Xưa nay, trên chốn giang hồ, đâu thiếu gì anh hùng hào kiệt, và đao kiếm vô tình, không mắt cũng không tai.
Triều đại Long Châu trải qua hơn ba trăm năm thịnh thế, nay đã đến lúc suy tàn, giặc giã như ong.
Nơi đỉnh Phụng Hoàng sơn, có bài sấm truyền không ai hiểu được, trong vô ý âm thầm đã động đến tai vua.
Lời bài sấm ca rằng:
Liên hoa ngũ đóa
Thành sự tại thiên
Quốc hữu thần tiên
Bảo châu long huyết.
Tam phân ngũ tuyệt
Y nhật nguyệt quang
Quy phụng long lân
Hồi quang phản chiếu.
Bài sấm này được một vị thần nhân dạy lại cho đám trẻ con ở gần chân núi Phụng Hoàng, gọi là Long Châu sấm ký.
Cũng từ đây, bốn biển năm châu bắt đầu dậy sóng.
Trong võ lâm, có vị minh chủ tên là Liễu Phi Thiên dẫn theo chín lộ anh hùng, chiêu binh mã mã, âm thầm tính kế lâu dài, hộ quốc an dân.
Lúc đó, nơi ngọn núi Huyền Long cũng lại có một vị tiên nhân tu hành đắc đạo, đi trên áng mây hồng mà để lại bài thơ:
Nghiêm Lăng xuất hiếu
Long tử vô chiêu
Từ đạt cao siêu
Phụng sinh bách điểu.
Trảm sơn tại triệu
Tà độc thành chiêu
Diệt lục long tiêu
Yêu thành hạ liễu.
Dẫu biết càn khôn không ngừng xoay chuyển, nhưng nước mắt anh hùng vẫn chảy trong đêm.
Từ Đạt, một danh sĩ đương thời, giỏi về thuật chiêm tinh, bói quẻ, xem tinh tượng trên trời mà ão não tâm can, biết rằng thế cục khôn lường, chân long xuất thế, nhưng bá tánh Liên thành thật quá thiếu phúc duyên.
Nhân lúc nửa đêm, ngày đi qua huyện Hứa, xin ngủ ở trong chùa, để gặp một thần tăng.
Đúng canh tư, nơi cổng Long Thần tự, bỗng xuất hiện một người đạo cốt tiên phong.
Người ấy mắt phụng, mày rồng, mình cao chín thước, thong thả bước lại gần Từ Đạt để hàn huyên.
Từ Đạt vừa thấy đại sư thì liền quỳ xuống, nâng cái bánh ngang mày, tỏ rõ ý quy chân.
Liễu Giới thiền sư vẫn nở nhẹ nụ cười trên đôi môi đỏ thắm, ánh mắt chứa chan tình quân tử, lại gần bên, không gấp không buồn, ung dung thoát tục, ngay nơi giữa chặng mày, chính khí ngất trời xanh, mở miệng sen hồng mà nói giọng khoan thai:
– A Di Đà Phật!
Từ Đạt ngước mắt lên nhìn, hân hoan vô kể, nước mắt cứ lăn dài trên đôi mắt tinh anh, vừa cung kính chắp hai tay vừa nói:
– Sư phụ! Con, con.. con..
Nơi yết hầu như ai bóp nghẹt, không nói nên câu.
Tấc dạ trung thần, không ai hiểu được, một kiếp một đời, hộ quốc an dân.
Đại sư hai tay đỡ Từ Đạt đứng lên, mắt cũng ngấn lệ rồi, bi tâm càng da diết, nói:
– Sư phụ biết con cả đời lo cho thiên hạ, không màng sống chết bản thân. Tấm lòng trung trinh đó, tam tào đều hiểu được, chỉ duy nhất có một người là không hiểu được thôi. Có phải không?
Từ Đạt nói:
– Thưa sư phụ, nhân quả đúng ba đời, con đâu dám không tu. Chẳng qua, thế đạo suy đồi, nhân tâm mục nát, trong khắp thiên hạ này, minh chủ biết nơi đâu?
Liễu Giới thiền sư trầm ngâm nhìn trăng sáng, trong một chút đau lòng đã chợt nói ra:
– Ý trời đã định, con chớ đau thương.
Nói xong, ngài đi thẳng, không quay trở lại chùa, mà du hóa tha phương.
Với thần thông của một bậc thánh tăng, trong ba bước người thường, ngài bay xa ngàn dặm, không để lại y vàng cùng tích trượng làm tin.
Từ Đạt khóc lớn, nói vọng theo:
– Sư phụ! Chẳng phải người đã hứa là sẽ trao cho con mảnh y vàng và tích trượng cầu mưa sao? Hơn nữa, đó còn là tín vật để quy tụ quần hùng, an bang định quốc. Sao người nỡ bỏ con mà đi? Sư phụ, sư phụ, sư phụ!..
Bấy giờ, ngoài trời tự nhiên đổ cơn mưa lớn, chắc thiên đế cũng đau lòng, mà nhỏ lệ từ bi.
Nạn đói ba năm, nắng dường đổ lửa, nếu như ông trời còn không ban mưa xuống, thì cuộc sống của trăm nhà không biết sẽ ra sao.
Tuy nói, đời người ai cũng phải đi qua vòng sanh già bệnh chết, nhưng trước thảm cảnh đau lòng, ai mà chẳng xót thương.
Nghiêm Long, người tráng sĩ kiêu hùng nơi đất Đạo, đã không màng đến chuyện sanh tử của bản thân mình mà quyết định hạ sơn.
Nhưng chắc có lẽ ý trời chưa muốn cho mưa, nên cho dù nhân ý có trung can mà thế thời thường giễu cợt.
Nơi vùng đất xinh tươi, có rất nhiều kỳ trân dị thảo, linh thú tu tiên, cũng như miếu mạo chùa chiền nhiều không kể xiết, đã xuất hiện một con người như vậy, cả đời lo cho thiên hạ, không màng sống chết bản thân.
Nghiêm Long là con trong một gia đình nông dân chân chất, tay lấm chân bùn, cực khổ đã quen, không bao giờ than vãn.
Chàng có đôi mắt rồng hai ngươi sáng rực, mặt trắng, tay dài, thân cao chín thước, dáng người như long như phượng, giọng nói chuông đồng, sức mạnh vô song.
Tuy tướng mạo phi phàm là vậy, nhưng do tính nết thật thà, không thích tranh quyền, mà chỉ ưa cảnh non sông.
Những lúc ngắm nhìn phong cảnh đẹp, nói non hùng vĩ, nước xanh mây trắng, chàng cũng hay múa kiếm lăn dài, khổ luyện võ công.
Bất kể trời nắng hay mưa, mỗi ngày Nghiêm Long đều dành ra ít nhất một canh giờ để trao dồi kiếm pháp huyền long.
Đêm nay là rằm trung thu, trăng tròn rất đẹp, chàng cũng thư thái nở nụ cười xem những chiếc hoa đăng được thả trôi theo dòng nước, có những em bé nô đùa bên cha mẹ và những nàng thôn nữ yêu kiều thi thoảng đứng ngâm thơ.
Can qua trước mắt, ngày tháng tươi đẹp như vầy còn có được bao lâu.
Liệu rằng, Liên đế có công phá thành trì hay hòa hoãn liên hôn, tất cả đều chỉ có thể trông cậy vào tạo hóa an bày, người sống cứ mừng vui.
Tương truyền, ngày mà Nghiêm Long ra đời, có chín con rồng nhả ngọc phun châu, nước sông Hoàng Hà tự nhiên dâng cao, mẹ của chàng trong đêm hôm đó cũng đã nằm mơ thấy có một con rồng ban đầu thì màu vàng, nhưng sau đó lại chuyển thành màu xanh, nhìn bà một hồi, gật đầu ba cái, bay lên lượn xuống chín lần trông hùng khí, ánh quang minh chói rực khắp trời, ao sen trước nhà bỗng dưng mọc lên rất nhiều đóa hoa sen trắng trong một giờ, thơm nức xa gần, ai nấy đều hay.
Sau chín phen bay trên trời đảo võ, thì có tiếng sấm vang trời, rồng ấy đầu thai, hiện thành một viên long châu đỏ tía rất lớn, từ trên không trung từ từ hạ xuống, bay lại gần thai phụ, nhiễu quanh theo chiều bên phải ba vòng rồi biến mất sau lưng.
Lúc này, mẹ Long là bà Nhan thị trong tâm ba phần sợ hãi, bảy phần vui mừng, chắc biết đứa trẻ này ngày sau sẽ là người hùng cứu dân độ thế, vạn kiếp trung thần, hiếu tử bia danh, nên không dám nói ra chuyện này cho một người nào được biết.
Song, thế cục xoay vần, nhân tâm biến chuyển, triều đình từ lâu đã không còn kỷ cương phép tắc, ngoài lo chống Tây Tần, trong lo dẹp kẻ gian.
Có rất nhiều vị thần tử lương đống đã than rằng:
– Long triều đã không còn như xưa!
Long nghe được những lời này, như uất nghẹn tận buồng tim, lặng lẽ chau mày, nhỏ đôi dòng lệ, xem hoa đăng rực rỡ quanh hồ, mà lòng nào có được an, buột miệng nói:
– Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách!
Từ nơi cuối con đường to thoai thoải hướng lên đỉnh Thiên sơn, có một trang liệt nữ hai má ửng hồng, hoa nhường nguyệt thẹn, cũng đang có chuyện đau lòng, nặng bước truân chuyên, chợt trở gót hài trong đêm tối, muốn thu mình trong ánh sáng trăng thanh, đứng ở gốc cây môt mình hồi lâu, rồi ngoảnh lại, ánh mắt diễm lệ nhưng u buồn, than lên tiếng tâm can:
– Can qua khởi dậy, sinh linh lầm than!
Nghe được tiếng của người lạ, Long quay đầu nhìn sang, thấy nàng thoát tục phi phàm, dung nghi tuyệt thế, xứng đáng để kết giao bằng hữu giang hồ, nên bước đến lân la:
– Vị cô nương này, tại hạ thấy trong thiên hạ giờ đây, bốn phương đều có giặc giã, tuy cảnh trước mắt thanh bình, mà thực chất nguy nan. Nếu như đã là đôi bên có cùng chung chí hướng, lại gặp gỡ nhau ở tại nơi này, xem như là có nhân duyên, rất mong được kết giao bằng hữu.
Vừa nói, Long vừa quan sát dung quang của người con gái đang đứng trước mặt mình, trong ánh sáng của đêm trăng tròn, gương mặt nàng lại càng thêm bội phần thanh tú, tiêu dao.
Người đẹp không vội trả lời câu hỏi của khách tha phương, chỉ lấy từ trong tay áo của mình ra một vài cây kẹo hồ lô, rồi thong thả cúi đầu như hành lễ, sau đó bước xuống chân cầu, tiếp tục ngắm hoa đăng.
Long đi theo phía sau, không dám thở dài, tỉ mỉ bước chân hơn, trong lòng đang nặng trĩu nỗi ưu phiền, nay gặp được má hồng, chưa dám tính chuyện thành gia.
Chàng chưa chắc đã yêu, nhưng có một thứ cảm giác mơ hồ nơi tâm khảm, biết đâu chừng duyên kiếp định tiền sinh.
Gió lay nhè nhẹ, đưa những ngọn đèn hình hoa sen trôi bồng bềnh trên mặt nước, biết bao đôi lứa trưởng thành cùng mơ ước chuyện ngày sau.
Một khắc qua rồi, người con gái ấy nhanh chóng bỏ đi, tất cả nam thanh nữ tú khi vô tình chạm được mặt nàng, đều không tiếc lời khen ngợi cho một nhan sắc hơn người cùng cốt cách tiên thiên mười phần trác tuyệt.
Trong thời buổi sắp có đao binh, có ai mà trong lòng không lo sợ, nhưng thấy trong đám người này đa số vẫn còn mê.
Họ chưa biết chỉ nội trong vòng ba tháng nữa thôi, thì ba mươi sáu nước chư hầu sẽ đồng loạt khởi binh, đánh thẳng Long thành, san bằng kinh đô Hoa Trị, bắt sống Long thiên đế đem về Liên quốc để phân thây.
Long thấy họ cười cười, nói nói, ăn ăn, lo đến nỗi không còn nghĩ tới chuyện giai nhân. Chàng ngồi trên tảng đá vàng trầm tư giây lát, rồi vội vã đi về trong tâm thái bất an.
Ba ngày sau, có mục đồng đang đi lên núi dạo chơi cùng cha mẹ, thấy ở nơi con suối thanh long tuyền có một cục đá nhô lên, ngó kỹ xuống dưới, hình như có một vật thể gì đó dài dài giống thanh kiếm, phát ra tia sáng màu xanh, không ai dám bước tới gần, mọi người xa gần đều kéo đến để xem.
Đó là một buổi sáng lạ kỳ, ai ai cũng đều thắc mắc, bàn tán cả nửa ngày mà thanh kiếm vẫn còn tỏa ánh hào quang.
Chợt nghe có tiếng quân triều đình từ xa đang đi tới:
– Mọi người tránh đường.
Thì ra là Binh bộ thượng thư Hồ Thiên Khí trên đường đi ngang qua đây, nghe tiếng ồn náo từ bên ngoài đang chỉ trỏ về thanh thần kiếm ly kỳ, ít có ở trong đời, lại trong lúc rãnh rỗi thừa nhàn, nên ông xuống kiệu để xem, nói với thuộc hạ thân cận của mình rằng:
– Ngươi đi theo ta.
Hai chủ tớ cung kính đi dài theo con suối khoảng một hồi, trời nắng sạm làn da. Xung quanh cây cối um tùm, yên tĩnh phong lưu, có rất nhiều hoa thơm cỏ lạ.
Kỳ lạ thay! Trong nước suối có chút vị gì rất ngọt mát thanh lương, mà không phải ở nhân gian tìm thấy được.
Từng theo hầu Hoa Vũ tiên cô vào năm vừa tròn mười ba tuổi, đã đọc không ít kỳ thư ở trên cõi đời này, mà tâm trí vẫn mông lung, ông vừa sờ tai mình vừa nghĩ:
– Chẳng lẽ trên thế gian này, còn có đạo thần tiên?
Thuộc hạ đứng chờ lâu nên không còn kiên nhẫn, từ từ lay người ông, nhưng ông ngồi bất động, trong ánh mắt uy quyền chan chứa những hoài nghi.
Hồ đại nhân là người trầm mặc, tuy là đại đệ tử chân truyền của phái Tiêu Dao, nhưng cả đời chuyên tu Nho giáo, không sợ chết, ghi thù, bụng dạ rất bao dung, chẳng giống với tông chỉ hành đạo của môn phái là giết hết kẻ gian tà, sau đó mới tiêu dao.
Hơn nữa, mặc dù từng theo Hoa Vũ tiên cô làm công quả trong sáu năm, nhưng chẳng những ông không tin phật tin thần, mà còn cảm thấy hoang mang.
Do sống ở đời quang minh lỗi lạc, chính trực vô tà, nên đắc tội với không ít người gian xảo hung tâm, bị bài xích trong triều, gặp tai kiếp chốn biên cương, đã không ít lần thoát khỏi cái chết cận kề chỉ trong gang tấc.
Luôn tha thứ cho kẻ thù là ưu điểm lớn ngất của ông. Lần này, trong nhân gian cùng lúc xảy ra quá nhiều chuyện ly kỳ, nên ông đang bán tín bán nghi, cũng chưa biết cuộc đời mình rồi sẽ trôi về đâu.
Tận trung là vậy, mà căn kiếp chưa sâu, nếu biết được tử sinh là việc lớn, đạo con người nhân quả khó dung tha, thì ông nhất định sẽ phò tá con trời lên ngôi thiên tử, nhược bằng không đúng thì thôi.
Bóng áo cà sa vừa xuất hiện, trong lòng chợt thấy rất thiêng liêng.
Từ trên khoang thuyền, Liễu Giới đại sư từ từ bước xuống, thong thả vuốt bộ râu dài, dáng vẻ khoan thai, ngài nói:
– A Di Đà Phật!
Hồ đại nhân cung kính đứng dậy từ chỗ ngồi, chỉnh trang lại y phục, chắp hai tay nghiêng mình hành lễ, trong linh tính biết có chuyện khai tâm.
Vị đệ tử đi theo cùng hòa thượng sau khi đã niệm phật, xá chào ông xong rồi, liền lớn tiếng thưa:
– Đại nhân, ông có biết vì sao trong nước của con suối này, có vị thơm ngọt lạ thường, hiếm gặp ở nhân gian không?
Nghe vị tiểu tăng hỏi mình như vậy, trong vô hình trung, trí tuệ siêu phàm ở một con người như Hồ Thiên Khí chỉ chờ có dịp phát sinh.
Ông ung dung xoay người ra sông lớn, nơi chiếc thuyền vẫn còn nằm chờ trong con nắng phi nhiên, buột miệng nói:
– Hôm nay chỉ mới qua đêm rằm trung thu được có ba ngày, mùa thu vẫn còn đó, lại còn ở trong tháng tám, đúng lý ra khí trời mát mẻ hanh khô, nhưng không biết tại sao từ sáng đến giờ nắng như trời đổ lửa, duy chỉ có dòng nước ở nơi cin suối thanh long này là mát ngọt kỳ nhiên?
Nói xong, đứng thở dài ở đó, chắc ông chưa đủ duyên lành để được độ hóa hay chăng?
Không! Liễu Giới đại sư chỉ chờ nghe câu nói này để tiện dịp ra lòng điểm nhãn khai quang.
Ngài ngồi kiết già phu tọa trên tảng đá xanh có hình thù như một đóa hoa sen ở cạnh bờ sông, mắt nhắm như vào thiền định, hai tay chắp lại, môi nở nụ cười trong khoảng giây lâu.
Vị tiểu tăng là Ngộ Trực nhìn Hồ đại nhân mà khoan thai nói tiếp:
– A Di Đà Phật Như Lai Thế Tôn! Trong mắt Phật ba đời không có sắc, ngoài tai chó chân gà cũng thật nghĩa thành chân. Như Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni Như Lai Thế Tôn của chúng ta ngày trước, chẳng phải đã nói trong khắp thế giới Sa Bà nghiệp cảm thảy viên thông. Đại nhân! Ở dưới con suối thanh long này, quả đúng như là cái tên gọi của nó bây giờ, thật có một rồng xanh.
Hồ đại nhân trợn mắt nhìn Ngộ Trực, tỏ vẻ không tin.
Rồi từ trong hốc đá, có người nghe trộm được chuyện này, vội chạy báo quan.
Đứa trẻ mục đồng đã nhìn thấy một vật nghi là thanh kiếm đang bị đá đè chìm ở nơi này tên là Tiểu Ngọc, cũng nghe lén tự nãy giờ, do đã quá tò mò, bất giác la lên:
– Cái gì!
Nó tròn xoe đôi mắt, nuốt nước bọt ba lần, nắm chặt sợi dây vàng trong nước mới ngoi lên, tiến về phía của thiền sư Liễu Giới đang ngồi tĩnh tọa, nhíu nhíu đôi lông mày, thi lễ cũng đoan trang.
Lúc này, hòa thượng mới từ từ mở đôi mắt của mình ra mà cười thật lớn, tay phải xoa đầu, tay trái đưa ra.
Mọi người từ xa dần dần xúm lại, chăm chú nghe nhìn, cung kính trang nghiêm.
Hòa thượng nói:
– Này thanh long, con mau ra đây đi!
Nói xong, ngài bắt ấn Chuẩn Đề và miệng đọc lầm rầm bài thần chú.
Bài chú đọc vừa xong, thì nước suối phun trào, dâng cao chín thước, người người đều trông thấy có một con mãng xà tinh màu xanh rất lớn, nước mắt lưng tròng, tự ngóc đầu lên.
Cái đầu của nó to bằng cả nóc nhà của một hộ gia đình thôn quê không khác, vùng vẫy bên này, tát nước bên kia.
Một lúc sau thì thân hình dài hơn trăm thước dần dần thu nhỏ lại, trở thành một con rắn lục bình thường, le lưỡi phun châu.
Bá tánh có người nhanh tay lấy được, nhưng không dám đem về, mà đứng đó xem thêm.
Liễu Giới hòa thượng từ nơi tòa ngồi đứng dậy, đi đến chỗ con rắn đang bò, dùng tay trái của mình bắt nó lên xem. Xem một chút thì mang qua phía chỗ Hồ đại nhân đang quỳ, đưa con rắn cho ông.
Thật ra, tự nãy đến giờ, không ít kẻ kinh hoàng vì cảnh tượng hãi hùng này, mà chết ngất hôn mê.
Trong mười người, đã có tới sáu người ngất xỉu, hai người bò niểng bò càng, chỉ còn lại hai người sau cùng là không có âu lo.
Vì từ trước đến nay, chưa có ai thấy được một con rắn nào mà to tướng dường ấy, nhưng do đã có hòa thượng ở đây rồi, nên dân chúng cũng yên tâm, bằng không, có lẽ tất cả mọi người đều bỏ chạy.
Con suối này sở dĩ được đặt tên là thanh long, vì nó rất dài và rộng, lại uốn lượn cong mềm như hình dáng rồng xanh, hai bên bờ suối đều là thiên niên tùng bách mộc, phong cảnh đa tình, gió mát hoang sơ.
Hồ đại nhân nhìn con rắn trong tay mình ngoe nguẫy chẳng chịu nằm im, lại nhìn qua con suối thiêng liêng, thông với sông Hoàng Hà chỉ nhờ một con sông nhỏ, cũng không kiềm nỗi sự vui mừng, cười phá hư không, nói:
– Rồng hay rắn, do tâm làm chủ!
Liễu Giới trụ trì ứng tiếng, đáp:
– Chánh hay tà, phải tự hồi quang!
Bất ngờ, có một bóng dáng yêu kiều thướt tha xuất hiện, Từ Phụng cúi đầu ra mắt đại sư, nói:
– A Di Đà Phật! Đại sư, không biết người có thể cho con được biết cái gì gọi là chánh, cái gì gọi là tà được hay không? A Di Đà Phật!
Mọi người đứng xung quanh bắt đầu xôn xao bàn tán, không biết vị thánh nữ này đến tự phương nào mà binh lính theo đông.
Kiêu sa, thùy mị đều có đủ. Phong tình như ý, tụ thần quang.
Mười ba tên tùy tùng đứng đằng sau nhanh miệng nói:
– Tiểu thư! Lời thiên hạ trắng đen làm sao phân rõ. Nếu như chúng ta cứ mãi sống trong u buồn, thì khi chết sẽ ra sao?
– Dạ phải!
– Đúng đó tiểu thư. Thế cục trong thiên hạ, vốn dĩ từ xưa tới nay chia ra rồi hợp lại, hợp lại rồi chia ra.
Từ Phụng nghe nói xị mặt, nhưng ánh mắt trong sáng, đơn thuần, vui vẻ lại ngay, nàng nói:
– Các ngươi thật là nhiều chuyện.
Chợt có tiếng đao kiếm đánh nhau từ nơi cuối con suối như đang gần lại, thấy có một toán thổ hào đã chém chết chín quan binh.
Nguyên nhân rất có thể là do đám quan binh này đã không ít lần đàn áp, hạch sách, bóc lột dân nghèo, mất hết lương tri.
Triều đình hủ bại, lương đống bỏ đi.
Khắp trong bá tánh, có ai mà không biết, ở nơi vùng đất Đạo này, có một anh hùng đạo đức toàn chân, lòng mang thiên hạ, gác bút nghiên theo nghiệp kiếm đao, đem tài học cứu vì xã tắc, vị trượng phu này có ai khác ngoài Công Tôn Hành, chưởng môn phái Thùy Châu.
Mười lăm năm về trước, cũng chính tại nơi này, khi Liên đế muốn thâu tóm binh quyền, gồm thâu thập quốc, cũng do nghe theo diệu kế của Hành mà đại thắng như mơ.
Công Tôn đại nhân cũng là Tể Tướng đương triều, thanh cao quy ẩn, công thành người trí tự lui.
Do khí số của Long quốc đã suy tàn, mà ngài chẳng giúp được phần chi, nản lòng nhìn biết bao thân phận con người khổ đau phiêu bạt qua đôi mắt mình, nên từ lâu đã không còn tha thiết với con đường văn võ xông pha.
Hiện giờ, nhà nghèo tay trắng, bữa đói bữa no, sáng ăn khoai, chiều có khi nhịn đói. Nhưng trong tâm ý của ngài vẫn kiên cường muốn vị quốc vong thân.
Trông thấy Liễu Giới thần tăng, ngài cúi xuống nhìn đôi chân mình đang lấm lem bùn đất, lại nghe Tiểu Ngọc nói là con suối ấy có chân long, trong lòng buồn vui lẫn lộn, không biết làm sao.
Tiểu Ngọc vừa cười nũng nịu vừa đưa ra sợi dây vàng, vừa nói:
– Cái này là của con rồi!
Ngộ Trực tiểu tăng định lại gần để xem cho kỹ đó là vật gì, thì gió thổi một nhanh, gió càng thổi mạnh, thì đôi chân bé nhỏ của Tiểu Ngọc càng bay lên cao dần, tới mức ngang thắt lưng của người lớn rồi, thì mắt nhắm thiu thiu, giống như là buồn ngủ.
Nghiêm Long cưỡi ngựa trắng đi chùa, nhân đấy ghé qua xem. Thấy bé gái này chắc chưa phải là người học qua võ nghệ, chưa biết khinh công, lại chỉ mới khoảng chừng chín mười tuổi, không có dây buộc mình, sao có thể bay lên, lại còn trụ ở đó?
Chàng hỏi:
– Các vị đang làm gì ở đây?
Đám quan binh triều đình hủ bại cũng chạy ùa qua, hung hăng ngang ngược đòi châu báu, dọa giết hết dân chúng nơi này nếu không chịu nghe theo, chúng nói:
– Nếu như ở dưới con suối đó thật sự có thần long, thì số châu báu này phải là của bọn ta, vì đây là địa bàn của bọn ta cai quản! Sao? Có phục không?
Vừa nói, chúng vừa xông vào định bắt Tiểu Ngọc mang đi.
Nhưng đột nhiên sợi dây vàng không ngừng phát sáng, làm chói mắt bọn chúng, động đất ba lần, ai nấy bò lăn.
Từ Phụng nhanh tay hơn giặc, ôm lấy Tiểu Ngọc trên người, rồi độn thổ rời đi, mang theo cả sợi dây vàng có thêu nhiều hình thù, họa tiết kỳ lạ trong sự ngỡ ngàng, nôn nóng của thường dân.
Hồ đại nhân không hiểu chuyện chi, lắc đầu liên tục.
Biết rằng thời cơ đã chín muồi, Liễu Giới đại sư đi đến bên cạnh, nắm lấy tay của vị anh hùng trẻ tuổi Nghiêm Long này, rồi cười lớn một phen. Sau đó, ngài nói:
– A Di Đà Phật! Liên đế sắp công thành, Long quốc có hiền nhân.
Nghiêm Long trong lòng cả sợ, như nuốt kim châm, nhưng thấy trụ trì khoan hòa, nhã nhặn, như có tâm giao từ trước, nên đứng đó ngây người, chưa biết nói năng chi.
Không còn kiên nhẫn thêm được nữa, Hồ đại nhân liền ra mật hiệu, lập tức có hơn hai mươi bốn đấng anh tài bay đến như chim, đứng hầu đợi lệnh.
Liễu Giới hòa thượng không nói không rằng, kéo tay Nghiêm Long đi theo mình về hướng bờ suối.
Công Tôn Hành cùng tất cả mọi người đều muốn đi theo, nhưng bị Ngộ Trực cản lại.
Vừa phi thiên trong nháy mắt đã tới bờ suối, lấy tay chỉ vào thanh kiếm cổ hơn tám trăm năm tuổi đời, vị thần tăng mắt phụng, mày rồng nói với chính mình:
– Ta sắp phải đi về Hoa quốc để khai duyên! Ứng Long, ta biết con vốn có túc duyên với phật môn từ nhiều kiếp, nay bảo kiếm anh hùng hội ngộ thật là hay. Nếu như con đã có lòng trung trinh báo quốc, sao không lấy viên châu con đang đeo trong người ra rửa nước xem sao.
Nghiêm Long bất ngờ khi hòa thượng biết tên mình, lại còn biết đến viên minh châu, không thể không quỳ trước một vị thần tăng.
Chàng từ từ quan sát dung nghi tướng mạo, tâm khí nguyên thần, cùng linh cảm nơi tim.
Bất thức long thần quy y pháp
Sát khí liên hoàn cấp từ cơ.
Trên tảng đá thật to dài bị dây leo núi rừng che phủ, có khắc hai câu thơ này, ai đã biết xưa nay.
Long nói:
– Hai câu thơ này là có người nào ngụy tạo hay chăng?
Hòa thượng từ bi nói:
– Con không muốn hỏi ta về chuyện biết tên con sao?
Long giật mình trở lại, hai chân quỳ xuống đất xong rồi, mới hỏi tiếp thiên cơ:
– Sư phụ! Người là ai?
Hòa thượng đáp:
– Ta cũng quên mất ta là ai.
Long lại hỏi:
– Cái tên chỉ là để gọi. Chân tánh ở nơi đâu?
Hồ đại nhân đã đến đó tự bao giờ, ăn trái cây tươi và bánh hình con thỏ, chen ngang cuộc trò chuyện giữa hai người họ, nói:
– Đạo là chân, đức là tánh.
Long quay đầu nhìn qua bên trái, thấy linh cảm không lầm, vui vẻ đứng lên ngay.
Nhớ tới lời thân mẫu dặn mình từ ba hôm trước, tay phải lấy ra vài con dao ngắn trong thân, đi xuống dưới giữa dòng nơi nước chảy mạnh nhất của con suối thanh long tuyền, dùng thần lực của mình, một quyền đánh tan tảng đá lớn xong rồi, nắm chặt thanh kiếm định lôi lên, nhưng không được vì quá nặng.
Liễu Giới đại sư ôn tồn nói:
– Thanh thần khí hộ quốc này nặng ba trăm sáu mươi lăm cân, nếu không được viên dạ minh châu mà con đang cất giữ trong mình thức tỉnh, thì cho dù con có sức địch muôn người như Tây Sở Bá Vương ngày trước, cũng không làm gì được.
Hốt nhiên, con rắn lục trên tay Hồ đại nhân tự nhiên lúc này cũng phát sáng giống như viên bảo châu trên người của Long, dùng sức bay vèo xuống nước, hóa thành một luồng khí xanh mát mẻ, quấn lấy thanh kiếm không buông.
Sấm chớp vang trời, trong mây có chín con rồng bay lượn, muôn nhà xem cảnh linh thiêng.
Từ Phụng sau khi chiếm lấy sợi dây vàng từ tay Tiểu Ngọc, đã sớm mang bé gái trả về cho cha mẹ yên tâm, một mình âm thầm đi theo Long, để ý từng nhất cử nhất động.
Bấy giờ, trời đã về chiều, mưa sắp qua đây.
Hồ đại nhân nói:
– Vị thiếu hiệp này! Cậu hãy thử dùng viên minh châu!
Liễu Giới đại sư cười nói:
– A Di Đà Phật!
Ngộ Trực đã đến, mang theo chín mảnh y vàng của chín đời tổ sư trụ trì chùa Long Thần, cùng với tích trượng bằng vàng và pháp khí thiền môn như chuông, mõ, khánh..
Lại có thêm mười tám vị cao tăng đi từ trên không trung xuống, lấp lánh y vàng, tướng hảo quang minh.
Họ cùng lập ra Thiếu Lâm thập bát đồng nhân trận, sấm chớp mỗi lúc một vang rền, gió thổi đá bay cao.
Thần trí Ứng Long lúc đó mơ hồ trong giây lát, tay chân bủn rủn một hồi, sau đó thấy thanh lương.
Gió thổi quá mạnh hơn lúc bình thường, khiến cho hai cây cổ thụ ven rừng gốc rễ lung lay.
Phụng nghe tiếng kêu lắc rắc của nhành cây khô sắp gãy trên đầu của mình, nhanh đứng dậy đi ra, lại có trực giác phi thường trước cảnh tượng muôn đời có một, nên tiến thẳng đến chỗ Long ngồi đưa nước quý ma ni.
Long hồ nghi hỏi:
– Đây là thứ nước gì?
Phụng cười đáp:
– Ta không biết! Ngươi có dám uống không?
Long mở to mắt nhìn người đẹp, trong tâm hồn yêu ghét nào phân. Định dùng tay hất đi, nhưng lại dằn lòng không giận, hỏi lại lần nữa:
– Cô nương từ đâu tới? Sao lại tự nhiên mời ta uống thứ nước này?
Liễu Giới đại sư nói trong sự kinh ngạc của Phụng:
– Ứng Long! Thứ nước đó là thánh thủy của Thần quốc, con cứ uống vào, sẽ không có hại.
Long vẫn chưa tin.
Phụng lại nói khích:
– Nếu huynh sợ, vậy để ta uống thử cho huynh coi.
Nói rồi, tự mình uống cạn một ngụm. Sau đó, dùng hai tay của mình thử mang thanh kiếm lên xem, nhưng vẫn không thành.
Nghĩ rằng anh hùng trong thiên hạ bây giờ, chỉ có Long thôi, liền mỉm cười khó hiểu, để lại túi đựng nước thánh kia rồi nhanh chóng bay đi.
Hồ đại nhân khuyến khích Long với giọng điệu chân thành hết mực:
– Vị anh hùng này! Cậu hãy thử một lần xem sao!
Ngộ Trực cũng ra chiều hối thúc:
– Nếu huynh không uống thứ nước này, vậy ta sẽ mang đi. Hôm nay là ngày lành tháng tốt trong năm, ứng vận cơ trời, tướng tinh tọa vị, nếu lỡ mất cơ hội này rồi, phải đợi tám trăm năm.
Nghe trong hư không có tiếng nói:
– Nghiêm Hiếu! Trời đã chọn con!
Mưa trút chĩnh đầy, thanh long hộ pháp, hồn thiêng nhập vào thanh kiếm, trên trời sấm nổ đinh tai.
Viên bảo châu lúc này tự bay ra khỏi người Long, hóa thành một cục đá hình tròn, màu trắng, lớn bằng bàn tay người lớn xòe ra, chìm vào dòng nước.
Chỉ nghe tiếng hét xa dần, trăm họ đều run.
Nhưng thanh bảo kiếm này nếu như không có sợi dây vàng trong tay Phụng ngâm trong nước thánh ma ni suốt bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, đem đốt trên lửa cam lồ thánh hỏa ra tro, vò cùng với xương đôi mắt của chín con rồng đã tán thành bột nhuyễn, cho thành viên, sau đó, đem rải xuống liên hoa trì ở liên quốc ba ngày, chờ có hoa sen đủ năm màu ngoi lên mặt nước, đem đóa hoa sen ấy chôn vào long mạch ba tháng, kiên nhẫn tu niệm trong suốt ba năm liền, mới có thể đào đất ở chỗ ấy lên mà giúp cho thanh thần kiếm khai quang theo nghi thức gia trì bí mật của nhà phật, thì mới có thể dùng thanh kiếm ấy được, chứ chẳng dễ như mơ.
Dù biết là vậy, nhưng Liễu Giới đại từ đại xả bi tâm, không màng gian khổ, chẳng ngại vong thân, chỉ muốn giúp cho thanh tiên kiếm tâm truyền này được điểm nhãn sớm hơn, để một mai, khi Liên nhân đế có đánh tới Long thành, thì dân chúng vẫn bình yên.
Vì với sức mạnh kinh thiên của thanh long tuyền kiếm, không có một ai ở trên thế gian này có thể chống lại.
Người nâng lên nổi kiếm này phải là đại thánh nhân, đại anh hùng trong thiên hạ.
Người đó chẳng ai khác ngoài Nghiêm Long.
Tiếng nói trong hư không lúc nãy không phải của con người, mà là của thần tiên.
Liễu Giới trụ trì đem tất cả nỗi lòng phân giải với Long, nói rất lâu, cho đến khi trăng đã lên rồi mà nỗi buồn chưa vơi cạn.
Thập bát đồng nhân trận lúc này cũng đã làm xong.
Dẫu biết, tạo hóa trêu đùa, sinh linh thống khổ.
Nhưng công sức của nhân thần sẽ không dễ phôi phai.
Long nghe nói đầu đuôi ngọn ngành sự việc, nước mắt chảy hai hàng, tiêu sái hét to lên:
– Hoang dâm vô độ, là lỗi của một mình đương kim thánh thượng, đâu phải của muôn dân!
Nếu như Long thiên đế không suốt ngày đam mê tửu sắc, giết hại trung thần, bất chấp thiên luân, thì thịnh thế trường tồn, thiên thu vạn đại.
Chẳng ngờ, lịch qua bảy đời tiên đế, Long quốc suy tàn, gian nịnh lộng quyền, cung cấm đa đoan.
Long rất buồn.
Tự thấy mình tài thô học thiển, đức hạnh thiếu nhiều, không chỗ dựa nương.
Mẹ chàng sanh được ba người con trai.
Đại ca là Nghiêm Hổ.
Nhị ca là Nghiêm Sư.
Tam đệ, cũng chính chàng, gọi Nghiêm Long.
Người huynh trưởng là Hổ thì yêu vì võ nghệ sa trường, mắt cọp, mình rồng, đi giống con thuyền, hiếu hạnh vang xa.
Còn nhị ca là Sư thì cũng có thần lực hơn người, văn võ song toàn, mày dài rất đẹp, mắt sư tử, cao lớn như thần, nghĩa khí bạt sơn.
Ứng Long tuy là tam đệ, không thích chém giết sa trường, do cha chàng muốn con trai mình sau này khi lớn lên thành người, phải xuất chúng siêu quần, nên van nài chỉ dạy võ công.
Cha chàng tên là Nghiêm Phong, tự Triều Thanh, từ nhỏ đã lên núi Võ Đan chân thành tầm sư học đạo, tự biết mình là con nhà nghèo, nên không ngừng phấn đấu vươn lên. Kết duyên với mẹ Long là bà Nhan Nguyệt vào năm vừa tròn ba mươi tuổi, rồi phu thê ân ái tình nồng, bữa rau bữa cháo, trong cảnh thanh bần mà không sờn tâm đạo, luôn dốc dạ tu hành, yêu thích việc hiền lương. Hai vợ chồng thường hay đi chùa lễ phật, cầu an. Nhất là khi đang bụng chữa hoài thai, mẹ Long ngày nào cũng kiền thành tụng kinh Địa Tạng, nhờ phước đức sâu dầy mới sanh được ba trai.
Hơn nữa, đứa nào cũng tướng mạo phi phàm, cốt cách thanh kỳ, trung hiếu lưỡng toàn, hiệp cốt đan tâm.
Lại nói, có một chuyện mà song thân của Long luôn giấu ở trong lòng, ấp úng nghi ngờ, không dám nói ra.
Đó là chuyện nếu như nói quá lên, cũng thật là việc động trời, hoặc sẽ huy hoàng, hoặc sẽ tru di.
Cha Long cũng không biết là có nên tin vào cuốn gia phả nhà mình hay không.
Vì trong quyển sách ấy nói, họ là con cháu ba đời của Long quang đế Long Thần, vị vua thứ năm của Long triều, lúc tiên đế băng hà, có nói với Từ Hoa, vị cực phẩm nhân thần, phong tới tước Vũ thành hầu, sau về sinh sống ở đất Kim Bình, dân chúng luôn tôn thờ, sử gọi Tiết ninh vương.
Từ Hoa có tên tự là Tiết, chỉ một chữ.
Ông có bốn người con gái.
Đứa đầu lòng, gọi đại tỉ, tên Từ Kim.
Nhị tỉ tên Từ Ngọc.
Tam tỉ tên Từ Loan.
Cuối cùng là Từ Phụng, là người con gái út mà ông cả đời luôn dành tâm huyết để dạy rành đạo nghĩa lẫn dung phong.
Mà hai nhà Nghiêm, Từ vốn có mối quan hệ khăng khít nhiều đời, vĩnh thế có liên hôn.
Cho nên, từ ánh nhìn đầu tiên, thì Nghiêm Long đã không bao giờ có thể quên đi Từ Phụng, trong tim đôi lứa xuân tình có lẽ đã đơm hoa.
Nhưng đại sự nguy nàn đang trước mắt, ơn quốc thổ cao dầy, sao dám có mơ riêng.
Long thẫn thờ ngồi nhìn trăng sáng, tư tưởng đa mang.
Nếu như thanh kiếm đã đợi mình, hà tất phải lo chi.
Hồ đại nhân nói vói Ngộ Trực tiểu tăng:
– Ta nghe Ứng Long nói chuyện nãy giờ với sư phụ, không biết cậu ấy đã nghĩ thông chưa?
Ngộ Trực trầm tư không đáp.
Hồ Thiên Khí lại quay người sang phía của Liễu Giới đại sư, mắt nhìn chăm chú.
Hòa thượng lúc này mới nói hết tâm tư của mình dành cho Thiên Khí:
– Thiên Khí! Con và Ứng Long đều có duyên với ta. Những gì mà trước đây con đã từng trải qua, cũng như nửa đời sau này của Ứng Long, về cơ bản là khá giống nhau. Nhưng Thiên Khí con thì cuối cùng tự tại, còn Ứng Long thì.. có lẽ sẽ hi sinh! Con cứ chờ trong bảy ngày, khi đó, mọi thứ sẽ rõ ràng, không diệt cũng không sinh.
Nghe rồi, họ Hồ như có chút đau thương.
Còn Long thì không sợ.
Dân chúng đều kéo nhau về, mưa đã tạnh từ lâu.
Chín con rồng bay về đâu không rõ, có em bé chỉ tay lên trời, nói:
– Con thấy có Quan Âm!
Hang động mà bốn người họ đang ngồi, gọi là Thanh Lương động, ở ngay sát con suối thanh long, lại gần Quan Âm tự.
Động này thuộc núi Huyền Long, được cho là có hình dáng y hệt như một con rồng đang nâng bút, thân của nó rất dài, đến tận Phụng Hoàng sơn.
Do có hình thù dị thường cùng cấu tạo địa chất đặc biệt, nên tuy lúc nãy mưa nhiều, mà trăng sáng quang minh.
Người ngồi trong hang động Thanh Lương này, luôn cảm thấy mát mẻ vô cùng, năm tháng cứ trôi hoài, vẫn tươi trẻ dung nhan.
Và không phải người nào cũng được đặt chân đến đây.
Do Liễu Giới thiền sư đã vận dụng phép thần thông, ra lệnh cho sơn thần, nên Long và mọi người mới đi vào bên trong được.
Tự cổ chí kim, trong tam tào đâu thiếu những chuyện luân hồi nhân quả được ghi vào sách vở.
Nay, thế đạo sắp suy tàn, Liên đế mới chiêu binh.
Sắp phá Long triều, trừ dâm tận gốc.
Tất nhiên, Long biết được điều này, như bao hảo hán anh hùng trong thiên hạ hôm nay.
Một đồn mười, mười đồn trăm.
Nơi Liên quốc, trong khói tía vây thành ba ngày trước, vua của nước này là Liên Trung nghe theo cao kiến của ái phi mình, tiên đoán thiên thời, địa lợi, biết sẽ có cơ duyên bình định Tây Tần, tiến công Long quốc, gồm thâu ba mươi sáu nước một lần, thống nhất san hà, quy về một nước sau này chỉ có thể là Liên, thì trong bụng mở cờ, vui như trẩy hội.
Canh ba giờ Tý, Long nghe có tiếng dân làng la ó lẫn nhau.
Có ba người thanh niên trai tráng vì theo đuổi giai tình, công kích bên kia.
Mỹ nhân da trắng, tóc dài, môi son đỏ thắm, chạy về phía Long cầu cứu.
Long điềm nhiên nói:
– Tiểu cô nương, đừng sợ.
Ba tên kia tức giận mặt đỏ phừng phừng, vung kiếm định chém Long.
Long nhẹ nhàng tránh được.
Tức chí, chúng cùng nhau dùng hết sức bình sinh của mình ôm lấy Long, định nhấn chìm chàng xuống dòng suối, nhưng không được.
Long vung mình một cái, tất cả ngã lăn quay.
Tên nào tên nấy kêu đau, tìm đường bỏ chạy.
Long thấy chúng đã đi, từ từ xoay người lại nhìn cô gái trẻ, mỉm cười như đứa trẻ thơ ngây, sau đó định đi về nhà một mình.
Dưới ánh trăng vàng, cô gái chợt mỉm cười, nhân đó đi theo Long về nhà.
Chàng cũng không thắc mắc vì sao đã nửa đêm như vậy rồi, mà cô gái lại một mình quanh quẩn ở nơi đây.
Đi được một đoạn, Long đứng lại, đưa mắt nhìn nơi phương bắc xa xôi, tự nói một mình:
– Vị cô nương muổn cho mình uống thứ thánh thủy lạ kỳ, rốt cuộc là ai? Tại sao lại cướp mất sợi dây vàng đó mang đi?
Khi đi đến nhà của bá phụ, thì tự nhiên vấp té, chân trái hơi đau. Đôi mắt chàng giật liên hồi, hơi nóng ở sau lưng.
Cô gái trêu cười, lên tiếng hỏi:
– Nè! Huynh tên gì?
Long trợn mắt.
Chàng qua tảng đá dưới gốc cây già ngồi nghỉ một hơi.
Cô gái trẻ lúc này tự giới thiệu về mình, nói:
– Tiểu nữ là Xa Tuyết Nhi, rất cảm ơn huynh đài đã ra tay cứu giúp. Năm nay, tôi mười tám tuổi. Tôi không còn phụ mẫu trên đời, tứ cố vô thân!
Vừa nói, nàng vừa rưng rưng đôi dòng nước mắt, trông cũng rất thê lương.
Long nghe rồi thì muôn phần đồng cảm, an ủi cô gái:
– Thì ra là vậy! Vừa rồi ta có trợn mắt nhìn muội.. cho ta xin lỗi!
Tuyết Nhi đáp:
– Dạ không sao! Là huynh đã cứu mạng muội!
Nói rồi, cười e thẹn, nhỏ nhẹ cúi đầu, định nói gì thêm, nhưng rồi lại nín bặt.
Bá bá của Long là Nghiêm Thủy đã không ngủ được từ đầu hôm tới bây giờ, cứ trằn trọc trong lòng, lăn qua lộn lại, lại nghe thấy tiếng của người ngoài nói chuyện gì theo gió vọng vào trong, nên bước xuống giường, đi nhanh ra cửa, lén nhìn xem giọng nói chuông đồng có phải của cháu mình không.
Khi ông vừa nhìn được một chút thì chân ngứa liên hồi, do giẫm phải tổ kiến trong đêm, nên giậm chân la làng phủi xuống.
Long đang nói chuyện với Tuyết Nhi bên ngoài, nghe tiếng bá phụ mình thì đi đến để gõ cửa, thấy ông ấy đang co giò quéo cẳng đá lung tung, nên vội hỏi:
– Bá bá, bị làm sao vậy?
Ông ta vừa nhăn mặt, nhíu mày, tay phủi lấy phủi để lưng quần, vừa nói:
– Trời ơi! Ta bị kiến lửa cắn! Mà con đang làm gì ở đây vào giờ này vậy hả?
Long phủi giúp bá phụ mình một hồi thì hết đau và ngứa, bầy kiến từ từ bò đi nơi khác.
Trong lúc dùng cây chổi cùn dựng sẵn ở bên cửa nhà để quét lũ kiến qua một bên, chàng vô tình nhìn thấy ở trên đỉnh núi Mã đằng sau ngôi nhà, tuy hơi xa, nhưng vẫn thấy có ánh đuốc mập mờ, nhấp nháy trong đêm.
Nghi là có quân binh, nhưng không có chứng cứ, chàng chỉ lắc nhẹ đầu, quay gót rời đi.
Nghiêm Thủy đứng nhìn theo bóng lưng của cháu trai mình, khen nó có dáng vẻ hơn người, nhất định giàu sang.
Gia gia của Long sanh cũng đúng ba trai.
Người con lớn, là Nghiêm Kiến, Long gọi đại bá.
Người thứ hai, là Nghiêm Thủy, nhị bá của Long.
Người con trai út, tất nhiên là cha Long, tên gọi Nghiêm Phong.
Nhà ở của ba huynh đệ thì không mấy gần nhau.
Người thì ở gần núi, người lại ở gần sông, người thì cất nhà lưng dựa vào núi, mặt hướng ra sông.
Nhà quê thật thà chân chất, trọn đời không biết hơn thua.
Tuy không có lắm bạc tiền, mà bụng dạ thường an.
Nhị bá của Long tuy có dáng vẻ ngu đần nhưng lại rất thông minh.
Vào năm lên mười hai tuổi, thuộc lòng Kinh Dịch. Lại biết xem tướng cho người, chưa trật mảy may.
Ông cũng đã sớm tính tới chuyện dời nơi ở và cải táng mộ phần của tiên tổ trong ba đời, để con cháu phát vương.
Biết rất nhiều cuộc đất quý, đắc cách về phong thủy, nhưng luôn giấu nhẹm trong lòng, tuyệt chẳng nói ra. Ông là người nhân hậu, ghét võ, yêu văn.
Trong lúc ông đang đứng ngắm trăng, thì Từ Đạt không biết đã đến tự khi nào, ngồi trên phiến đá dài, thổi sáo ngâm thơ.
Thơ rằng:
Liên hôn bất dụng
Đế vị mông lung
Công tử phù dung
Thành hoa huyết dũng.
Long châu sấm tụng
Phụng chỉ hồi cung
Thành tuyết bao dung
Thân bình phí dụng.
Tiếng ngâm thơ của Từ Đạt làm cho Nghiêm Thủy giật mình, đưa mắt nhìn sang.
Vì sao họ Từ lại biết được bài thơ ấy?
Do nghi vấn trong đầu, không sao hiểu được, lại trông thấy Đạt chính khí quanh người, mắt sáng như sao, cử chỉ điềm nhiên, nho nhã, không giống với hạng người tầm thường múa mép khua môi. Thủy trợn mắt nhìn Đạt một hồi lâu, sau đó mới cất tiếng hỏi nhỏ:
– Người là ai? Từ đây đến đây? Xin cho kẻ hèn này được biết!
Đạt nghe xong thì đứng dậy, thong thả đi tới chỗ của Thủy, lấy trong tay áo của mình ra một chiếc hộp hình tròn, không nói không rằng, đưa cho Thủy, nhanh chóng dùng khinh công tuyệt thế bay lướt trên mặt hồ, lẳng lặng rời đi.
Thủy ngờ vực bội phần. Chưa kịp nói lời nào thì chân hán đã đi xa.
Ông vội vã đi vào trong nhà, đem chôn chiếc hộp dưới chân giường, đọc sách như thường, tỏ vẻ khoan thai, mặc cho người vợ tàn tật của mình nài nỉ muốn biết đó là thứ gì, ông vẫn chẳng hé môi.
Xa Tuyết Nhi vì đã không còn nơi nương tựa, nên bất chấp ánh nhìn soi mói và thành kiến của mọi người, cứ đi theo Ứng Long.
Long thì không biết phải làm gì, đọc sách cho qua ngày, qua chuyện.
Nhưng Tuyết Nhi muốn gả chồng để có chỗ dựa nương, tự tay đan thành mấy cái túi hương, thêu lên hình chim én, trang điểm nét môi hồng, bẽn lẽn đứng nhìn Long.
Đã trôi qua nửa canh giờ, mà Long vẫn ngồi như không có chuyện gì, chẳng đoái đến giai tình khóe mắt lệ sầu cay.
Từ bên ngoài cửa, có tiếng nói vọng vào:
– Ứng Long!
Giọng nói này làm cho Long ngơ ngác, thì ra là Từ Phụng đi đến để thăm chàng, cũng muốn mộng thành thân.
Tình yêu trong gang tấc như đùa, phải lòng nhau từ lần đầu gặp mặt.
Có phải ý trời, hay chỉ chiêm bao?
Chắc không phải là một giấc mơ.
Sau ba đêm liền không ngủ được, cũng được sáu bảy ngày từ lần chạm mặt người con gái họ Từ trong dịp lễ trung thu, có chút gì như mong đợi, không phải sao?
Long uống hết ly trà trước mặt, tay để quyển sách lên bàn, chỉnh y áo lại cho đường hoàng, đôi mắt sáng lên ngay.
Dáng dấp kiêu hùng, chân đi bước hổ, không chút vội vàng, ứng khẩu đọc một bài thơ:
Thế gian điên đảo suy đồi
Thiên nhiên dẫu đẹp, đến hồi quy âm
Hành nhân diệt dục trừ dâm
Đạo cao đức lớn, quý tàm tu thân.
Tuy là than thở cho đời, nhưng tỏ đạo thánh nhân.
Từ Phụng nhìn Tuyết Nhi, thấy cô không có việc buồn chi mà tự nhiên òa khóc, có đôi chút hiếu kỳ, nên đến lại gần bên, vỗ nhẹ vai nàng rồi hỏi:
– Cô nương có bị làm sao hay không vậy, có chuyện gì sao? Nói đi! Có gì thì ta sẽ giúp đỡ!
Xa cô nương chỉ được nước, khóc lớn vang nhà, đòi tự tử từng cơn.
Thật ra, hai người con gái này, họ đều rất thơ ngây, chưa biết tình đời dâu bể, thế sự khôn lường, cơm áo phiền hà, sinh tử đau thương.
Ứng Long cũng chẳng nói gì, vì thấy nàng vẫn còn quá trẻ con.
Thơ ngây là vậy, nhưng Tuyết Nhi học đạo tinh tường, biết gieo quẻ, chiêm tinh.
Do biết mệnh của Ứng Long là phá quân tinh hạ thế, ứng vận cơ trời, sứ mạng thiêng liêng.
Thật ra, hai chữ “phá quân” này không nghiêm trọng như là nhiều người thế gian vẫn nghĩ.
Có câu rằng, nhân quả thông ba đời, chư phật khắp mười phương.
Ứng Long sanh vào giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nên cha mẹ mới đặt cho chàng tên gọi Ứng Long.
Long tức là một con rồng.
Ứng ở đây nghĩa là ứng vận.
Long cũng tự biết lá số của mình không tầm thường như bao con người trên đời, luôn tu đức sửa tài để hóa kiếp chân long, như cá chép nếu muốn hóa rồng thì cần vượt qua được ải vũ môn quan.
Chân long không nhất định phải là thiên tử, chỉ cần một trái tim sáng ngời, cũng để để thành tiên.
Ba ngàn điều thiện, âu cũng nhân duyên, một kiếp tôi trung, muôn đời tưởng niệm.
Tận trung báo quốc không ưu phiền, chém sạch yêu tà, trùng hưng chánh khí, là thiên tính của Nghiêm Long.
Lại nói, do quá nôn nóng muốn tổ chức lễ tịch điền vào đầu tháng giêng sắp tới, Long thiên đế mới sai người gấp rút đi tuần và hạch sách trăm quan.
Thật ra, đó chỉ là cái cớ để vua vơ vét của cải dân thường nhằm xây dựng hoàng cung.
Hoạn quan được thế chuyên quyền, nhân dân muôn phần đói khổ.
Vì nơi quê nhà đất Đạo của Long tuy nói là sơn cùng thủy tận, nhưng sản vật lại nhiều, mỹ nữ rất đông, con người ăn hiền ở thẳng, không nói chuyện nhiều, rất có đạo căn.
Ấy thế mà vị hôn quân của Long triều chẳng yêu kẻ sĩ, chẳng thích tu tâm, còn luôn muốn bắt bớ dân lành, ăn chơi hưởng lạc, thấy con gái nhà nào dễ nhìn liền đem nhốt trong cung.
Đế vương muôn đời, có người nào mà không đủ giai lệ ba ngàn, lục viện tam cung.
Thánh nhân dạy:
– Muôn ác dâm đứng đầu. Trăm thiện hiếu đứng trước.
Lên ngôi năm mười ba tuổi, có chí anh hùng, văn võ uyên thâm, lại có tướng mạo hơn người, khôi ngô tráng kiện, Long thiên đế buổi đầu hiếu thảo trăm nhà, ăn tuyết nằm sương, từng lên núi Phổ Đà cầu đạo.
Nhưng do thích sủng hạnh yêu tần, tâm chí lung lay.
Thoạt tiên, chỉ là tăng thuế hoang đường, phong quan bừa bãi, sau mới ôm ấp giai kiều, chính sự không lo.
Hồ Thiên Khí nhiều lần khuyên can không được, tự tử ba lần, chán nản muổn từ quan.
Nơi chốn triều đàng, vàng thau lẫn lộn, nếu như không có đạo đức vuông tròn, sao khuất phục tha nhân.
Châu Thần, Long Khí với Thành Tinh ba tên này ngày đêm dỗ ngọt vua hiền, đưa đi ngắm cảnh, cho xem những thứ sách dâm loàn, nhằm lật đổ giang sơn.
Chúng thật có mối thù oán sâu nặng từ trước với Long triều, đã xuyên suốt ba đời, nên thủ đoạn tinh khôn.
Liên nhân đế tài hoa tuyệt thế, đạo đức chu toàn, tướng mạo như thần, ghét nịnh bài mê.
Từ lâu, đã nghe nói Long triều mục nát suy đồi, binh yếu dân nghèo, phong hóa hao mòn, mất hết kỷ cương, trong lúc thiên hạ đang yên, nhưng do muốn thảo phạt vua tà, trấn an trăm họ, nên vạn bất đắc dĩ mới chiêu mời binh tướng năm phương.
Trong ba mươi sáu nước chư hầu, chỉ duy mỗi Long quốc là bại hoại gian tà, thiên lý khó dung.
Liên đế dùng kế liên hoàn, trước là nội gián, đả thảo kinh xà, điệu hổ ly sơn xong rồi, sau đó mới bao vây.
Từ kinh thành Phi Tuyết của Liên quốc, đến kinh đô Hoa Trị của Long triều, mất khoảng bảy ngày đường cưỡi ngựa phi nhanh.
Liên quốc vẫn là một nước chư hầu.
Thiên hạ chia làm tam thập lục quốc, chỉ toàn là nước chư hầu, không có nước vua.
Nhưng giữa các nước này đều chung sức liên minh, chống lại giặc Tây Tần, Bắc U, Đông Minh, Nam Phí, Trung Cao Chiết cùng Trung Hạ Cường, gọi chung là lục tặc.
Như vậy, thì tính ra dưới gầm trời này, có bốn mươi hai nước.
Vì sáu tên giặc này đều có địa bàn riêng, lại có tên nước rõ ràng, bá quan cũng đủ, xây kiên cố Lục Quốc Kỳ thành dài tam thiên lý.
Thành này còn có tên gọi khác là Lang Phá Sát Ma thành, bên trong có núi vàng, châu báu số vô biên.
Có lẽ đây là mối lo lớn nhất cho ba nước Long-Hoa-Liên quốc muôn đời, long hổ tranh hùng, thắng bại bất phân.
Mùa đông tới rồi, Liễu Phi Thiên thân là minh củ võ lâm, lòng nào nguội lạnh, ông bưng tô canh nóng trên bàn, lặng lẽ khóc buồn than:
– Can qua nếu như đã không thể nào tránh khỏi, thì..
Ông nói chưa dứt lời, thì Cái Bang chủ bên ngoài đã nhanh bước vô trong, rơi nước mắt nhìn ông, nói:
– Minh chủ! Đại sự không hay rồi! Minh chủ, ngài mau đi theo ta!
Vừa nói, Khuất Bang vừa lôi áo họ Liễu ra ngoài, hấp tấp đưa đi.
Hai con ngựa đỏ cao gầy, phi nhanh như gió, thoáng chốc đã tới Long thành, huyết mạch của kinh đô.
Khuất Bang lòng đầy lo sợ cho tính mạng của muôn dân, lắp ba lắp bắp nói:
– Theo lời do thám từ đệ tử của ta, chỉ nội trong vòng nửa tháng, Liên đế là Liên Hoàn sẽ đem bách vạn binh cường để thảo phạt Long vương. Đương kim thánh thượng Long Trang này của ta trước đây là người tốt, vang danh hiếu tử xa gần, một lòng lo nước thương dân. Nay, hắn vì nghe theo lời nịnh hót của lũ gian thần nên mới suy vi, huynh niệm tình vào sinh ra tử của hai chúng ta từ nhỏ, cứu Long quốc một lần này có được hay không?
Nói xong, Cái bang chủ liền quỳ xuống, nước mắt lại tuôn trào như dòng suối nóng hổi chốn thiên đường, lạy lục van xin.
Đang lúc nửa đêm, chẳng có ai nhìn thấy được cảnh này, duy chỉ có một người, chính là Chu Nguyên Chương.
Họ Chu theo dõi đã nửa ngày, nay nghe được chuyện này, cũng rất đổi bi thương, hai hàng nước mắt đã chảy tự khi nào.
Có chưởng môn của phái Liên Hoa là Liên Tịnh, dắt theo đứa nhỏ tên Chu Đệ đi cùng, hẹn với Từ Đạt qua mười ngày sẽ bắt sống Liên Hoàn để báo đáp Long vương.
Nhưng có đâu ngờ, chỉ qua bảy ngày, Liên hậu đã sai người ám sát Liễu Phi Thiên.
Cũng may, minh chủ chu toàn, tính lo mọi chuyện, đã mặc áo giáp Kim Bình trong người từ trước, nhân đó mới không sao.
Cảnh trí ở Long thành tuy không bằng kinh đô Hoa Trị, nhưng phảng phất nét tương đồng, dương liễu rất xanh tươi.
Sáng nay, Nghiêm Long đi trước dẫn đường, dắt theo Từ Phụng, muốn dâng lên cho Long đế gương thần, tiên báo vận càn khôn.
Chàng nhặt được nó ở Liên hoa thôn, trong một buổi tối trời, chim bay tứ tán.
Nhưng do không quen biết trong triều, hơn nữa, ăn nói không rành, cũng chẳng có bạc tiền lo lót cho hai tên binh lính đứng gác cổng thành, nên chẳng được vào kinh.
Long hơi buồn, ngước mắt nhìn trời xanh, nặng nề lê đôi chân rỉ máu, đi được vài ba con đường, đau đớn xé tâm can, nhìn qua bên chỗ cây thần, khóc lớn van xin:
– Cây thần! Con biết người hơn ba trăm năm tuổi, có thuyết nói là ngàn năm, con chỉ xin ngài một điều, không biết có được không? Người khi sống tên là Dương Liệt, trung hiếu tiếng vang đồn, khi chết hóa thành cây. Người đã ở đây rất lâu, khói nhang bao đời thụ hưởng, sao không rũ lòng thương xót đến lê dân.
Phụng nghe cũng u sầu, than thở với thanh đao đang cầm trên tay mình:
– Cây đao này tuổi thọ ba trăm, trải qua không ít đời minh chủ, ta muốn chém cây dương này, để thử thách uy linh!
Nói rồi, ngọc nữ xông tới định chém, nhưng uy thần của cây dương ba phần hiển hiện, làm cho thanh bạch tuyết thần đao giữa đường khựng lại, kêu tiếng đinh tai.
Long cả kinh nói:
– Dương tể tướng! Người đừng giận!
Cây thần êm ả như thường, gió thổi nhẹ qua, tiếng phong linh từ xa đưa lại, hai người họ quay lưng lại nhìn, thì ra người đến là công chúa Tình Quang.
Tình Quang công chúa nói:
– Hai ngươi là ai? Làm gì ở đây? Nói mau.
Phụng cúi đầu không đáp.
Long ngẩng mặt lên nhìn, trong mắt sáng chân quang, môi đỏ sen hồng, long khí xung thiên.
Công chúa ba phần hoảng sợ, giật lùi hai bước rồi tiếp:
– Sao không trả lời ta! Bộ hai ngươi muốn chết rồi sao! Hả!
Lại thấy chân bên trái của người đàn ông này đang chảy máu, nên ngất xỉu ra đường, cung nữ dìu lên.
Phụng dùng khinh công đưa Long bay đi, dân chúng có kẻ chạy lại nhìn, công chúa vẫn ngồi ngây.
– Keng! Keng! Keng!
Tiếng binh khí vang rền, như lôi như sấm.
Quân Liên triều đã tới ngoài cổng thành, cách nửa dặm đường chim.
Ngự lâm quân của Long triều vô cùng hoảng sợ, phi ngựa mau về kinh thành, cấp báo với Long vương.
Công chúa cũng có vài ba đường võ nghệ, sâu sắc hơn người, giả dạng thường dân, đứng lẫn lộn với đám ăn mày, chôn chân tại chỗ.
Từ bên ngoài, Liên nhân đế hô hào, chuẩn bị tấn công.
Tiếng đánh trống liên hồi trong nắng sáng, khiến cho người nghe thấy phải kinh tâm.
Dân chúng khóa chặt cửa nhà, không đi đâu nữa. Ba phen lạy phật Di Đà, niệm chú Đại Bi.
Nhanh như cắt, chỉ trong chưa đầy một khắc, binh lính dưới sự thống lĩnh của Liên nhân đế đã giết tám trăm người của Long quốc.
Quân của Long thành khá mỏng, huống chi trong lúc bất ngờ, họ không kịp trở tay.
Từ lâu, binh tướng cũng đã quá nửa quy hàng theo Liên quốc, trong mười người, nội gián do Liên đế cày vào đã tới ba.
Khéo sao mua chuộc lòng người, trấn an bá tánh. Sau khi đã phá được Long thành, Liên đế đọc tam chương:
– Không giết kẻ đầu hàng, dân thường, phụ nữ.
– Không gây khó dễ về mọi mặt.
– Không phân biệt đối xử với tất cả mọi người, cuộc sống vẫn tiếp diễn bình thường như trước đây.
Nghe được lời này, dân chúng ai nấy reo hò, ngợi ca nghĩa cử nhân từ và cao đẹp của minh quân Liên quốc, cũng như thêm chán ghét chính sách bạo tàn và thâm ác của Long vương.
Có người còn dám mạnh miệng nói rằng:
– Long quốc sắp diệt rồi! Không lâu quá ba hôm.
Lại con đem của cải, ngọc ngà, gái đẹp yêu kiều dâng lên để lấy lòng Liên nhân đế.
Chắc từ lâu, gốc rễ long mạch của Long quốc đã không còn, nên mới thành ra nông nỗi dân chúng thấy vui mừng khi Liên quốc ra binh?
Thật ra thì không phải.
Đây chẳng qua chỉ là kế trá hàng của một vài bộ phận dân phòng do Long thiên đế nghĩ ra, chứ muốn công phá Long thành không dễ như vậy.
Huống hồ, từ đây đánh thẳng kinh thành, cũng nhọc sức chẳng chơi.
Long vương ngồi trên, dáng người rũ rượi, cứ liên tục chau mày hỏi vặn các quan:
– Vương tể tướng! Khanh đã có kế sách lâu dài để hộ quốc hay chưa!
Vương Châu cúi đầu hổ thẹn, không nói một câu.
Vua lại xoay người sang phía chỗ ngồi của binh bộ thượng thư Hồ Thiên Khí, hỏi:
– Hồ Duyệt! Vậy còn khanh?
Họ Hồ nhăn mày ão não, cũng chỉ biết lắc đầu.
Bên ngoài đại điện có tiếng truyền vào:
– Tình Quang công chúa giá đáo!
Vua nghe hoàng muội về tới rồi thì lòng đỡ lo âu, nhưng vẫn dồn dập hỏi:
– Tình Quang! Muội không sao đó chứ? Có người nào dám làm hoàng muội của trẫm không vui không? Nghe nói, Liên đế công thành, muốn đòi thảo phạt trẫm, muội lúc đó cũng có mặt và đánh với chúng, thấy như thế nào? Hoàng muội, mau nói cho trẫm được biết!
Tình Quang bình thản đáp:
– Hồi bệ hạ, Liên đế muốn công thành, ắt phải có ba quân. Còn đằng này, muội thấy hắn chỉ mang theo mười ba tên hổ tướng và khoảng bảy vạn tinh binh, cũng không đáng kể vào đâu, chắc chỉ là muốn dọa cho Long triều chúng ta sợ một trận. Chỉ cần thánh thượng ở trên lấy nhân làm gốc, lấy hiếu làm đầu, trọng dụng người hiền, giết hết tham quan, an ủi lòng người, lo cho bá tánh, giảm đi tô thuế, thanh kiết như xưa, trở lại dáng vẻ phong thần, xa rời yêu phi Phí Nguyệt, thì cho dù không tốn một binh một tốt nào, Liên đế cũng tự lui binh.
Long thiên đế nghe xong, đùng đùng nổi giận, hét lớn:
– Người đâu! Lập tức bắt công chúa giam vào thiên lao cho trẫm.
Bá quan đều cản lại, nhưng vua chẳng muốn nghe, còn nói:
– Nếu như sau này còn có kẻ nào dám gọi ái phi của trẫm là yêu tà, nhất định giết không tha!
Vừa nói vừa đạp đổ ngai vàng, hậm hực đi xuống chỗ Vương Châu, nói:
– Ái khanh thân là tể tướng, mà cũng chỉ biết hưởng bổng lộc triều đình, đứng đó ngậm ngùi thôi hay sao?
Bá quan đều rơi lệ, không biết nói năng chi.
Công chúa tự biết mình phạm tội khi quân, sắp chết tới nơi, nhưng sự hồn nhiên, trong sáng, đơn thuần khiến cho nhiều người cảm động, nàng nói:
– Phí Nguyệt là yêu phi! Hoàng huynh, nếu như không giết chết ả thì bách tính sẽ nguy nan, Long triều sẽ hủy diệt! Coi như là muội thay mặt cho dân chúng ở Long thành cầu xin huynh! Nếu như một mai ba mươi sáu nước chư hầu đồng loạt khởi binh, cho dù huynh..
Long đế giận dữ cắt ngang lời công chúa:
– Cho dù ta thế nào?
Lại trợn mắt như hùm, tay nắm chặt chùy, định đánh Tình Quang, nhưng lại niệm tình, cúi xuống ngồi than:
– Trẫm cũng biết, Phí Nguyệt dâm tà, dáng đi như rắn, nhưng đã trót yêu nàng, hơn nữa có con trai, là nàng ấy đã sanh ra long tử. Tin rằng chỉ có chân tình, sáng soi kim cổ, nhân sinh bất thập toàn, dâm nữ cũng đồng nhân. Hãy cho ta thời gian, nếu như trong ba tháng sắp tới đây, mà chẳng giết chết nàng, băm thây muôn mảnh, thì trong dân chúng muôn nhà, người nào cũng có thể làm vua!
Hoàng đế nói câu này, quả thật cũng hùng tâm.
Nhưng, chiến sự gần kề, có đâu ba tháng. Chắc chỉ trong ba ngày, Long quốc sẽ diệt vong.
Có quan đại thần là Lưu Cơ nói:
– Muôn tâu hoàng thượng, lời công chúa nói vô cùng thấu tình đạt lý. Thật ra, Liên quốc cũng đang nghèo, không có đủ tinh binh. Bảy vạn binh lính đó, có tới một phần ba là những người già yếu, tay lấm chân bùn, mới được trưng dụng cũng chưa lâu. Nếu như hoàng thượng giữ đúng như lời, giết đi yêu nghiệt, không tới ba ngày, Liên nhân đế Liên Hoàn ắt phải tự lui binh.
Giọng nói ôn hòa, không nhanh không chậm, khiến cho Long thiên đế vui lòng, mở bụng hiền minh, hồ hởi nói:
– Xin nhận của quả nhân một lạy! Quân sư chắc chắc sẽ là Lưu Bá Ôn ngài, trẫm sẽ sắc phong. Nhưng trước hết, cây thần tự nhiên chuyển hướng, càn khôn bảo kính ra đời, không biết có điềm chi? Từ lâu ta đã nghe khanh bác học đa tài, đạo cao đức trọng, nay có thể phân bày cho rõ được hay không? Vì sao Liên quốc trong ba ngày phải tự lui binh? Ái khanh, nói lời từ tận đáy lòng của khanh ra đây, để cho thế gian này được biết.
Lưu Bá Ôn mỉm cười, tay trái chỉ rồng, chân phải đưa ra.
Vua nhìn không hiểu.
Hồ Thiên Khí lúc này chợt nghĩ đến Nghiêm Long, nhưng chưa đủ để phô bày ra mọi việc.
Biết Long là người mang thiên mệnh, trung hiếu vô cùng, có một không hai.
Ông suy nghĩ một hồi lâu, đánh bạo một lần, bước lên tâu lớn:
– Bệ hạ! Thần biết có một trang anh hùng, có thể cứu giang sơn.
Tình Quang công chúa cũng linh cảm được vài ba phần, can đảm bước lên thưa:
– Hoàng huynh, muội từng gặp qua một người hảo hán, có đôi mắt rồng sáng rực, tướng mạo phi phàm, ở tại gốc cây thần cách đây không lâu. Theo như trực giác nào giờ của muội, chắc là sẽ không sai, rất có thể là vị anh hùng này. Tuy lúc đó hắn đang bị thương, nhưng muội thấy có một nữ tử đi cùng hắn đang đeo trên người một chiếc gương. Nàng ấy rất xinh đẹp, hiền lành, khinh công lại giỏi, nghe nói là muốn thượng triều để diện kiến long nhan.
Long vương nói:
– Hoàng muội nói có thật không?
Công chúa chưa kịp trả lời, thì Long Khí ngông cuồng xua tay bác bỏ, nói:
– Hoàng thượng! Chuyện quốc gia đại sự, đàn bà con gái làm gì mà biết được! Khẩn xin hoàng thượng hãy cho mời Thành Tinh thượng triều để xem xét nhân do.
Long vương nói:
– Chuẩn tấu.
Công chúa trợn mắt, cắn môi nhìn tên quan tam phẩm không biết trời cao đất dày, nuốt hận muốn phân thây.
Có lạ chi, Long vương từ lâu đã yêu kẻ gian tà, quen dùng siểm nịnh, nên Long Khí mới lộng quyền, cáo mượn long uy.
Thành Tinh là một tên yêu đạo, mượn ba tấc lưỡi gian hùng, mê hoặc hôn quân, hắn từng nói:
– Hiện nay, trong thiên hạ này, chỉ có Long triều là thánh quốc thần bang. Văn võ anh tài, khắp nơi đều có đủ, trong tất cả các nước chư hầu, Long quốc chiếm ngôi tiên. Trong vòng mười năm, tứ hải tự nhiên đều quy phục. Đương kim thánh thượng vốn do trời sai xuống để chăn dân. Chẳng cần phải lo chi cả, có thể hưởng phước muôn đời, tạo hóa thuận theo. Muốn tăng thuế ba phần âu cũng dễ, xem giai tình ca múa để mua vui, trong khắp đất trời, tự nhiên như ý.
Long vương thống khoái tột cùng, phong hắn tước Tinh Vương.
Còn Châu Thần, cũng gian xảo lăn loàn, ăn ngủ với cung phi.
Chẳng những Long thiên đế không nhìn ra được dã tâm hung ác của ba tên giặc này, lại tấn tước ban quyền, như mê lú vô tri.
Lại nói, ở Long thành dân chúng đã lâu ngày trông chờ Long đế phát viện binh, có người hi sinh tính mạng cả nhà để hành thích Liên đế, lúc bị đem đi hành quyết chém đầu, vẫn không sợ mảy may.
Liên đế tôn thờ họ, chẳng những tha cho về, còn có ý phong quan.
Những người này về sau đều đi theo Nghiêm Long, tính sơ cũng hai mươi mấy người, võ nghệ khá cao siêu.
Long từ khi bị thương ở nơi chân trong lúc cứu người trong hỏa hoạn, hay mơ thấy có con rồng mang thanh kiếm bay lên.
Rồng xanh uốn lượn
Bảo kiếm rung lên
Tráng sĩ trung kiên
Đẩy lùi quân địch.
Trong lê thứ, cũng có kẻ vì một chút bạc tiền mà bán rẻ lương tâm, nhân lúc trời chạng vạng, băng sông qua đến Liên thành gặp Liên nhân đế dâng mưu.
Kẻ ấy tâu rằng:
– Hoàng thượng của Liên triều thật là thánh quân hiếm có. Nay, thảo dân có mưu này, muốn được vua nghe.
Liên vương vẻ mặt ôn hòa, cung kính nói:
– Bình thân! Chẳng hay khanh tên họ là chi?
Kẻ ấy tự tin nói:
– Hồi thánh quân! Thảo dân chỉ là một bá tánh ở Long thành, không có tên, chỉ biết mình họ Giang.
Liên vương đặt tên cho hắn là Bình, rồi nói tiếp:
– Giang Bình, chẳng lẽ kganh không yêu đất nước của mình hay sao? Cớ chi tự nói mình có mưu hay muốn dâng lên cho trẫm.
Giang Bình nhỏ nhẹ như người trong nhà, nói với Liên vương:
– Thánh thượng, xin người trả lời cho thần một chuyện, rồi sau đó mới tham mưu.
Vua nghe có phần nghi vấn, uy vũ đứng lên nhìn, đi xuống để quan dung, nhìn mặt mũi người này một lát rồi hỏi:
– Ngươi muốn biết chuyện gì?
Bình nói:
– Thưa minh đế, vì sao trong thiên hạ chỉ gồm bốn mươi hai nước. Hơn nữa, nếu như không nhắc đến lục tặc kia thì, ba mươi sáu nước chư hầu đều có vua riêng. Vì sao chỉ toàn là những nước chư hầu mà không ở ngôi vương, đã tự xưng mình là hoàng đế. Không có nước mẹ dẫn đầu, thì lấy gì bảo bọc cho các nước con. Một khi có tranh chấp về đất đai và quyền lợi, cũng như mỹ nữ, lụa là, binh hỏa sẽ nổ ra. Trước mắt, hoàng thượng nghĩ như thế nào về việc tự mình lên ngôi vua nước mẹ, cai quản dưới chân mình bốn mươi mốt nước kia.
Liên đế trầm tư giây lát, biết thiên mệnh chẳng phải nơi mình, thiên hạ định tam phân, bỏ ngỏ câu hỏi này, nói đùa sang chuyện khác:
– Họ Giang kia! Khanh có biết rằng, một khi can qua khởi dậy rồi, muôn loại sẽ sầu bi. Nếu khanh muốn, trẫm có thể phong khanh làm vua ở một nước nhỏ, khanh thấy sao?
Người ấy đáp:
– Thánh thượng! Từ nhỏ cho đến bây giờ, thần chưa bao giờ muốn làm vua, vì thần không ưa gì việc chém giết và quyền lực.
Liên đế lại nói:
– Vậy khanh có cao kế gì hay? Đâu, nói ra cho trẫm nghe.
Giang Bình nói:
– Thánh thượng, thần tuy là người Long quốc, nhưng đã sớm chán chường, căm ghét kẻ hôn quân. Từ ba trăm năm trước, khi Long quốc mới khai triều, trăm họ rất yên vui. Vậy mà trong vòng bảy tám năm trở lại đây, hạn hán hoành hành, lại thêm ôn dịch, vua ngồi trên một mình hưởng phước, không ngó ngàng cuộc sống lê dân. Ngoài phía tây có giặc Tây Tần, trên phương bắc Bắc U càng bạo, trong triều lại có gian thần, khuynh đảo hoang dâm. Nếu như thiên hạ chỉ toàn là nước chư hầu như Long quốc, không có nước mẹ buộc ràng, phê phán tội tà, thưởng khen công đức, không thống nhất quy hồi, sẽ mãi mãi đau thương!
Liên đế nghe xong thì lệ rơi lã chã, thương xót muôn loài, vỗ ngực bi ai.
Nhưng thế cục trong thiên hạ này, đâu dễ có yên vui, chia ra rồi lại hợp, hợp lâu quá thì phải chia.
Nếu như có công ước liên minh, thiên điều nhu đạo, bắt các nước ký tên vào, phải mất cả trăm năm.
Vì đã qua không biết bao nhiêu triều đại, hưng phát suy tàn, chính sử còn ghi.
Chắc có lẽ đây là vận trời, như mơ như ảo.
Thương xót cho kiếp con người, sanh tử điêu linh.
Liên đế phong quan cho Giang Bình rồi giữ lại. Nghĩ đây là vị nho sĩ siêu quần, nắm rõ chuyện càn khôn.
Ba ngày sau, bất chấp từng có hôn ước với công chúa của Long triều là Tình Hỉ, Liên đế vẫn công thành, bá tánh khóc như mưa.
Đó là một ngày âm u ảm đạm, mây trắng trốn chân trời, nắng nhạt ánh quang minh, muôn thú kêu gào, cỏ cây cháy rụi.
Liên hôn là việc lớn, nay Liên đế vì đại cục trong ta bà, muốn tiêu diệt nước Long.
Vì nếu như Long quốc suy đồi, bại hoại kỷ cương, sẽ làm tấm gương xấu cho tất cả các nước chư hầu còn lại. Hơn nữa, trong vô hình, đao kiếm đã rung lên.
Thanh long tuyền kiếm đã chọn Nghiêm Long làm chủ, trong đêm phát sáng ba lần, rực rỡ tựa vầng trăng.
Long đang nằm thiu thiu vào giấc điệp, đã nghe tiếng reo hò rất lớn của ba quân.
Tên lửa bắn lên đầy trời trong đêm khuya thanh vắng, kinh đô Hoa Trị muôn đời giây phút sẽ tiêu tan.
Từ Long thành đánh vào kinh đô, chỉ mất nửa ngày, Long vương chuẩn bị sẵn sàng, giáp trụ hiên ngang.
Sai các quan trấn giữ bốn cổng thành đông tây nam bắc, lại cho các tướng can trường đánh trả với Liên vương.
Hảo hán giang hồ, trăm người hiệp lực, biết bao tuyệt kỹ đã dùng, mà nào có ăn thua.
Binh linh chết rất nhiều, xác phơi đầy đất, máu tươi loang chảy thật dài, đỏ thẫm sắc can qua.
Không biết tự khi nào, Nghiêm Long đã sử dụng thành thạo được thanh long tuyền kiếm, khinh công tiến bộ nhiều, bay đến giúp Long vương.
Long nhan có phần tươi tỉnh, vua biết có nhân thần tương trợ, hoan hỉ nói vang lên:
– Ngươi là ai? Vì sao đến đây cứu trẫm, tay không đánh chết trăm người, sức mạnh vô song?
Long quỳ xuống hành lễ, hơi buồn nói:
– Hoàng thượng, thần là một kiếm khách giang hồ, mới gia nhập võ lâm.
Long thiên đế lại nói:
– Trẫm thấy ngươi tuổi đời còn trẻ, mang đôi mắt của rồng, sáng rực ánh chân quang, chắc cũng là một trang hảo hán anh hùng đỉnh thiên lập địa phải không?
Long thấy ông vua này không hề sợ hãi trước binh lính tinh nhuệ của Liên triều, cử chỉ cũng ôn hòa, nét miệng vẫn cười tươi, có được năm trên mười phần phong thái của một vị minh quân, nhưng không biết tại sao hơi có gì ác cảm, chắc do tâm khí hoang đường, khiến Long muốn quay lưng.
Liên nhân đế từ bên ngoài, nói với dân chúng ở trong kinh thành:
– Nếu như có người nào dám phản, chặt đầu Long thiên đế đem ra ngoài, dâng lên cho trẫm, chẳng những ta không giết vì tội này, còn phong thưởng vẻ vang. Quân vô hí ngôn.
Liễu Phi Thiên lúc này đã tới, quan sát thấy dân tình kinh hãi, cũng lo âu, ông ngồi trên nhành cây liễu, đưa mắt lên nhìn Long đế đang tươi cười, khinh bỉ nói to lên:
– Cẩu hoàng đế!
Chu Nguyên Chương theo ông làm đệ tử đã gần tròn một năm, cũng thấy buồn cho trăm họ, lặng lẽ đứng cau mày, chu mỏ, nói phong long:
– Tên này mà làm hoàng đế gì chứ? Nếu như để một đứa trẻ ăn mày, rồi chăn trâu như ta lên ngồi trên chiếc ngai vàng, không biết có vui không? Ha ha ha!
Từ Đạt đứng lẫn lộn trong đàm dân thường, chua xót nói trong mưa:
– Chiến tranh có gì tốt chứ? Ông trời ơi!
Ứng Long nửa muốn đi về, nửa thì muốn đánh.
Từ Phụng đang ở nhà, cảm thấy như có linh cảm mơ hồ về những chuyện không hay, mí mắt giật liên hồi, gió thổi rớt khăn tay, nàng nhanh chóng mang thanh bạch tuyết thần đao lên lưng ngựa kim hoàng, phi nước đại vào kinh.
Xa Tuyết Nhi bấy giờ tự nhiên bị đau bụng, ói mửa đầy nhà, không thể đi cùng, khóc lóc uống huyền đan.
Trời mưa như cầm chĩnh trút, Liên quân công phá thành trì, dũng mãnh tợ hùm beo.
Nơi cổng thành phía nam, có người trông thấy sợi dây vàng lấp lánh bay giữa trời, định cướp lấy dâng vua.
Sợi dây vàng này là pháp khí tâm truyền của vị vua khai quốc Long triều vào ba trăm năm trước, trước tự nổi lên ở con suối thanh long tuyền, nay bay tới chỗ Nghiêm Long.
Liễu Giới thiền sư đi cùng Ngộ Trực, dùng khinh công phi tót lên cổng thành, bảo vệ đám thương binh.
Trần Hữu Lượng là thương gia, tình cờ đi ngang qua đây, thấy cảnh chém giết rơi đầu, lòng hơi lo sợ, nhưng trong thiên cơ định sẵn uy quyền, bất giác muốn làm vua.
Lập tức cướp lấy ngựa và binh khí của Long triều để phân cao thấp với Liên vương, xông đến như long xà, tung cước đá như trâu.
Nghiêm Long cuối cùng quyết định ở lại kiên cường giúp Long đế đẩy lùi quân địch để an dân.
Võ công của chàng thì chưa chắc đã cao, vì chưa có một người thầy nào chỉ dạy, nhưng chính khí ngất trời, nắm bảo kiếm trong tay, sức mạnh hơn người, uy phong có đủ, xem Liên quốc cũng tầm thường, không sợ chết sợ đau.
Nói là dùng thành thạo thanh bảo kiếm vậy thôi, chứ nếu đối đầu với Liên Hoàn, nhất định sẽ vong thân.
Nhưng chính cái tâm trung hiếu này, khiến cho công chúa của Hoa triều là Hoa Đán có mặt ở đó, trong trang phục của dân thường giả dạng để thăm dò, đã rung động tình yêu, nàng nói với những người xung quanh rằng:
– Tiểu nữ thấy vị anh hùng kia phi phàm tướng mạo, trung dũng chân thành, nhất định dạy võ công!
Vị tướng quân theo hầu là Hoa Vũ nói:
– Tiểu thư! Xin đừng tạo thêm nhiều phiền phức cho lão gia!
Công chúa le lưỡi thật dài, hất hàm nói lẫy:
– Cha ta từ nhỏ đã không thương yêu gì ta! Ta chỉ mới đi chơi có nửa tháng, ăn uống chưa nhiều, y phục cũng chưa mua, càng không kết giao được với bất cứ người anh hùng quân tử nào ở trên giang hồ. Nay, ngươi cấm cản ta đủ điều. Được rồi, ta không muốn sống nữa đâu. Hứ!
Còn đang tranh cãi thì có loạn tiễn bay vào đám người, ai nấy đều kêu gào bỏ chạy, không dám đứng quan sát tình hình nữa.
Hoa Đán tiễn thuật siêu quần, dùng cây tên mình vừa nhặt được, phóng trả lại cho quân Liên triều, chết bốn năm tên.
Liên đế quay sang nhìn đã thấy, muốn bắt cô gái này đi theo mình, liền sai người tập kích phía sau.
Ứng Long đánh thắng không nhiều, trúng tên ba mũi, cũng may là Từ Phụng tới kịp lúc, lại gặp gỡ được hai người dọc đường, cùng đi đến nơi này, tung ra khói mù, mới cứu được Long ra, nếu không chắc chết dưới đao kiếm quân thù, phân thây trăm mảnh.
Gió thổi không ngừng, mưa thêm trắng xóa, Phụng trông thấy sợi dây vàng đang bay tới nơi mình thì mừng rỡ reo lên:
– Thập điện thiên tình tuyến, thì ra ngươi đã theo ta đến đây sao? Tốt quá rồi! Ứng Long, nghe lời muội nói, huynh đưa thanh long kiếm hướng thẳng lên bầu trời, cho tia sét đánh vào, sau đó dùng máu của mình để điểm nhãn thanh long. Vì thanh long đã nhập vào bảo kiếm lâu rồi mà chưa có máu rồng, nên không hiển uy linh. Được rồi, huynh mau làm đi!
Long nghe có đôi chút nghi ngờ, nhưng cũng không biết linh hồn mình như có ai đó nương vào, trong vô thức bay lên.
Tiên kiếm giữa trời, chân long xuất thế, máu tươi thấm đỏ sa trường, rồng xanh ba lần uốn lượn, cho nhân thế biết anh hùng muôn đức triệu thần minh.
Long biết thanh long kiếm đã hiển uy thần, hợp với sợi dây vàng thập điện thiên tình, vết thương tuy đau đớn vô cùng, mà linh thức quang minh.
Dây vàng quấn vào tiên kiếm, ba luồng ánh sáng xung thiên.
Do biết được Nghiêm Long đã đi ngược lại số mạng mình, vì một niệm chân thành cứu đời, đem tiên kiếm sớm khai quang mà
Sau này sẽ bị tổn thọ, cuộc đời từ đây thăng trầm, lao tam khổ tứ, cho đến chết cũng không yên ổn một ngày, không có con cháu nối dòng, một kiếp bi thương, Liễu Giới thiền sư từ bi rơi hai hàng lệ đỏ, cung kính trước một vị anh hùng cái thế mãi lưu danh.
Đúng lý, phải mất ít nhất ba năm thì mới có thể khai quang cho thanh thần kiếm ấy được, còn đằng này..
Một khi thần kiếm đã triệu hồi được tinh linh ba cõi, thì chân hán kiêu hùng sẽ đánh bại muôn phương.
Liễu Giới hòa thượng nói:
– Liên đế! Ông hãy nên quay về liên quốc của ông, vì liên hoa trì đã có rồng xuất hiện, nhưng ông chớ xem thường và giết nó. Vì con rồng này gắn liền với tính mạng của Nghiêm Long, đồng thời cũng quyết định cả sinh mạng của Hoa Thần và Liên nhân đế ông vậy. Trong ba người, nếu như chết một người, thì hai người kia chắc cũng không thể nào sống nổi. A Di Đà Phật!
Liên đế vẫn chưa tin, đốc thúc ba quân tiếp tục đánh dữ dội vào kinh thành, binh tướng đông nhiều, nhuệ khí một dâng cao.
Long bất tỉnh nằm dài, Hoa Thần vua Hoa quốc, từ lâu ngưỡng mộ nhân tài, xông đến để giải vây.
Vua vừa cưỡi ngựa vừa nói với binh lính Long triều:
– Ta là Hoa địa đế của Hoa triều, đi đến để xem tuồng, chém giết thật đã tay! Ha ha ha!
Long binh nghe thì hoảng sợ, nghe tiếng Hoa đế anh hùng, võ nghệ tuyệt luân, một thân một mình xông thẳng chốn ba quân, nhất định có kế khôn lường, mưu sâu đáng nể.
Hoa đế dùng kích hơi dài, chém chết ba mươi người trong nháy mắt, hô to:
– Để xem có người nào xứng đáng để được chết dưới tay ta!
Giọng nói hổ gầm, dáng như voi chúa, phi thiên cùng độn thổ, như thiên tướng trong mơ, Liên đế nhìn Hoa đế lúc này cũng muốn lui binh, nhưng nghĩ ta cũng thiên tài trăm năm có một, văn võ đâu thua gì ai đó, quyết hơn thua, phi thẳng vào trong kinh thành, giương cung phóng tiễn về hướng Long vương, nhân từ hạ giọng nói:
– Long thiên đế, ngươi ỷ có nhân tài trợ giúp cho ngươi, không biết lỗi mình, tâm dâm khó bỏ, nghe theo lời Phí Nguyệt, ruồng bỏ hết trung lương, trăm họ oán thù, có ai chẳng biết. Nhưng ta vốn đạo nhân từ, có ý tha ngươi, chỉ cần hứa với ta một chuyện.
Long thiên đế mím môi cười, ra vẻ rất anh minh, nói:
– Trẫm mang mệnh trời, chẳng qua sủng hạnh phi tần, sinh con nối dõi, đâu có giết dân thường bừa bãi giống Hoa vương.
Hoa vương nghe được lời này, sôi gan nóng ruột nói:
– Long Tình Diễn! Ta biết ơn ngươi đã từng cứu ta vào mười năm về trước, nhưng Hoa quốc đã làm gì có lỗi với ngươi, để ngươi buông lời nhục mạ ta như vậy? Thân là vua một nước, mà ngươi thấy bá tánh lâm vào đói kém, mất mùa, cũng không thèm thăm thú, quan tâm, lại càng không chịu mở kho lương của triều đình để cứu tế. Ta cũng không còn gì muốn nói với ngươi!
Long thiên đế vẫn cố gượng cười, xoa tay tự đắc, nói:
– Hoa Thần! Ta không biết ngươi có nhớ là ngươi đã từng giết một người con gái ở Long châu hay không? Nhưng chính cái chết của nàng đã khiến ta trở thành một con người suy đồi như hôm nay. Ta mặc kệ tình đời giả dối, chỉ muốn vui vẻ bên giai tình, không biết sớm hôm.
Hoa Đán công chúa mượn những tên lính của Liên quốc đã đầu hàng dưới chân mình, trà trộn vào quân Long triều, nhân lúc gió táp mưa dầm, đánh úp Long vương.
Long vương bị trúng tên từ phía sau, máu hồng nhỏ giọt, Nghiêm Long thấy vậy sợ rằng non nước sẽ tiêu tan, quay sang nhìn Từ Phụng, nói:
– Ngọc Phụng! Ta muốn thiên hạ thái bình, dứt hết đao binh. Muội có cách nào hay không?
Phụng đau đớn trong lòng, nước mắt nhỏ lê thê, xót thương dân chúng Long triều tội chi bạc phước, lấy trong người mình ra một lọ nước thon dài, đựng thánh thủy ma ni, uống cạn một lần, bay lên như gió, nói với Liên đế như là sắp phân thây:
– Liên nhân đế! Nếu như ngài quyết làm cỏ dân Long triều, vậy ta sẽ chết chung!
Nói rồi phi thân tới, uyển chuyển vô cùng, chẳng bị trúng tên, chém liên tiếp ba viên hổ tướng, động tác nhẹ nhàng, Liên đế cả kinh.
Trấn nam tướng quân của Liên quốc là Trương Hà, lên tiếng nói:
– Hoàng thượng! Xin để đó cho thần, móc mắt ả làm gương.
Liên đế cau mày hỏi:
– Vì sao không giết ả?
Trương Hà nói:
– Từ Trinh là thánh nữ đương thời, giữ lại có lợi hơn.
Liên đế lại hỏi:
– Tướng quân tại sao biết được tên của người này? Mau nói trẫm nghe.
Trương Hà đáp:
– Hồi hoàng thượng, trong cuốn Long Thư của Long triều đã từng nói đến việc này, nếu như giết Từ Trinh thì thiên giới sẽ giáng xuống tai ương, thế gian này sẽ đi đến hồi hủy diệt. Thần thấy dung mạo người nữ hiệp này y như trong kinh tả, mắt phụng đẹp dài, tú lệ vô song, lại có thanh bạch tuyết thần đao ở bên mình, lưng đeo càn khôn bảo kính, nhất định là thánh nữ muôn đời, nhưng phải móc mắt lập uy.
Từ Phụng nghe xong thì bất giác trong người nóng hổi, khô khan, suýt chút nữa là đã bị bắt đem về để giam hãm, tra cung.
Trong hư không, chợt có một người bay nhanh tới, dáng ngọc thân ngà, tuổi độ năm mươi, đánh cho binh tướng Liên triều ngã nghiêng chao đảo, dãy lụa tung hoành, thương pháp cao siêu.
Chưa đầy một khắc, đội hình của Liên nhân đế bây giờ đã rối như tơ.
Liên nhân đế khiêm nhường, nhỏ nhẹ, bước khỏi tòa ngồi, thong thả đi lên, nói:
– Xin người cho kẻ hèn này được biết tôn tánh đại danh?
Người nữ đứng giữa quân thù, uy phong hết vẻ, trong ánh mắt đen tuyền, để lộ chút đau thương, nói với Liên Hoàn:
– Ta là Trần Thiên Tâm. Ngươi có từng nghe trên giang hồ, có một nơi này bí ẩn hay chưa?
Liên đế nghi ngờ, cất tiếng hỏi:
– Xin cho phép được hỏi, đó là nơi nào?
Họ Trần cao giọng đáp:
– Không xa Liên thành, không gần Liên quốc, nơi sông núi giao hòa, có thánh thể tiên vương.