đao Pháp, mà là một chiêu để khi cấp bách có thể dùng, phản khách vi chủ. Đây là chiêu Tuyết Hồ Ảo Mộng. Nhớ kỹ lấy nhé.
Nói đoạn ông đỡ Tuệ Phong dậy, khẽ truyền một luồng chân khí vào người cậu khiến cậu tỉnh táo lại tức thì. Với lấy vại rượu, Tuệ Phong uống một ngụm lớn, thở hồng hộc. Có lẽ chưa bao giờ cậu cảm giác gần cái chết đến vậy. Lão Hồ nheo mắt cười:
– Ngươi còn trẻ, không biết uống rượu rồi. Nữ Nhi Hồng mà uống ngụm lớn như thế thì chẳng phải thô lỗ quá sao? Mai sau có cô nương nào ngươi thích, há ngươi cũng suồng sã lao tới như vậy? Phải biết nâng niu, nhẹ nhàng âu yếm, đó mới chính là biết trân quý hảo tửu lẫn giai nhân đó!
Đang vừa sợ vừa bực mà nghe lão Hồ đùa khiến Tuệ Phong cũng bật cười. Tuy cũng đã mười tám tuổi nhưng trước giờ cậu chưa từng gặp giai nhân nào. Trong Lưỡng Long Trại này uống rượu, đánh bạc, đánh nhau thoải mái nhưng tuyệt đối không được phạm nữ sắc. Nghe lão Hồ nói đùa, nhưng cậu cũng đỏ hết mặt, trong lòng dâng lên thứ cảm giác cậu chưa biết đến bao giờ. Nhưng rồi lão Hồ cũng trầm ngâm nói thêm:
– Kỳ lạ thay.. Người thường khi gặp sát ý, trong lòng ít nhiều không tránh khỏi run sợ, rúng động. Nhưng ngươi đứng trước sát khí càng mạnh, tâm lại càng tịnh. Quả là hiếm thấy. Nhưng ta biết trong lòng ngươi lúc này không thể lặng được. Chuyến áp tiêu này.. có lẽ lại là một cơ hội tốt cho ngươi tìm lại được bình yên trong lòng.
Tuệ Phong nghĩ về chuyến áp tiêu sẽ khởi hành vào sớm mai, trong lòng bỗng thấy có chút buồn len lỏi. Nhìn lão Hồ vẫn thong thả uống rượu, cậu mới nhận ra bao năm nay lão Hồ chẳng những là sư phụ truyền võ, mà cũng chính là người thân duy nhất quan tâm đến cậu. Lần này đi xa, trong lòng ít nhiều cũng có chút hoài niệm. Cậu bùi ngùi nói:
– Lão Hồ.. mai ta phải đi áp tiêu rồi. Ta..
Lão Hồ vẫn lặng lẽ uống rượu, nhấp từng ngụm nhỏ, nhưng giờ không phải với thái độ âu yếm nữa mà dường như ông đang mượn rượu nguôi đi một nỗi buồn không tên. Ông không quay đầu lại, nói:
– Cũng không còn sớm nữa. Ngươi về trại đi không lũ thảo khấu đó lại nghi ngờ. Mai lên đường.. bảo trọng.
Tuệ Phong ôm đao, bái lạy sư phụ rồi quay người chạy đi ngay, để lại sau lưng một tiếng thở dài của lão Hồ..
* * *
Băng Tâm đứng trên ngọn tre, mặc cho gió bắc lay thân tre nghiêng ngả, ông vẫn đứng bình thản tựa như dưới chân là đất bằng vậy. Phóng tầm mắt nhìn xuống bến thuyền trước kia là cứ địa của bang Cự Kình chi Hồ Nam, nay đã thành một chợ cá tấp nập, tuyệt không thấy bóng dáng người bang Cự Kình đâu cả. Bang Cự Kình chuyên làm bảo kê tàu cá và bảo vệ cho đám diêm tiêu, một bến thuyền tấp nập như vậy mà không thấy bang chúng Cự Kình Bang lai vãng thì thực lạ. Xem ra chi phái này cũng đã bị diệt rồi. Đứng dưới gốc tre, Dương Vĩnh Niệm co ro kéo lớp áo cừu che kín người cho khỏi lạnh, đoạn lại nhìn sư phụ đứng trên cao lộng gió mà chỉ mặc độc áo mỏng như ngày hè khiến cô cũng bất giác run lên, gọi vọng lên:
– Thái sư phụ! Người đứng trên đó gió to, áo mỏng mà không lạnh ạ?
Băng Tâm khẽ nhún người, đáp xuống đất, khẽ phủi phủi mấy bông tuyết còn đọng lại trên áo, nói:
– Nếu con luyện xong Cửu Âm Chân Kinh thì hàn khí bất nhập, hỏa khí bất xâm, dẫu ngày hè nóng như chảo lửa hay mùa đông rét thấu xương thì cũng như đang hưởng không khí mát mẻ của mùa thu thôi.
Vĩnh Niệm gật gù, nghĩ bụng:
– Cũng phải, thái sư phụ dù sao cũng đã đạt cảnh giới tối cao của Cửu Âm Chân Kinh, chẳng phải là người phàm nữa rồi. Giờ chắc cũng không cần ăn cơm, chỉ cần chút hương đèn là đủ.
Đang nghĩ lung tung thì bị Băng Tâm cộc đầu cho một cái đau điếng. Ông nghiêm giọng:
– Lại nghĩ linh tinh gì đấy. Không mau lại bến thuyền thăm dò tung tích của Trương bá bá ngươi đi.
Vĩnh Niệm phụng phịu, tung người thi triển Đạp Tuyết Vô Ngân Công đi trước. Nhìn nơi Vĩnh Niệm đạp xuống khinh công đi không có dấu chân, Băng Tâm khẽ mỉm cười, thong thả rảo bước đi sau. Đến bến thuyền thì thấy Vĩnh Niệm đã quay lại, nói:
– Thái sư phụ! Mấy người này nói cách đây khoảng hơn một tháng thì đám bảo kê của Cự Kình Bang đã không còn lai vãng đến nữa. Chi phái Cự Kình Hồ Nam cũng đóng cửa im ỉm một thời gian dài. Dân chài ở đây cũng không biết gì hơn, nhưng vì không bị bọn Cự Kình Bang ức hiếp nữa nên rất vui mừng.
Băng Tâm gật đầu, nhìn đoàn thuyền vừa trở về mang theo mùi mặn mòi của biển và cá, nói:
– Không ngoài dự đoán, xem ra Vô Kỵ đã đến đây được một thời gian và tận diệt chi Hồ Nam rồi. Thời gian gần đây các chi phái khác của Cự Kình Bang không thấy gặp nguy biến, có lẽ Vô Kỵ chỉ ở gần đây thôi. Chúng ta đến tàn tích của chi Hồ Nam xem có manh mối gì không.
Hai người khinh công đi tiếp khoảng ba mươi dặm thì đến chi phái Hồ Nam. Nơi này xây dựng vào vách núi, xung quanh thoáng đãng, dễ thủ khó công. Khuôn viên rộng lớn có thể ở cả trăm người, ngoài sân còn bày la liệt bàn ghế, chum rượu lăn lóc khắp nơi, hẳn khi thường nơi đây cũng nhộn nhịp lắm. Băng Tâm lướt qua thấy trên bàn bụi đã phủ dày nhưng cũng không che hết vết máu đã khô ngấm vào mặt bàn, mặt ghế. Nhìn vết máu khô loang lổ khắp sân, vấy cả lên những chum rượu vỡ lăn lóc cũ đủ biết nơi đây đã xảy ra một vụ huyết chiến. Vĩnh Niệm đi cạnh thái sư phụ, nhìn cảnh hoang tàn xung quanh mà rùng mình ớn lạnh. Nếu Trương bá bá thực sự một tay có thể tận diệt cả một chi phái lớn như thế này thì chỉ có thể gọi là sát thần chứ không còn là người nữa. Cô vẫn không thể tưởng tượng ra được một người theo lời mẹ kể là tâm địa nhân hậu, rất mực bao dung, lại có thể xuống tay tàn nhẫn đến vậy. Cô dè dặt nói với Băng Tâm:
– Thái sư phụ, chắc không phải một tay Trương bá bá đồ sát cả đám Cự Kình Bang này chứ?
Băng Tâm nhíu mày, nhìn một vài mảnh xương vỡ vụn còn găm ở rường nhà, loáng thoáng chỗ kia răng người còn vương vãi. Ông nói:
– Ta quả thực không dám tin, nhưng với mức sát thương như thế này, dựa vào vị trí chỗ xương và răng kia, hẳn mấy kẻ này đã trúng phải chiêu thức lạ. Võ công Trung Nguyên chúng ta đa phần là Vũ Kích (1). Nhưng võ công một số vùng ngoại biên lại có cả Giốc Để (2). Ta đã từng giao chiêu với võ công Thánh Hỏa Lệnh đôi lần, chiêu thức rất kì dị. Nhìn đám xương kia hẳn đã bị người ra chiêu luồn xuống vùng hạ bàn rồi một chưởng đánh ngược vào ức khiến ngực nát vụn, chấn lực ép văng xương lên rường nhà. Chỗ răng này hẳn người chết bị song quyền vỗ đến, ép đến nát đầu, răng bị văng xa và nhiều đến vậy. Mấy người dọn dẹp chỗ này hẳn cũng kinh hãi nên không dọn hết. Không sai, người giết đám người này chính là Trương bá bá của con.
Đang nói bỗng có tiếng sột soạt nhẹ nơi hậu viện. Vĩnh Niệm vội tung người lướt tới, sử cước bộ Loa Toàn Cửu Ảnh, biến trước thoát sau, khi lướt sang trái, lúc vòng sang phải, cước pháp nhanh vô cùng tạo thành chín bóng ảnh bao vây lấy kẻ nào lén lút nấp nơi kia. Kẻ kia thấy trước mặt mình bỗng có chín người giống nhau như đúc, tưởng ma quỷ hiện hình, hoảng sợ quỳ sụp xuống van lạy:
– Ô hô! Thần thánh nơi nào hạ phàm xin tha tiểu nhân một mạng! Tiểu nhân chỉ là thấy nơi này hoang tàn, tưởng không có người nên mạo muội đến cư ngụ đôi hôm, không biết đã mạo phạm thánh thần! Xin tha mạng, xin tha mạng!
Vĩnh Niệm bật cười, tính trêu gã khất cái này thêm chút nữa thì Băng Tâm đã nghiêm giọng nói:
– Không đùa nữa. Để thái sư phụ có vài lời hỏi tên khất cái này. Tên khất cái kia, ngươi tên gì?
Gã khất cái thấy người này tóc trắng như cước nhưng giọng nói mười phần thần uy lẫm lẫm, biết không phải người thường, vội quay sang lạy lục, thưa:
– Tiểu nhân tên Tiểu Xú ạ. Lão tiền bối tha mạng!
Băng Tâm vẫn nghiêm giọng hỏi:
– Ngươi khất cái qua đây lâu chưa? Có biết sao nơi này lại hoang tàn thế không?
Tiểu Xú thật thà nói:
– Tiểu nhân vốn đi khất cái khắp nơi, cách đây tầm một tháng thì ghé nơi đây. Thấy chỗ này tối tối đều tấp nập người ra kẻ vào, đêm nào cũng tụ vạ uống rượu đánh bạc, tiểu nhân cũng quanh quẩn ở đây hòng kiếm chút đỉnh. Các tay được bạc thi thoảng cũng hào phóng mà cho chút ít. Được tầm một tuần thì có một tên khất cái khác cũng đến. Thấy hắn ta ăn mặc rách nát còn hơn cả tiểu nhân, lại xem ra nhiều ngày rồi không ăn gì, tiểu nhân niệm tình cùng là khất cái mà cho hắn ngồi xin ăn cùng. Ai dè..
Băng Tâm hừm giọng:
– Sao vậy? Nói tiếp đi chứ!
Tiểu Xú nhăn nhó nói:
– Lão tiền bối, mấy hôm nay rồi tiểu nhân không được chút gì bỏ vào mồm, nên..
Nói đến đây, bụng Tiểu Xú réo lên mấy tiếng lọc xọc đến tội. Vĩnh Niệm lấy trong túi ra một tấm bánh dừa nướng, đưa cho gã nói:
– Ta chẳng có gì nhiều, có cái bánh nướng, ngươi ăn đi rồi nói tiếp ta nghe.
Tiểu Xú vồ ngay lấy bánh, cho vào mồm cắn một miếng lớn. Vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói:
– A ạ ô ương.. Đa tạ cô nương. Cô nương đúng là Quán Thế Âm Bồ Tát hạ phàm, thương xót cho chúng sinh đang cảnh nguy khốn. Tiểu..
Băng Tâm ngắt lời, giọng lạnh lùng nói:
– Ngươi ăn rồi nói tiếp chuyện ở đây đi. Chớ vòng vo nữa!
Tiểu Xú gật đầu, lại cắn một miếng to bánh nữa rồi từ từ nói tiếp:
– Nói đến tên khất cái kia mới lạ. Hắn cứ ngồi im, chẳng nói năng gì, cũng không van vỉ xin ăn. Được ai cho gì cũng trút sang bát tiểu nhân. Tiểu nhân cũng không ăn mảnh, được bao nhiêu đồ ăn đều chia đôi. Được vài hôm như thế thì bang chủ Cự Kình Bang đến thăm chi phái. Lúc đó tiểu nhân mới biết hóa ra tên khất cái kia là một sát thần!
Vĩnh Niệm nghe hai chữ sát thần, lại nhớ lại chỗ bàn ghế, mặt đấy phủ đầy máu mà rùng mình. Tiểu Xú cũng run rẩy nói tiếp:
– Tối đó nơi này mở tiệc lớn lắm. Có cả trăm bàn rượu thịt, nghìn khách kéo đến ăn uống đông như hội. Tiểu nhân chắc mẩm cứ ngồi đây kiểu gì chẳng hưởng dư dả đồ thừa. Ai dè tên khất cái kia không biết điều, cứ xăm xăm nhằm hậu viện mà đi đến. Tiểu nhân nghĩ hắn ngửi mùi nấu nướng ở nhà bếp thơm quá không chịu được nên tính đi ăn mảnh, trong lòng bất bình cản lại thì hắn gạt tay, xô tiểu nhân ngã dúi dụi.
Băng Tâm thầm nghĩ:
– Kiếp trước hẳn ngươi ăn ở không đến nỗi nào nên mới thoát chết. Bằng cỡ ngươi, Vô Kỵ chỉ nhả một kình là vong mạng.
Tiểu Xú vẫn thao thao bất tuyệt:
– Tiểu nhân nghĩ lại trong lòng vẫn có chút cay cú. Thế nên lúc đó tiểu nhân cũng chui lỗ chó, tính lẻn ra bếp theo hắn kiếm chút đồ sạch sẽ. Ai ngờ vào đến bếp chẳng thấy hắn đâu, mà bên ngoài tiếng la hét, tiếng kêu la vang như giết trâu mổ bò. Tiểu nhân nghĩ chắc có mấy tên say rượu rồi gây chuyện nên cũng chẳng để tâm, chỉ rình kiếm chút gì ăn. Nào ngờ bỗng bên tai nghe tiếng gã khất cái kia vang lên như sấm động. Gã hỏi bang chủ Tiêu Hải Triều đâu. Tiểu nhân ngạc nhiên mới lén lén thò đầu ra ngoài xem thì thấy gã khất cái kia đang ra tay đồ sát mấy tên Cự Kình Bang. Đám Cự Kình Bang cũng chạy loạn lên, ném nào xích sắt rồi còn cả muối độc nữa. Muối độc lắm, tại hạ bị mấy hạt rơi trúng mà lõm cả thịt, đau không tả được. Mịt mù thế mà tên khất cái kia không bị trúng chút nào. Hắn túm người này, quật người kia làm lá chắn. Tay hắn cứ như chớp, đấm đến đâu là người ta gục đến đấy. Máu nhiều lắm, lênh láng khắp sân. Gã bang chủ tưởng khí khái thế nào cũng định chui lỗ chó bỏ chạy. Nào ngờ tên khất cái kia phát hiện ra, túm lấy. Mà nhìn tên khất cái trông cũng không to lớn gì, mà một tay xách gã bang chủ to béo kia nhẹ bẫng. Hắn nói..
Nói đến đây Tiểu Xú lại ngoạm một miếng bánh lớn đến phát nghẹn. Băng Tâm hít một hơi thật sâu, thật kiềm chế không cho hắn một cái bạt tai. Vĩnh Niệm lại đưa nước cho hắn uống. Hắn tu bầu nước ừng ực rồi, quẹt miệng nói tiếp:
– Hắn nói: “Vợ con ta ở đâu? Kẻ nào sai ngươi bắt cóc họ?”. Lúc đó tiểu nhân thấy tên bang chủ bị bóp cổ đến gần hết hơi, nói lí nhí cái gì ấy mà Lưỡng Lưỡng hay Lãng Lãng gì đó. Tiểu nhân định nán lại nghe tiếp thì lỡ gây động, sợ bị giết nên chạy luôn, không dám ở lại nữa. Mãi rồi mới dám quay lại đây lão tiền bối ạ.
Băng Tâm nghe xong cả một chuyện dài cũng chỉ có được một manh mối quan trọng là kẻ thủ ác sau vụ Trương gia mất tích này tên có chữ Lãng hoặc Lưỡng. Nhưng thế gian rộng lớn, vô số kẻ tên có chữ như vậy, hẳn phải tìm hiểu thêm mới có thể tìm được Trương gia. Ông lấy trong túi ra một chĩnh bạc đưa cho Tiểu Xú nói:
– Ngươi cầm số bạc này mà rời khỏi đây ngay đi. Nơi này đất dữ, lưu lại sợ không tốt đến mạng đâu.
Tiểu Xú tuy chỉ là một gã khất cái nhưng không phải là tên ngốc. Nghe Băng Tâm nói vậy cũng hiểu có ý đừng để lộ chuyện này ra nếu không sẽ mất mạng, bèn rón rén nhận bạc, bái tạ rồi đi ngay. Vĩnh Niệm đứng sau lưng thái sư phụ, hỏi:
– Vậy chúng ta phải tìm kẻ nào họ Lưỡng hay Lãng sao?
Băng Tâm trầm giọng, nói:
– Cũng có thể đó là tên của hắn. Phải tìm hiểu thêm thì mới có thể truy đã được đầu mối tiếp theo. Hôm nay như vậy là đủ rồi, chúng ta rời khỏi đây thôi.
Gió vẫn thổi hiu hắt, hai người khinh công nhẹ bước lướt đi. Vĩnh Niệm theo sau thái sư phụ, trong lòng không kìm được, buột hỏi:
– Thái sư phụ, Trương bá bá là sát thần vậy sao?
Băng Tâm im lặng không nói gì. Hai người khinh công đi được chừng mười dặm đến đầu trấn thì Băng Tâm dừng bước, quay đầu hỏi:
– Con sợ sao?
Vĩnh Niệm khẽ gật đầu, nét mặt vẫn đầy sự lo lắng, sợ hãi bứt rứt. Băng Tâm khẽ gật gù, thở dài, nói:
– Trước kia.. ta cũng từng giết người vô số. Số người ta giết, so với Trương bá bá của con chắc nhiều hơn phải gần mười lần. Con có sợ ta không?
Vĩnh Niệm nghe vậy, giật mình, hoảng hốt lùi lại một bước. Nhưng nhìn ánh mắt của thái sư phụ không có nét gì là tà ác, chỉ ngập sự đau buồn, cô độc, cô lại thấy lòng mình chùng lại. Cô tiến lại gần thái sư phụ, lắc đầu nói:
– Con không sợ.
Băng Tâm mỉm cười hỏi:
– Tại sao con lại không sợ?
Vĩnh Niệm chỉ tay vào ngực mình, nói:
– Con chỉ biết thái sư phụ là người tốt. Con cảm nhận được vậy.
Băng Tâm cũng chỉ tay vào ngực bản thân, nói:
– Đi lại trên giang hồ, nhiều lúc tay phải nhuốm máu. Mỗi mạng sống chúng ta lấy đi chúng ta đều sẽ phải trả giá bằng chính một mảnh lương tâm. Nhưng ta cũng cảm nhận được Trương bá bá của con vẫn có phần thiện. Ta tin vào điểm thiện đó.
Nói rồi ông quay người tiến vào trấn, để lại Vĩnh Niệm lặng người trong những suy tư của bản thân mình trước khi giật mình đuổi theo ông. Người mà thái sư phụ tin tưởng, nhất định vẫn còn hi vọng..