Tuy chưa từng tận mắt thấy lửa hiệu nhưng đã nghe nói rất nhiều lần về nó, đương nhiên Hàn Ấu Nương hiểu được việc châm lửa phong hoả đài đại biểu cho cái gì. Ấn tượng của nàng về sự hung tàn và dã man của Thát Tử cũng giống như cái nhìn của người thời nay về phát xít Nhật: đều là một bầy dã thú khát máu.
Dương Lăng thì ngạc nhiên hơn là khiếp sợ. Do ảnh hưởng bởi vô số phim ảnh và kịch truyền hình ở hậu thế, trong tưởng tượng của y, cái gọi là Thát Tử đều là những chiến sĩ Mông Cổ bộc trực mạnh mẽ, vừa mến khách lại vừa hào sảng, có lẽ chiến đấu rất dũng mãnh. Nói gì đi chăng nữa thì không phải là bọn xâm lược mất hết nhân tính được.
Chẳng là lúc này triều đình hai bên còn đang đối địch, y sẽ không ngây thơ cho rằng không may bọn họ tấn công vào được trong thành thì sẽ tha cho mình, bèn vội vàng kéo tay Hàn Ấu Nương tức tốc chạy về nha môn.
Lúc này cổng thành đóng chặt, cư dân trong thành đã sớm vì lửa hiệu mà nháo nhào đổ ra ngoài. Chuyện tiểu vương tử Thát Đát Bá Nhan Mãnh Khả kéo quân tập kích biên giới đã không phải là lần đầu, nhưng đa phần bọn chúng không dám đánh thẳng vào quan ải như Kê Minh này. Đối với những thành trì tương đối to lớn như vầy, bọn chúng sẽ không đủ năng lực mang theo các loại khí giới công thành đi một khoảng đường xa chỉ để cướp bóc; Thát Tử sẽ không chấp nhận thương vong lớn chỉ để công thành.
Thông thường thì chiến tranh quy mô nhỏ sẽ không dùng đến phong hoả đài để truyền tin. Nhưng tình hình đêm nay có vẻ hơi đặc biệt, dường như có quan ải đã bị công kích trực tiếp, những người dân này há không cảm thấy lo sợ?
Mẫn huyện lệnh tuy làm quan huyện ù ù cạc cạc, nhưng dẫu gì vẫn xuất thân quân nhân, vừa nghe được tin tức Thát Tử đến liền vội vàng từ trong hậu sảnh chạy ra ngoài, thậm chí y phục cũng chưa kịp mặc chỉnh tề.
Quân trú đóng nơi đây chỉ có hai trăm sáu mươi người, do hai bả tổng (*) thống lĩnh. Dựa theo quy củ của triều Minh, một khi phát sinh chiến sự, quan hành chính tối cao ở địa phương đó sẽ phụ trách toàn bộ hoạt động quân sự, sĩ quan quân đội không có quyền độc lập chỉ huy. Do đó bây giờ Mẫn huyện lệnh còn trở thành tư lệnh phòng ngự chiến khu. (*: võ quan trấn thủ)
Đây vốn là nghề cũ của Mẫn huyện lệnh, cho nên một mặt lão lập tức phái thám mã liên lạc với mấy trạm dịch gần nhất thăm dò thêm tin tức, một mặt phái người mau chóng thúc ngựa quay về Phủ thành điều binh, lại đồng thời phái người báo tin cho Mã dịch thừa, yêu cầu toàn bộ nhân viên quân dịch phân phát đao thương, chuẩn bị lên thành chi viện khi có yêu cầu.
Dương Lăng đứng ở một bên trợn mắt há miệng mà nhìn. Nói thật, mấy ngày nay ngày nào cũng thay Mẫn huyện lệnh xử lý sự vụ lớn nhỏ, Mẫn huyện lệnh giống như là con rối, cho nên tuy là cảm kích ân tri ngộ của lão ta, nhưng tự đáy lòng y lại xem thường lão, không ngờ lúc này lão lại xử lý chiến sự đâu vào đấy.
Văng nước miếng tứ tung điều khiển tất cả xong xuôi, Mẫn huyện lệnh mới thở ra một hơi. Chỉnh đốn lại quan phục, lão chạy ra phía sau quát lớn:
– Khôi giáp, đại đao của lão tử đâu, mau lấy ra đây!
Nói đoạn xoay đầu liếc Dương Lăng và Hàn Ấu Nương đang đứng sau lưng, cười nói:
– Mẹ nó, năm nay sợ là không dễ qua rồi. Cái đám Thát Tử này tranh thủ đến cướp ngay trước đêm giao thừa, chắc là do đông năm nay tuyết lớn làm chết quá nhiều dê bò, bọn chúng mà không vét cho đủ ăn đủ dùng thì sẽ chẳng bỏ đi đâu.
Lúc này hai tên gia bộc, một tên bê bộ tỏa tử giáp (1), một tên vác thanh đại đao chạy ra. Vì đây là huyện bậc ba, điều kiện gian khổ, Mẫn huyện lệnh chưa mang theo vợ con bên người, cho nên ngày thường hầu hạ lão là mấy tên gia bộc này.
(1) áo giáp hợp lại bằng những vòng kim lại xen vào nhau, còn gọi là giáp xích (xem hình http://imgsrc.baidu.com/baike/abpic/…53f724e421.jpg)
Cũng không xem mình như người ngoài, Mẫn huyện lệnh cởi luôn áo bào quan văn, thay y phục ngay tại đại sảnh. Hàn Ấu Nương thấy vậy vội vàng lui sang phòng bên để tránh dị nghị. Giáp trụ chỉnh tề xong, Mẫn huyện lệnh khoác chiếc áo bào quan huyện lên lại, rồi chộp lấy thanh đại đao từ tay gia bộc.
Thanh đao đó e phải nặng đến bốn mươi cân. Mẫn huyện lệnh nâng đao một tay, cổ tay vừa xoay, thanh đại đao nặng trịch trong tay xoay tít một trận, sau đó chém uỳnh xuống đất, khiến cho gạch xanh trên mặt đất vỡ văng tung toé. Dương Lăng trong lòng rúng động, mặc dù biết Mẫn huyện lệnh này xuất thân võ quan, nhưng y không ngờ lão ấy lại có thể sử dụng binh khí nặng như vậy.
Mẫn huyện lệnh cả người vận đồ huyện thái gia, cánh chuồn trên mũ vẫn còn lắc lư mỗi khi đi tới đi lui, nhưng lại vác theo một thanh đại đao sắc bén, trông chẳng ra ngô ra khoai. Lão cũng chẳng chút bận tâm, uy phong lẫm liệt quay ra ngoài sảnh quát:
– Đi! Theo ta lên tường thành!
Một đám nha dịch trong sân tuần tự chạy đến ứng tiếng reo hò, đám người đông đảo rầm rộ xông ra ngoài. Dương Lăng cũng chạy theo ra khỏi nha môn. Bốn chiếc đèn lồng đỏ treo trước cửa nha môn nhẹ lay trong gió tuyết. Lúc này tuyết đã rơi dày hơn, bông tuyết bay lả tả. Đất trời mênh mông, mù mịt.
Mẫn huyện lệnh dẫn theo một đám người đeo đao cầm thương, sải bước xông lên đầu thành (*). Khắp trên các đường phố, dân chúng chạy tán loạn như kiến bò trên chảo nóng; bọn họ cũng chẳng có thời gian để tâm. (*: lầu trên tường thành)
Trên cổng thành phía nam, gần trăm quan binh đang căng thẳng chăm chú nhìn xuống dưới thành. Cổng thành này nằm trấn ngay trên đường quan đạo thông nam bắc, hai cổng đông, tây giáp núi, không thích hợp cho ngựa chiến chạy. Cho dù Thát Tử đến tấn công cũng sẽ khó điều động kỵ binh để công vào hai cổng đông, tây, có thể nói là tương đối an toàn, cho nên mỗi nơi chỉ phái bảy mươi quan binh đóng giữ, do một bả tổng cưỡi ngựa đi lại để tuần tra.
Bả tổng ở cổng thành phía nam đang đứng trên đầu thành quan sát ở phía dưới, mắt thấy huyện thái gia tự thân dẫn người đến thì vội chạy lại, quỳ một gối, hai tay ôm quyền nói:
– Ty chức Giang Bân tham kiến Mẫn đại nhân.
Mẫn huyện lệnh phất tay:
– Miễn đi! Giang bá tổng, Thát Tử đến rồi à?
Giang Bân nhe răng cười, rồi thưa:
– Đại nhân, ánh đèn không soi được đến chân thành nên nhìn không rõ lắm. Có điều từ số đuốc không nhìn rõ của bọn Thát Tử thì ít nhất không dưới trăm tên. Nhưng đại nhân cứ yên tâm, có ty chức ở đây, bọn chúng sẽ không công lên nổi đâu.
Dương Lăng quan sát kỹ người gọi là Giang bả tổng này. Vị Giang bả tổng này tướng mạo cực kỳ anh tuấn, trông cũng phải ngoài hai mươi, vóc người tráng kiện, thần thái nhanh nhẹn dũng mãnh, tựa hồ chẳng chút để tâm đến Thát Tử.
Dương Lăng không khỏi thầm gật gù. Trong ấn tượng trước đây của y, tất cả binh sĩ Đại Minh đều rất nhu nhược, bằng không thì hoàng đế Đại Minh thân chinh thống lĩnh năm mươi vạn đại quân đã không bị thái sư Dã Tiên của Ngoã Lạt dẫn mười vạn đại quân đánh cho tan tác, thậm chí ngay cả hoàng đế cũng bị bắt sống. Y còn cho rằng quan viên Đại Minh khi vừa nghe đến cái tên Thát Tử thì sẽ sợ tái mặt, không ngờ ở đây, một vị huyện thái gia, một vị bả tổng thủ thành lại có dũng khí như vậy.
Mẫn đại nhân cười ha hả, bảo:
– Đi, đi, lên trên xem nào!
Đám người bọn họ bước lên đầu thành, vịn vào ụ thành nhìn xuống, chỉ thấy phía dưới tối om, hơn trăm bó đuốc di động khắp nơi, dưới thành vọng lên những tiếng la hét kỳ quái. Chính giữa thông lộ dưới thành, ngoài một tầm tên, tập trung hơn hai mươi bó đuốc, soi thấy mấy bóng người đang ở phía xa hướng lên trên thành hét hò gì đó. Mẫn đại nhân cười nhạt nói:
– Chỉ trên trăm tên ít ỏi đã muốn chiếm được Kê Minh dịch của ta sao?
Giang Bân chỉ tay về phía hướng đông đằng xa nói:
– Đại nhân, thám mã khi nãy phái đi bị Thát Tử bắn chết một người, người quay về bẩm báo rằng bên phía Nhị Lý Bán có tiếng quân sĩ giáp chiến rền trời, chắc hẳn Thát Tử đang tấn công nơi đó.
Nhị Lý Bán, Ngũ Lý Đài và Tuần La Phố là những quan ải gần nhất quanh Kê Minh; nhưng nếu muốn tiến thêm một bước công kích ải Cư Dung thì nhất định phải từ Kê Minh Dịch đánh vào. Cho nên Mẫn đại nhân vừa nghe mũi chủ công của Thát Tử là nhằm vào Nhị Lý Bán liền hiểu ra rằng lần này bọn chúng lại vì không chịu nổi mùa đông giá rét, đã xem Đại Minh như nhà kho của mình mà kéo đến cướp bóc lương thảo.
Cho nên mục đích của bọn Thát Tử dưới thành chín phần mười là chặn cổng thành, đề phòng trong thành phái viện binh đi cứu Nhị Lý Bán. Đã hơn hai năm không động đao thương, hai tay Mẫn Văn Kiến đã ngứa ngáy lắm rồi, nên vừa thấy bên dưới Thát Tử phi ngựa quanh tường thành la hò những câu vô nghĩa thì sướng rơn. Lão quay đầu bảo Giang bả tổng:
– Giang bả tổng, chuẩn bị cho ta một thớt chiến mã, phái bốn mươi người theo ta ra ngoài thành đánh lui bọn Thát Tử.
Giang bả tổng cũng đã sớm muốn xuất chiến một trận, chẳng qua chưa có mệnh lệnh của thượng quan nên không dám vọng động, nên vừa nghe phân phó thì lập tức mừng rỡ, vội quát thủ hạ:
– Người đâu, dắt hai con chiến mã đến đây, cung thủ trên thành chuẩn bị! Lưu, Lý, hai vị đồn trưởng hãy dẫn quân theo đại nhân và ta xuất chiến!
Dương Lăng thấy bọn họ chỉ dẫn bốn mươi người đã dám xuất thành thì rất đỗi kinh ngạc. Vương bộ đầu ở cạnh bên vốn là thân binh của Mẫn đại nhân lúc còn trong quân đội, thấy vẻ mặt kinh ngạc của Dương Lăng thì cười ha hả nói:
– Xem ra Dương sư gia chưa thấy qua thần dũng của Mẫn đại nhân rồi. Đại nhân vốn là Thiên tổng dưới trướng của quan tổng binh Đại Đồng Đỗ đại nhân, võ nghệ siêu quần. Trước đây khi tiêu diệt sơn tặc, đại nhân chỉ dẫn nhân mã một đồn thì đã giết cho hơn trăm tên sơn tặc của Ngưu Đầu sơn phải trốn lủi vào trong rừng. Lần này nhất định sẽ kỳ khai đắc thắng (thắng ngay trận đầu).
Hai kỵ binh và bốn mươi tiểu binh xông ra thành nghênh chiến với những kỵ binh Thát Đát cưỡi chiến mã to lớn đó? Trong lòng Dương Lăng có chút bất an, song ngẫm lại, cây đại khảm đao nặng bốn mươi cân bị Mẫn huyện lệnh sử dụng dễ dàng như không, mà đại đao này lúc vung lên nào chỉ một, hai trăm cân; một thân võ nghệ đó hiển nhiên là bất phàm, cho dù địch không lại có lẽ cũng sẽ không gặp nguy hiểm gì, lúc này y mới có chút yên tâm.
“Két két”, cổng thành bên dưới đã mở ra. Tòa thành nhỏ này không hề có luỹ hào bảo vệ, cũng không có cầu treo. Trên thành, hai mươi tay cung thủ giương cung lắp tên, thủ thế đợi sẵn. Dưới thành Mẫn đại nhân cùng Giang bả tổng dẫn bốn mươi quan binh xông ra khỏi thành.
Trong bốn mươi tay tiểu binh có hai mươi đao thuẫn binh, hai mươi trường thương binh, phân ra hai bên tạo thành hình cánh nhạn. Giang Bân ghì cương chiến mã, đang muốn lớn tiếng kêu gọi bọn Thát Đát cách một tầm tên đầu hàng, thì Mẫn đại nhân đang một tay cầm cương, tay cầm đại đao thong thả đi trên đường đột nhiên hét lên một tiếng rồi quát lớn:
– Đầu lĩnh quân giặc xâm phạm biên giới hãy mau đến đây chịu chết dưới đao của ta, xông lên!
Nói đoạn vung đao qua đầu đánh vù một tiếng, hai chân thúc ngựa phóng như bay về phía hơn chục tên Thát Đát khoác nghiêng da thú, lưng đeo cung tên ở phía trước.
Giang Bân mắt thấy mà trợn ngược. Y biết vị Mẫn đại nhân này vốn là một Thiên tổng nổi tiếng dưới trướng tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc. Đỗ tổng binh xưng là Đỗ Phong Tử (*), khi lâm trận giết địch chẳng màng đến mưu lược chiến trận gì, càng chẳng biết gì về phối hợp nhiều loại binh chủng, thông thường địch ta đôi bên vừa chạm trán liền đều lập tức dẫn quân ùa vào đánh như ong vỡ tổ, thành một vòng hỗn chiến. Tay lão cầm một thanh đại khảm đao sống dày nặng sáu mươi cân, chưa mấy ai có thể ngăn được lão ta, quả đúng là “người cản giết người, phật cản giết phật.” Có điều hai quân đối chiến thì không phải cứ cá nhân làm ra vẻ anh hùng là đã có thể quyết định được thắng bại. Lão ta tuy là hiếu chiến, tự tay giết chết Thát Đát rất nhiều, nhưng lúc nào cũng đều là thua nhiều thắng ít, mỗi khi bại trận thì lấy đao chém vào khôi giáp để phát tiết. Không ngờ tác phong vị Mẫn huyện lệnh này lại giống với tổng binh đại nhân của lão ấy như đúc. (*: lão Đỗ điên)
Giang Bân cuống cả lên, nếu Mẫn huyện lệnh mà có mệnh hệ gì thì y có mười cái đầu cũng không đủ chém, thế là lúc này cũng bất kể thủ hạ đều là bộ binh, lập tức vung đao quát lớn:
– Theo đại nhân, giết cho ta!
Giang Bân này khoẻ hơn người, lại giỏi thuật cưỡi ngựa, sử dụng hai thanh trảm mã đao dài ba thước, hai tay cầm đao, chỉ dùng chân để điều khiển ngựa, điên cuồng đuổi theo huyện thái gia Mẫn Văn Kiến.
Bốn mươi tiểu binh thấy vậy đành phải ra sức đuổi theo sau đít ngựa. Đêm khuya đường trơn, tuyết phủ dày đặc, trong khoảnh khắc đã không còn bóng dáng đội hình gì nữa, trở thành một đám binh lính mất chỉ huy.
Trái lại, Huyện thái gia cưỡi một con ngựa tốt, nên chỉ trong chốc lát đã chạy hết khoảng cách một tầm tên. Lão thả lỏng dây cương, hai tay nhấc đao, như một cơn lốc đánh thốc về phía gã thanh niên tầm hai mươi tuổi đang được đám người vây quanh. “Cầm tặc tiên cầm vương” (*), vị huyện thái gia nghèo chữ này vẫn biết cái đạo lý đấy. (*: Bắt giặc trước hết bắt vua)
Dưới ánh lửa của ngọn đuốc, gã thanh niên đó vận một chiếc áo khoác bằng da hổ, vai đeo cung, tay cầm một thanh trường thương vắt ngang qua yên ngựa. Sứ mệnh của hắn chính là gây rối trú quân trong thành, hù doạ bọn họ, ngăn không cho bọn họ xuất thành cứu viện quan binh của trạm dịch Nhị Lý Bán. Nhiệm vụ này có thể nói là hết sức nhẹ nhàng.
Vừa đến dưới chân thành, hắn liền phân phó thủ hạ mỗi người cầm hai bó đuốc, phi ngựa khắp các khu đất xung quanh, phô trương thanh thế để doạ dẫm, còn bản thân hắn thì đứng ở chỗ này lớn tiếng chửi mắng. Trước đó hắn cũng đã biết sơ về quân thủ thành ở nơi này, ước đoán rằng quân phòng thủ trong thành không nhiều, chủ quản huyện lị lại là quan văn, dưới thanh thế như vậy tuyệt sẽ không dám ra thành nghênh chiến, cho nên đã có chút lơ là.
Cũng phải nói là hắn xui xẻo, hôm nay đụng phải lão huyện lệnh điên dưới trướng của lão tổng binh Đại Đồng điên, không những ra thành nghênh địch mà còn đơn thương độc mã nhào tới đánh. Vì vị tướng lĩnh Thát Đát này đứng cách cổng thành một tầm tên, mà binh sĩ thủ hạ Mẫn Văn Kiến vừa ra khỏi thành liền lao vào đánh, thậm chí đuốc cũng chưa châm, cho nên đứng ở đây hắn không hề hay biết quan binh đã rời thành. Tuy là Mẫn huyện lệnh có lớn tiếng quát ở dưới thành, nhưng vì khi đó hắn cũng đang rống họng chửi mắng quan binh trên thành cho nên không có nghe thấy, còn cho rằng quan binh Đại Minh trên thành đang chửi lại.
Lúc này tuyết rơi ngập trời, Mẫn huyện lệnh cưỡi ngựa đen, vận chiếc quan bào màu xanh, hoà cùng một khối với màn đêm. Vó ngựa tuy nhanh nhưng khắp nơi đều là kỵ binh Thát Đát đang thoả sức phóng ngựa phô trương thanh thế, cho nên bọn chúng lại càng không để ý. Mãi đến khi Mẫn huyện lệnh xông đến trước mặt, hai tay giơ đao, đánh thẳng vào trong đám người, thì lúc này, thấp thoáng dưới ánh lửa của hơn chục bó đuốc, bọn chúng mới nhìn rõ được kẻ này là người của Đại Minh.
Một bên thì không chút chuẩn bị, một bên thì phóng ngựa như bay, đến lúc phi đến gần thì gã thanh niên khoác áo da hổ đó mới kinh hãi trợn tròn đôi mắt. Chỉ thấy trước mặt một người đang cưỡi ngựa phóng đến, người trên lưng ngựa vận áo bào quan văn Đại Minh, thấy rõ trước vạt chiếc quan bào đó thêu một con chim nhỏ màu vàng đang giương cánh. Trên đầu người này còn đội một chiếc mũ ô sa, hai cánh chuồn lập loè lắc lư hết cỡ, song nhờ tính đàn hồi cực tốt mà vẫn chưa bị đứt rời.
Vị quan văn trên ngựa này mặt đen xì xì, cặp mắt bé xíu trợn tròn, râu quai nón đầy cả mặt, hai tay giơ cao lên trời, tạo nên một tư thế kỳ quái.
Ngựa phi nhanh như chớp, mấy chục tên Thát Đát nhất thời không kịp phản ứng, đến khi hai cánh tay ở tư thế quái dị đó nhằm vào vai đeo khố của gã thanh niên vận hổ bào bổ mạnh xuống, thì lúc này, dưới những ánh lửa rọi sáng một khoảng trời, bọn chúng mới phát hiện trong tay vị quan văn Đại Minh này đang cầm một thanh đại khảm đao sắc bén.