Mùa đông sắp tận, xuân lạnh se se.
Tổng đàn của giáo Xích Câu ở gần đụn cát vùng tây bắc, đối diện với sa mạc nên thời tiết cũng khắc nghiệt hơn bình thường. Nội lực dồi dào như Ô Huyết bà mà vẫn phải dùng đến lò sưởi tay.
Nhìn cảnh tuyết ảm đạm bên ngoài cửa sổ, cứ chốc chốc bà ta lại khẽ xoa lên chiếc ấm đồng tựa như ôm một vật còn sống. Trà và đồ ăn nhẹ bày la liệt trên bàn đều không được động vào.
“Giáo chủ, có tin mới. Dung vương và phái Thái Hành trao đổi bản dập địa đồ. Hiện giờ trong tay mỗi người đều nắm giữ tám phần, tương tự với giáo ta.”
Cách đó mấy ngày giáo Xích Câu và Lăng giáo mới phát sinh một trận chiến sinh tử. Không biết Lăng giáo lấy đâu ra nộ khí mà phản công như chó dại. Xích Hạt Túc hao mất một phần ba thì mới chiếm được bản dập Phật châu độc nhất vô nhị trong tay Lăng giáo.
Như vậy giáo Xích Câu chiếm được tám trên tổng số mười bốn phần địa đồ, đồng thời kéo dài khoảng cách với các môn phái phía sau. Nào ngờ Dung vương nhảy ra giữa đường khiến ba bên ngang bằng.
Ô Huyết bà không tỏ vẻ bất ngờ: “Phái Thái Hành có nhiều quan hệ với triều đình, đây cũng chỉ là chuyện một sớm một chiều mà thôi. Tiểu tử Hứa Cảnh Minh dã tâm nhiều hơn bản lĩnh, khả năng cao đang chờ hái quả ngọt từ phái Thái Hành… Rút người ở phủ Dung vương về đi, chuyển sang bên Giang Hữu Nhạc.
“Theo dõi Quốc sư?! Xin giáo chủ hãy nghĩ lại, nhỡ triều đình giáng tội, chúng ta…”
Ô Huyết bà lạnh nhạt ngắt lời: “Thánh thượng còn không động vào rượu tiên nữa là thị nhục. Nếu hắn có ý nhúng tay thì còn đến phiên đám giang hồ chúng ta nhảy nhót? Tuy nhiên Thánh thượng không quan tâm cũng bình thường, nhưng nếu đến cả một tên thầy đồng như Giang Hữu Nhạc cũng bàng quan làm người ngoài cuộc thì nhất định có vấn đề. Chưa biết chừng hắn đã cắm cọc ở đâu, chỉ chờ đến thời cơ thích hợp sẽ chém một đao.”
“Nhưng…”
“Thần giáo của ta chỉ không động vào duy nhất hoàng lăng. Giang Hữu Nhạc có chết ta cũng dám đào mồ mả của hắn, huống hồ là còn sống thì càng không sợ phải đắc tội.”
“Rõ.”
Thuộc hạ mất hồi lâu để tiêu hóa chỉ thị đáng sợ này, xong xuôi mới nói: “Vẫn còn một chuyện khác. Năm ngày trước tại thành Kỳ Ô, Trịnh Phụng Đao đã bị Thời Kính Chi của phái Khô Sơn gϊếŧ chết. Hình như phái Khô Sơn không có dự tính tập hợp địa đồ, thay vào hiện giờ đang lên núi Hồi Liên.”
“Trịnh Phụng Đao chết rồi? Tiểu tử họ Thời quả nhiên không phải vật trang trí.”
Ô Huyết bà cười lạnh. Trịnh Phụng Đao vừa nham hiểm vừa thận trọng, không phải một kẻ khinh địch. Thời Kính Chi gϊếŧ được lão hiển nhiên không thể chỉ nhờ vào mưa mẹo.
“Giáo chủ, chúng ta không cần nhúng tay vào phái Khô Sơn sao? Vị kia…”
“Không cần quan tâm.” Ô Huyết bà xoay đầu lại, “Người của giáo Xích Câu cuối cùng cũng sẽ về với giáo Xích Câu.
“Thuộc hạ đã rõ.”
“Xem chừng họ Thời đã phát hiện được manh mối gì nên mới nóng lòng lên núi Hồi Liên. Trận Phật Tâm à, lão thân còn chưa được thấy qua. Nếu lão thân trẻ lại hai mươi tuổi…”
Nói được nửa chừng bà ta lại bỗng nhìn ra ngoài cửa sổ và trở nên im lặng.
Cách đó nghìn dặm, dưới núi Hồi Liên.
Bốn người phái Khô Sơn cố tình vòng qua Vĩnh Thịnh trong tâm trạng thấp tha thấp thỏm, trầy trật mãi mới đến được núi Hồi Liên.
Thời chưởng môn quả là một tay bào chế thuốc có nghề, ban đầu Tô Tứ là kẻ kêu gào không muốn di chuyển hăng nhất, vậy mà nay bàn tay đã kết vảy, hoàn toàn không còn gì đáng ngại. Bản thân cũng đã dồi dào tinh lực, Thời Kính Chi lại trở về với tính cách hoạt bát thường ngày.
Như vậy Thời Kính Chi đã đủ vững vàng để xông trận Phật Tâm.
Địa bàn của danh môn chính phái như núi Hồi Liên tất sẽ không âm u như quỷ mộ, cũng không xa cách tựa thôn tiên. Nó chỉ là một ngọn núi giản dị lưng tựa trời xanh trong, đỉnh phủ tuyết trắng ngần. Gió đậu trên đá, tuyết ngả trên thông. Chỉ cần phóng tầm mắt ra xa, là thế núi nguy nga và nghiêm lệ dựng lên sừng sững sẽ áp chế toàn bộ tâm tư lơ đãng thả trôi của quý vị trở về.
Rành rành ẩn giấu trận Phật Tâm, nhưng ngọn núi này lại có thể đem đến cho người ta cảm giác an toàn một cách khó hiểu.
Nhìn ngọn núi hiền hòa, Thời chưởng môn chậm rãi dang rộng hai tay mà thở ra một hơi mạnh mẽ, thoạt trông như thể muốn ôm nó vào lòng.
Từ khi gia nhập môn phái Tô Tứ vẫn luôn lấy làm lo lắng về hai thầy trò này: “… Chưởng môn làm gì vậy?”
Doãn Từ liếc nhìn bóng lưng tang thương của sư phụ mà không nhịn được mỉm cười: “Đoán chừng đang cảm tạ trời xanh đã phù hộ cho người không cần phải đối mặt với mấy thứ âm tà kia nữa.”
Phải chiêm nghiệm liên tiếp hết quỷ mộ lại đến cấm địa, chính bản thân Doãn Từ cũng muốn đổi tâm tình một chút.
Tô Tứ chưa từng thấy cấm địa thôn Nguyên Tiên nên không tài nào hiểu được: “Thật hả? Nhưng ta nghe nói có không ít yêu vật trú ngụ trong núi Hồi Liên hùng vĩ. Chúng ta đã mất nội lực rồi mà ngộ nhỡ dính chưởng cả tâm ma thì tuyệt đối không vui vẻ gì.”
Thời Kính Chi nghe vậy xoay người: “Bổn chưởng môn đã nói rồi, trận Phật Tâm được xây dựng bởi hòa thượng, dù có tà môn thì cũng khó có thể tà được đến đâu. Huống hồ tâm ma chỉ là một thứ không thể thấy không thể sờ, cùng lắm là tinh thần bị hành hạ mà thôi, không cần lo lắng quá đáng.”
Lời nói có vẻ ẩn chứa hàm ý răn dạy, nhưng Doãn Từ lại nghe ra được cảm giác tự an ủi bên trong.
Càng đến gần chân núi họ càng thấy rõ ràng ý định đóng núi của chùa Kiến Trần. Một hàng tượng la hán cao cỡ nửa người tọa lạc quanh núi với vẻ bừng bừng khí thế. Các tượng đá cách nhau bảy bộ, hình dạng bất đồng, thần thái sống động, trên tượng không hề đọng tuyết.
Cứ giữa hai pho tượng Phật lại dựng một cây cờ phướn Phật. Cờ phướn bị gió thổi lay, phát ra tiếng lào xào đưa người vào giấc.
La hán trừng mắt, phướn Phật tung bay. Hai bên tương hỗ hóa thành hàng rào cự tuyệt bao trọn ngọn núi.
Mọi người không tùy tiện vượt ranh giới mà đi vòng quanh núi Hồi Liên một cách cẩn trọng, cuối cùng cũng tìm được một lối vào. Các hòa thượng không đóng kín đường lên, mà dựng hai khối đá lớn trước hiểm cảnh sau núi coi như cánh cổng bằng đá nối vòng lan can.
Hai khối đá lớn lẫm liệt, bên trái viết “bồ đề chẳng phải cây”, bên phải viết “gương sáng chẳng phải đài”. Nét chữ hữu lực tỏa ý cự tuyệt nặng hơn cả phướn Phật và la hán, như thể thực chất còn có khối đá khổng lồ treo trên cao được khắc dòng chữ lớn “đừng tìm đường chết”.
Đầu kia cánh cổng vẫn là núi non hùng vĩ.
Cảnh tượng bên trong trận hiện lên rõ ràng hơn dưới bóng núi đổ. Thềm đá phủ tuyết nối thẳng vào tâm núi. Đình hóng mát làm bằng ngọc lam được thiết kế và sắp đặt khéo léo. Có điều, nơi này có một điểm bất thường là sự xuất hiện của các tượng đá không đầu phủ đẫm rêu xanh, chúng trông rất tréo ngoe và không ăn khớp với cảnh sắc giá rét mênh mang.
Tượng đá được điêu khắc tinh xảo trong đủ hình thái già trẻ, gái trai. Nếu không thiếu đầu, thì chúng sẽ trông còn hân hoan hơn nữa.
Bốn người phái Khô Sơn lởn vởn hồi lâu bên ngoài cổng đá, cuối cùng vô cùng thất đức mà đẩy thành viên yếu nhất xông pha.
Bạch gia lạch bạch đi qua cánh cổng đá với lá cờ lùa ngỗng của Thời Kính Chi dí sau lưng. Nó cứ đi được hai bước là lại quay đầu quắc mắt gườm cả đám.
Bạch gia không hề có biểu hiện khác thường lúc mới vào trận Phật Tâm. Nhưng sau thời gian nửa nén hương, cặp vòi trên đầu nó bỗng chậm rãi dựng lên. Rồi đột nhiên, toàn ngỗng nằm vật ra đất và bắt đầu giả chết, như thể phải chứng kiến thứ gì khủng khiếp lắm.
Có vẻ đây chính là tâm ma trong truyền thuyết.
Nhưng bản thân nó vốn không bị thương, cũng không giãy giụa kịch liệt hòng trốn thoát, trận này nhìn chung vẫn an toàn.
Diêm Thanh trầm ngâm: “Đời ta đơn giản nhất, để ta đi thử trước xem sao.”
Thời Kính Chi gật đầu rồi đứng gọn nhường đường. Liếc nhìn hai khối đá khổng lồ, Diêm Thanh dè dặt bước vào trong. Sau đó cậu ta hết nhìn phong cảnh lại đến nhìn Bạch gia, nét mặt ngày càng trở nên quái dị.
Tô Tứ lo lắng: “Tam Tử, thấy gì?”
Diêm Thanh: “Cái này… Ta đợi thêm chốc lát rồi nói với các ngươi.”
Qua nửa nén hương, bỗng nhìn xuống hai tay, Diêm Thanh nở nụ cười miễn cưỡng. Kế đó cậu ta sải những bước dài bước ra ngoài cổng đá rồi lại lập tức trở vào.
“Ta hiểu đại khái rồi, vào trận mới thấy có điềm lạ. Chuyện này rất khó tả rõ, tốt nhất mọi người nên vào xem thử xem sao.”
Thấy Diêm Thanh vẫn hành động thoải mái nên Tô Tứ cũng lập tức theo vào, nối liền sau đó là Thời Kính Chi. Doãn Từ ở ngoài quan sát hồi lâu, cuối cùng mới đưa bước.
Vào trận, cảm giác trống rỗng của nội lực mất đi bùng nổ trong nháy mắt tựa như một chậu nước đá dội thẳng lên đầu. Tuy nhiên không một ai rảnh rỗi bận tâm đến điều này, bởi tất cả bọn họ đều bị cảnh quái dị trước mắt níu chặt tầm mắt.
Trăm năm trôi qua, trận Phật Tâm trong lời đồn lại lần nữa khởi động, phơi bày toàn cảnh ra trước mắt những vị khách đến tham quan.
Tượng đá không đầu vẫn ngự đằng xa với màu rêu xanh nổi bật, chẳng qua bên cạnh tượng đá lại xuất hiện thêm những “cọc trụi” quái đản. Chúng có màu đỏ xám ảm đạm, trông giống thịt mà cũng lại giống gỗ, to cỡ ba người không ôm hết. Những chiếc “cọc” này cắm vọt lên trời, cao chót vót không thấy điểm kết thúc. Mọi người chỉ biết một điều rằng càng lên cao “cọc” càng nhỏ, nhỏ đến mức còn đang chậm rãi đung đưa theo gió.
Những chiếc cọc ấy mọc lên hàng ngàn hàng vạn, trải ngút ngàn tầm mắt, tựa như bao kín toàn cảnh núi Hồi Liên. Ngẩng mặt lên trời, bọn họ như lọt thỏm giữa rừng cây chọc trời màu xám thịt.
Doãn Từ chậm chạp nhắc lại lời sư phụ: “Trận Phật Tâm được xây dựng bởi hòa thượng, có tà môn cũng không tà được đến đâu.”
Thời Kính Chi toát mồ hôi hột: “… Chúng ta vẫn nên xem tâm ma trước đã.”
Tình trạng của Bạch gia khá là gai mắt.
Một con vịt quay lượn lờ một cách uể oải sau lưng Bạch gia, lớp vỏ vàng ruộm, nước thịt và dầu mỡ nhỏ xuống, hơi nóng nghi ngút tứ tung theo gió.
Đây cũng là tâm ma được à? Nếu thật sự là tâm ma, thì tâm ma này trông cũng ngon miệng phết đấy. Chẳng trách Diêm Thanh cứ ấp a ấp úng, nếu nói thẳng ra thì cũng khá buồn cười.
Thấy mọi người đã bình tĩnh lại, Diêm Thanh liền mở miệng: “Trận Phật Tâm vừa có thể phong ấn nội lực, vừa có thể thực thể hóa tâm ma. Chẳng qua chuyện ‘tâm ma hóa hình’ không dễ biểu đạt cho những người chưa tận mắt chứng kiến.”
” ‘Tâm ma’ của các ngươi cần thời gian hóa hình, xem của ta trước vậy. Suy nghĩ của ta vẫn khá rõ ràng, không có tâm tình gì quái dị, chỉ là… chỉ là có thêm mấy thứ này mà thôi.”
Rừng cọc xám bạt ngàn trên nền tuyết trắng, và con vịt quay đỏ màu vỏ quýt đã khiến ba người quên mất Diêm Thanh.
Lúc này nhìn lại, khác với khi ở ngoài trận, trên người Diêm Thanh đã xuất hiện thêm không ít vết thương. Những vết thương đó không phải do vật sắc bén, mà hẳn là do quyền cước gậy gộc gây ra.
Nhận thấy tầm mắt của mọi người, Diêm Thanh cười không để bụng: “Cha ta nát rượu, toàn là chuyện ngày xưa cả, đừng để ý làm gì.”
Đoạn cậu ta nâng cổ tay cho mọi người thấy điểm chính.
Cổ tay Diêm Thanh treo lủng lẳng một sợi xích bầy nhầy máu thịt. Sợi xích này như được tạo thành bằng cách rút gân của ai đó, máu đầm đìa thành chuỗi, bên trên nằm chi chít vô số con ngươi, tựa như quả được kết trên mớ dây leo chằng chịt. Tất cả con ngươi đều đỏ thẫm, xoay tròn, liếc loạn.
Thời Kính Chi: “…”
Hắn lùi ra đến cổng đá bằng tốc độ nhanh thoăn thoắt, tranh thủ hít mấy hơi hổn hển bên ngoài. Lúc trở lại, ánh mắt của Thời chưởng môn đã khác. Hắn nhìn núi Hồi Liên với vẻ ai oán, cứ như thể trước mặt hắn không phải ngọn núi tĩnh, mà là một kẻ phụ tình chuyên đi lừa người khác.
“Có thể chỉ có ta có tâm ma quái dị.” Diêm Thanh dùng tay áo che sợi xích, lên tiếng an ủi. “Ngài xem kìa, của Tô Tứ không khoa trương như vậy.”
“Thế này mà còn không khoa trương?!” Tô Tứ suýt thì ré lên.
So với vịt quay ngon lành và sợi xích con ngươi, thì tâm ma của Tô Tứ đúng là bình thường hơn hẳn, thường đến độ tầm phào- qua nửa nén hương, Tô Tứ đang đứng thì ùm một tiếng ngã nhào xuống tuyết. Thân dưới của hắn ta xoắn quện trước mắt mọi người, và hóa thành một cái đuôi rắn đen cường tráng.
Kết hợp với nốt ruồi trên khuôn mặt hắn, Tô Tứ trông chẳng khác một tay xà yêu bước ra từ thoại bản là bao.
Thương thay cho Tô Tứ hai mươi mốt năm trời làm người có hai chân, nên giờ chẳng biết làm sao để trườn được như rắn. Hắn ta ngồi phịch bên người Bạch gia, đuôi duỗi thẳng đơ như một con rắn chết lạnh.
Đến giờ, mặc dù quái đản nhưng mọi người vẫn có thể miễn cưỡng chấp nhận được chuỗi biến hóa này.
Theo thứ tự vào trận thì đây là lúc Thời Kính Chi ‘thực thể hóa tâm ma’.
Thời Kính Chi đứng yên tại chỗ, nhắm nghiền hai mắt, không dám nhúc nhích. Hồi lâu hắn mở hé một mắt ra lia khắp xung quanh- không có dị vật lơ lửng, không có xích thịt ảo ma, mà tứ chi của hắn vẫn còn nguyên vẹn, chẳng vặn vẹo chỗ nào.
Kết quả này làm Thời Kính Chi phải kinh hãi. Hắn cắm cột cờ xuống và sờ loạn khắp người, nhưng không thấy bất kỳ một thay đổi nào hết.
… Sao có thể?
Nội lực của hắn đúng là đã bị phong bế, nhưng sao trận Phật tâm có thể chỉ có một nửa hiệu lực?
Thời Kính Chi không lấy làm mừng rỡ. Hắn đã muốn lợi dụng trận Phật Tâm, thông qua trận pháp này để nhìn thấy tâm ma của chính mình, như vậy chưa biết chừng hắn có thể tìm ra nguyên do cho sự kỳ lạ của mình. Ai ngờ trận Phật Tâm không phản ứng với hắn, đến Diêm Thanh còn có tâm ma rợn người hơn hắn.
Trong thoáng chốc, gió lạnh toàn thân như mất đi nhiệt độ. Thời Kính Chi áp một tay lên lồng ngực, cảm nhận nhịp đập trái tim.
Chẳng lẽ du͙ƈ vọиɠ khó lòng kiểm soát kia chẳng qua chỉ là “bản tính”?
Đầu tiên là phụ hoàng, sau đó là hoàng huynh, hắn đã bị nuôi nhốt quá thành công, đã thành một con dã thú bị nhổ hết răng nanh. Từ khi được nuôi lớn bằng thịt vụn, nói khổ thì không đúng, nhưng cũng không thể coi là đã thật sự từng sống.
Cũng phải thôi. Một kẻ chưa từng sống, thì nói gì xa đến tâm ma?
Chẳng biết tại sao, Thời Kính Chi lại nhìn sang Doãn Từ theo phản xạ, dường như muốn nắm được thứ gì. Chẳng qua ngay khi nhìn thấy tình trạng của đồ đệ, Thời Kính Chi lập tức chấn động, thương cảm lấp đầy tâm trí suýt thì tan biến.
Doãn Từ đứng ở lối vào, hướng ánh mắt trống rỗng lên núi Hồi Liên. Những bóng tay bán trong suốt ôm lấy y từ đằng sau, không khác với oán linh trong truyền thuyết.
Những bàn tay nọ đan xen lẫn nhau trên lồng ngực Doãn Từ, phần cuối những cánh tay xoắn vào nhau tạo thành một loại “xiềng xích” vô cùng dữ tợn. Đầu kia sợi xích tối ẩn bên rìa đại trận, chưa để lộ hình dạng hoàn chỉnh.
Nhìn nét mặt Doãn Từ thì y có vẻ hoàn toàn không để ý đến tâm ma của mình: “Nếu Tô huynh vẫn có thể di chuyển thì chúng ta nên tiến vào sâu hơn. Phía trước có mái đình, ở lại đó nghỉ ngơi thì tốt hơn.”
Nói đoạn Doãn Từ tiến lên, phớt lờ những cánh tay rậm rạp trên người. Y càng cách xa cổng vào, xích quỷ càng được kéo dài ra.
Tô Tứ và Diêm Thanh gần như cùng hít hà một hơi, Thời Kính Chi không lên tiếng, trái tim từ từ lạnh xuống.
“A Từ, lại đây. Dây cột tóc của ngươi lệch rồi, vi sư chỉnh lại cho ngươi.” Thời Kính Chi khẽ cất lời, cố kiềm chế cơn run trong giọng nói.
Thời chưởng môn nhìn chằm chằm Doãn Từ, hắn vừa nói vừa lùi, càng lùi càng cách xa cổng đại trận. Doãn Từ như đã quen với lòng nhiệt huyết nay đây mai đó của Thời Kính Chi, y bình tĩnh đến bên cạnh hắn mà chẳng buồn từ chối.
Doãn Từ vừa đến gần, Tô Tứ đã ôm lấy Bạch gia vùng vẫy tránh xa, ngay cả Diêm Thanh cũng phải lùi lại mấy bước.
Nhưng Thời Kính Chi đã không lùi thêm nữa.
Khi Doãn Từ đứng trước mặt hắn, Thời Kính Chi vén tóc cho đồ đệ và nhìn vào đôi mắt ảm đạm của đối phương.
Lần đầu tiên Thời Kính Chi nghĩ rằng- hắn vốn nên quan tâm đến sự trống rỗng của mình, ấy thế nhưng nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, hắn lại hận không thể đè Doãn Từ xuống mà bức y khai ra quá khứ của y.
Trái tim giằng co giữa bản thân và người ngoài, cảm tưởng như nó sắp bị tách thành hai nửa.
Sau một khoảng thời gian, Thời Kính Chi mở miệng. Hắn kinh hãi nhận ra, khi chuyện đã quái dị đến một mức nhất định thì hắn lại bỗng bình thản hơn nhiều.
Thời Kính Chi vừa sửa dây cột tóc cho đồ đệ vừa chua xót nói: “A Từ… mắt ngươi không nhìn được, vì sao không nói?”
Doãn Từ vẫn trưng ra vẻ mặt dửng dưng, đi đứng như thường, có lẽ đã dựa vào dòng chảy của khí. Biểu hiện của Doãn Từ chỉ có duy nhất một kẽ hở, kẽ hở này quả là trí mạng, y có che giấu tài tình đến đâu cũng không che nổi.
Tâm ma của Doãn Từ không chỉ là những cánh tay xiềng xích.
Ban đầu họ chỉ nhìn thấy chúng, thật sự là bởi tâm ma này quá khổng lồ- khổng lồ đến mức Doãn Từ phải đi vào mười trượng thì nó mới hiện ra toàn bộ.
Tay quỷ nối liền, tức thành xích tối. Càng về sau những cánh tay xích lại càng nhiều, cuối cùng chúng xoắn vào nhau thành một cái bụng trượt dài như con ốc sên có màu đen gỗ mun. Nhìn lên trên, một cái đầu người mục nát một nửa vô cùng to lớn sẽ đập vào mí mắt.
Chưa tính bệ tay quỷ, chỉ riêng cái đầu người không trọn vẹn kia đã cao chừng chín trượng, bằng ba bức tường thành chồng lên nhau. Đầu ngược lộn ngược, không có cằm, ngũ quan rữa ra thành lỗ hổng, để lộ phần bên trong trống hoác.
Nhìn toàn thể thì tâm ma khổng lồ như một ngọn trường minh đăng quái dị, còn là cái loại rợn người được đào ra từ quỷ mộ.
Trong nửa đầu lâu kia, quả thực cũng thắp một bó lửa.
Lửa này khác lửa thế gian, nó đen thuần, và lạnh lẽo. Chuyển động chập chờn khe khẽ của nó hút sạch ánh sáng xung quanh. Như cảm ứng được nó, “cọc trọc” xung quanh đung đưa càng mãnh liệt.
Có lẽ thứ này không nên gọi là “trường minh đăng”, mà phải gọi là “trường ám đăng” mới đúng. Tô Tứ và Diêm Thanh nổi da gà, lùi càng xa hơn- chỉ mới đến gần vật khổng lồ này họ đã cảm thấy rợn tóc gáy.
So ra thì xích tay quỷ chẳng khác nào hạt thóc. Xích quỷ kéo lê cái đèn đầu lâu theo bước di chuyển của Doãn Từ. Doãn Từ trông như dùng sức một người kéo động cả tòa núi, nom thế nào mà lại thấy tức cười.
Đứng dưới gốc tâm ma thế này mà Doãn Từ vẫn nguyên một vẻ mặt sóng êm biển lặng, thì chỉ có thể là do “không nhìn thấy”.
Thời Kính Chi lặp lại câu hỏi của mình, cổ họng đã bắt đầu khô rát: “Ngươi không nhìn thấy, phải không?”
Thái độ kỳ lạ của mọi người làm Doãn Từ không đoán được mười mươi thì cũng phải lơ mơ được sáu bảy phần. Y cụp mắt, chốc lát mới “ừ” một tiếng, câu trả lời y đưa ra vẫn rất bình tĩnh: “Đúng là ta không nhìn thấy, hẳn do trận Phật Tâm quấy nhiễu. Dẫu sao cũng không ảnh hưởng đến hành động của ta, ra trận là lại nhìn thấy được… Chỉ có thế mà thôi, ta không muốn làm sư tôn lo lắng.”
Y hơi ngừng lại: “Xem ra tâm ma của đồ nhi nổi bật hơn người khác không ít.”
Há chỉ là nổi bật, tâm ma này thật sự dị thường. Bàn riêng về kích cỡ thì chùa Kiến Trần trên đỉnh núi cũng có thể nhìn thấy. Các hòa thượng mà có ở đây thì chưa biết chừng còn lao vào đánh rớt.
Thời Kính Chi nhìn đồ đệ, muôn ngàn lời muốn nói mắc kẹt trong lồng ngực. Hắn xưa giờ ăn nói tự nhiên, giờ đây lại không thốt nổi lời nào.
Diêm Thanh Tô Tứ đều ở độ tuổi hai mươi mốt, không nói đến Diêm Thanh thì đời Tô Tứ cũng thuộc loại gập ghềnh mấp mô hàng đầu của lứa tuổi này. Dù vậy hắn ta cũng chỉ hóa ra được đuôi rắn.
Mà đồ đệ của mình đây chỉ mới hai mươi, chẳng lẽ từ khi hiểu chuyện đến giờ, Doãn Từ vẫn luôn sống dưới muời tám tầng địa ngục ư? Thời Kính Chi nhìn đèn đầu lâu khổng lồ, không có sợ hãi, mà chỉ có ngơ ngẩn lạnh căm.
Một người phải trải qua chuyện gì mới sinh ra tâm ma như vậy?
Trước kia Thời Kính Chi tin chắc rằng, chỉ cần đủ thân, Doãn Từ sẽ mở rộng cửa lòng với hắn- giữa thầy và trò nhất định phải tỏ trọn lòng, đây vốn là điều chẳng chóng thì chầy.
Hôm nay hắn không dám chắc chắn nữa.
Trong khoảnh khắc nào đó, Thời Kính Chi đã có một trực giác lạnh băng.
Kẻ trước mặt mình dường như không phải con người, mà là một vực sâu không ánh sáng.
_____________
Tác giả có lời:
Thời Kính Chi: ??? Cuối cùng ta lại là người bình thường duy nhất, sao mà thế được cơ chứ.