Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 186: Hồi Ba Mươi Chín: Mùa mưa màu Nắng (a)



Sau giờ tĩnh tâm cùng Giáo dân ở nhà thờ, Ignacio Cường và Stephen Đoàn sóng vai nhau về lưu xá nghỉ ngơi. Biết Cha Sở rất thích bông giấy nên Giáo dân đã phủ kín mái nhà bằng sắc-hoa mỏng manh và đầy gai này; chưa kể đến, để cho hai Cha tiết kiệm được chút tiền, những hộ giàu có trong xứ hùn nhau lắp pin mặt trời trên nóc; số điện còn dư sẽ câu tới những hộ khó khăn và cơ cực.

Trước lúc lên lầu tắm rửa, thay sang đồ mát và súc miệng, Cha Sở và Cha Phó ghé thăm những nhà đang kẹt tiền hoặc có người ốm đau dai dẳng, không chỉ để hỏi han và thực hiện Bí Tích Xức Dầu Cho Bịnh Nhân mà còn giúp họ ghi danh đặng tham gia các chương trình tế-bần sắp tới. Thời hiện đại mà rất nhiều người ở đây còn xài đèn dầu, làm người ta dễ liên tưởng bản thân đang ở trong một cái xóm nào đó mà nhà văn Hồ Biểu Chánh đã từng viết ra. Những đứa nhỏ đói ăn mừng rơn đón lấy những bịch kẹo “nhiều loại vô một” xuất xứ Hoa Kỳ, không quên khoanh tay cảm ơn hai chàng rối rít; sẵn đây cũng xin kể chơi, nhằm tăng mức bán hàng, nhiều hãng đồ ngọt đã hợp tác với nhau như vầy: Thay vì mỗi hãng chỉ bán sản phẩm của mình như trước đây, thì bây giờ các hãng ấy lại bán chung các sản phẩm với nhau theo kiểu bỏ bịch lộn-xộn, thí dụ như một bịch bao gồm kẹo M&M, Snicker’s, Reese’s, Hershey’s, Sour Patch Kid,… – mỗi loại được đóng gói thành nhiều phần và mỗi phần đựng trong bao bì cỡ nhỏ hình chữ nhật ngang, bề dài ước khoảng hơn ngón tay trỏ một xíu và bề rộng ước độ bằng ngón tay út.

Ngang qua một căn nhà hãy còn sáng đèn, tiếng hát của Khánh Ly trong bài “Lời ở phố về” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã làm hai chàng Giáo sĩ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế ngừng bước. Những bài đáng để nghe nhứt của cụ thì chìm nghỉm, và đây là một trong số đó.

Trở về lưu xá, mỗi người tạm chia tay nhau mà về phòng vệ sinh thân thể. Lát nữa hai đứa sẽ xuống nhà sau nói chuyện.

Bữa cơm trễ của hai chàng chỉ có tô canh mỳ-gói và dĩa khô cá-dứa chiên giòn.

Ăn đâu được vài đũa, Ignacio Cường sực nhớ có chuyện cần nói với Thanh Liên nên bấm số điện thoại gọi liền cho anh bạn.

Xong bữa cơm rồi, Thanh Liên mới hồi âm. Lúc bấy giờ trời đã khuya lắc khuya lơ, trăng đã ngả về Tây, sương giăng cùng khắp xóm Đạo hiền hòa.

– Sadhu.

– Tôi muốn hỏi anh rằng tại sao lại đưa cho tôi một thí dụ trớt quớt?

Thanh Liên cười đáp:

– Tôi muốn xác quyết anh có thật lòng muốn trao đổi chuyện đức tin với tôi không.

– Bây giờ cho tôi thí dụ chính xác được chứ?

– Để lần sau đi anh…

Ignacio Cường thở dài.

– Bữa nay tôi đọc được một dữ kiện khá thú vị nhưng không thể tin nổi, rằng ông Steve Jobs theo Đạo Phật.

Y-Nhã Cường tròn mắt hỏi:

– Cái ông sáng lập ra hãng “Trái Táo” đó hả?

– Ờ. Tôi nghĩ là có sự lầm lẫn ở đây…

– Vậy nếu tin đó chính xác thì sao?

– Thì có sao đâu. Ai có duyên với Đạo nào thì gắn kết với Đạo đó. Chỉ vậy thôi.

Stephen Đoàn cẩn thận rửa từng món một. Bây giờ anh đã biết cách rửa chén mà không bị bể hay sứt-mẻ.

– Anh nghĩ sao về việc Thầy tôi nói diễn viên đóng Hoàng tử Ai Cập không nên là người Châu Phi?

– “Ý tại ngôn ngoại”.

– Nghĩa là sao? – Y-Nhã Cường vừa nói vừa cầm chai nước xịt kiếng lau bàn ăn.

– Vốn dĩ Ai Cập nằm giữa Bắc Phi và Tây Á nên hình tướng của người dân xứ đó khác hoàn toàn với người ở rặt Châu Phi, thành thử Thầy anh nói như vậy là đúng rồi.

Ý của Thầy anh không phải là về địa lý mà là về hình tướng sắc dân.

Ngay cả bản thân Đấng Thế Tôn gốc ở Nepal nhưng thường được chạm khắc theo hình tướng Ấn Độ nhiều hơn. Thành ra, nếu để cho diễn viên đóng vai Ngài ấy, nên chọn người Ấn Độ thì tốt hơn.

Ignacio Cường gật đầu:

– Anh thấy đó, “Ý khởi đầu các Pháp…”, bụng mình nghĩ một đằng, cái miệng mình nói quá vắn tắt, thì người nghe sẽ hiểu theo nghĩa khác. Do vậy, trong những bài Kinh Theravada, Đấng Thế Tôn thường nói rất dài dòng và lặp đi lặp lại một ý, không ngoài mục đích là hạn chế cho chúng sanh hiểu lầm lời Ngài. Nhưng mà anh thấy đó, thời nay vẫn diễn giải sai lời dạy của Ngài đó thôi.

– Hèn chi mà anh cũng vậy.

– Ừ. Nói quá trời nói mà vẫn bị hiểu lầm.

Stephen Đoàn đã rửa chén xong, anh bèn xách hai bịch rác đi đổ.

– Anh có biết trước đây màu xanh nước biển được quy định cho Quỷ dữ và màu đỏ là cho Thiên thần không?

Ignacio Cường nhíu mày

– Tôi nghĩ anh nên coi bộ phim tài liệu “How the Devil got His horn?”.

Ignacio Cường gật đầu.

– “Money can’t buy a class”, hồi mới qua đây ở tôi không hiểu nghĩa câu này, sau mới biết “Tiền bạc không thể mua được đẳng cấp.” Một câu nói nhằm biếm nhẽ những kẻ trọc phú, hay còn gọi là “Trưởng giả học làm sang” hoặc ỷ mình có tiền mà hành xử sai trái.

– Chân Tâm thấy ít nói hơn anh.

– Ừm, ảnh trầm tính lắm. Nhưng hễ anh chịu ngồi xuống bàn luận là coi như ba kiếp mới ngừng được.

Bên phía Thanh Liên vọng qua tiếng cú kêu. Vượn ngày xưa vùng này hú nhiều chứ thời nay chẳng còn mấy con.

– Muốn biết sự sai lầm và tham vọng độc tài của một người lãnh đạo đất nước có thể dẫn đến hậu quả kinh khủng ra sao thì anh có thể nghe bản “Moscow is calling” do Fancy trình bày.

– “Trên hoang tàn đổ nát”. – Ignacio Cường thở dài.

Thanh Liên đang bước ra ngoài. Ignacio Cường nghe thấy tiếng bước chân rất khẽ của người bạn và âm thanh mở các lần cửa. Và tiếng cú kêu ngày một rõ hơn.

Ignacio Cường hỏi:

– Anh nghĩ thế nào về hợp pháp hóa mại dâm?

– Không thể mượn cớ họ tự nguyện làm nghề để dễ dàng hợp pháp mại dâm. Nhiều người ủng hộ luận điểm này lấy Thái Lan ra làm dẫn chứng, vậy họ có sẵn đó mà đọc luôn câu chuyện về nạn buôn bán người và bắt trẻ em đi hành nghề không? Số người tự nguyện thực sự bao nhiêu, số người vì hoàn cảnh phải vô nghề là bao nhiêu, và số người bị ép phải hành nghề nhưng ngoài miệng vẫn phải gắng gượng nói mình tự nguyện là bao nhiêu? Giải quyết được ba câu hỏi trên rồi hẵng nghĩ tới chuyện hợp pháp hóa mại dâm.

Ngoài ra, về vấn đề luân lý, dẹp Giới luật hay Điều răn qua một bên luôn, chỉ nói về luân lý xã hội thôi. Có người vợ nào chấp nhận chồng mình đi kiếm gái vì mình đang bầu bì không? Và có người chồng nào chấp nhận vợ mình đi tìm trai vì mình đi làm ăn xa không? Đối với người độc thân, chuyện giải quyết rất đơn giản mặc dầu vẫn rất nguy hiểm vì tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm các bịnh tình dục…

Câu cuối cùng không được Thanh Liên nói nữa, có lẽ người bạn của Đức Cường không muốn nói về chuyện quan hệ tình dục nên đã im lặng.

Ngừng một lúc khá lâu, Thanh Liên mới trình bày thêm:

– Tiếp, hợp pháp hóa mại dâm có thể tạo ra “Đại dịch phá thai, giết chết – bạo hành con ruột và bỏ rơi trẻ em”. Má tôi đã từng coi một bộ phim kinh dị Thái Lan tên là “Sop Dek 2002”, dựa trên một sự kiện có thật bên bển; 2002 là con số xác thai nhi bị phát hiện ở một ngôi chùa, hai người gác chùa đã thông đồng với nhau và móc nối với chỗ phá thai chui để kiếm tiền từ việc phi tang tử thi.

Ở bên mình, chưa hợp pháp hóa mại dâm mà tỷ lệ phá thai và bỏ mặc con đẻ đã rất cao rồi, anh nghĩ nếu hợp pháp thì sẽ tăng lên hay giảm xuống đây? Chẳng lẽ lại bắt người hành nghề triệt sản tạm thời?

– Đâu có được, như vậy là vi phạm nhân quyền, họ muốn ngừa chặt chẽ hay ngừa thoáng qua là quyền của họ, mình dùng luật tác động lên thân thể của họ là đụng tới vi hiến rồi.

– Nhưng nếu họ chiều khách, không ngừa cái gì hết, thì hậu quả sẽ ra sao?

Rồi Thanh Liên lại tiếp:

– Tôi còn nhớ có một bộ phim Nhựt Bổn có tên tiếng Anh là “Nobody Knows”, dựa trên một câu chuyện có thật bên bển, nói về một người đàn bà phóng túng đã bỏ mặt bầy con tự sanh tự diệt suốt chín tháng trời, và hậu quả là đã khiến hai trong số những đứa trẻ đã chết và những đứa còn lại bị ảnh hưởng tâm lý nặng nề.

– Những người ủng hộ hợp pháp hóa mại dâm cho rằng những xứ văn minh đều làm vậy, anh nghĩ sao?

– Nevada là tiểu bang duy nhứt trên đất Mỹ hợp pháp hóa mại dâm. Cho nên đừng nói xứ người ta văn minh nên đồng ý chuyện này, thành ra mình cũng nên làm y chang vậy, đó là lý luận cùn. Mới đây thôi, một số tiểu bang và địa hạt đã bác bỏ việc hợp pháp hóa mại dâm ở nơi của họ.

– Ở bên Mỹ có bắt mại dâm chui không anh?

– Cái này là dựa trên sự hiểu biết của tôi nha, chỉ nên tham khảo cho vui chứ đừng đặt lòng tin.

– Rồi.

– Thường khi nào vụ mại dâm đó dính líu với viên chức chánh phủ trong và ngoài nước hoặc tài phiệt cộm cán có dấu hiệu “đi đêm” với viên chức chánh phủ trong và ngoài nước, họ mới làm rùm-beng lên; còn những vụ lẻ tẻ và đi khách bình dân, hầu như báo đài bên đây ít có ai lên tin.

Coi như là họ chừa đường sống cho những người hành nghề mại dâm vậy.

– Còn tội nào mà họ sẽ thay đổi tên tuổi không?

– Loạn luân. Nhằm để bảo vệ danh dự và giúp nạn nhân dễ hòa nhập với xã hội. Nhiều trường hợp, ngay cả hung thủ cũng được lấy tên giả luôn, mục đích như tôi đã nói ở trên là để cứu nạn nhân. Báo chí không được quyền tung hình ảnh thật của nạn nhân, và tuyệt đối cấm ghi địa chỉ mà nạn nhân đã từng ở và đang ở hay tên tuổi thật của nạn nhân – nhiều nơi còn cấm ghi luôn tên tuổi thật của hung thủ.

– Bên mình chưa rõ ngọn ngành mà đã đăng bài búa lúa xua.

– Ở bên Mỹ: Một là người viết đi tù và Hai là bị phạt tiền. Hình phạt thứ ba rất dễ xảy ra là bị cấm hành nghề.

Ignacio Cường thở dài.

Thanh Liên vừa phủi tảng đá trước khi ngồi xuống vừa nói:

– Những người ủng hộ hợp pháp hóa mại dâm khi gặp người phản đối họ sẽ chụp cho nhóm đó những câu nói hết sức phiến diện, “Đạo đức giả”, “Tại hổng có tiền nên mới bày đặt thanh cao”, “Thử cho không coi mày chịu hôn”,… Anh muốn bảo vệ quan điểm của mình thì anh phải trình bày luận cứ thuyết phục, chỉ vậy thôi.

– Thực sự ngoài nhóm “Thuyết âm mưu” ra, trên đời này tôi còn ớn nhóm “Đạo đức thật” nữa: Nhóm này hễ thấy ai sống trái ý họ thì đều được họ phong tặng là “Đạo đức giả” hết.

Kết thúc cuộc nói chuyện với người bạn tu sĩ khác Đạo, Thanh Liên xuống nhà sau đi giải.

Hoàng Kỳ đang súc miệng ở trỏng. Má của Trì Thương tặng cho một lố “Sensodyne”, một trong số đó là “Sensodyne – Natural White with Coconut Derived Charcoal” – loại này được nhiều người khuyến cáo không nên xài nhiều vì dễ bị vàng răng.

Hoàng Kỳ vừa bước ra vừa nói:

– Tối mà không súc miệng là ngủ không ngon xíu nào.

Thanh Liên vừa bước vô vừa nói:

– Bây giờ đông người rồi, nên sang bớt vài người qua bên kia ngủ đi.

Vậy là Hoàng Kỳ, Thủy Diệu, Phá Vân, Phú Lâm và Thiện Sanh sang bên phòng rộng rãi mà ngủ. Những người còn lại sẽ nghỉ lưng ở cái phòng cũ kỹ.

Chân Tâm nói:

– Ngày mơi tụi mình sẽ sửa sang căn phòng này và làm cho nó thoáng khí hơn.

Đoạn Trần cười biểu:

– Không đổi chỗ chắc Hoàng Kỳ và Thủy Diệu không ngủ nổi đâu. Bên kia thuận hướng gió nên mát hơn bên này nhiều.

Thanh Liên bình phẩm:

– Ngày mơi đục thêm hai cái cửa sổ rồi trổ thêm một dàn bông gió.

Đoạn Trần bật cười:

– Ừa, để Kỳ – Diệu làm đi. Hai chả cao mà.

Chân Tâm ghẹo Thanh Liên:

– Lùn như huynh mắc công leo thang.

Ngủ đâu được vài tiếng, Thanh Liên trở dậy rồi vô nhà tắm súc miệng. Kể từ ngày đi tu, anh đã tập được thói quen ngủ ít và hành Thiền nhiều, không bị sự hôn trầm làm cho mỏi mệt và trì hoãn công việc nữa. Ngoài trời lất phất mưa, gió lạnh từng cơn thổi qua hàng chấn-song, làm chàng Tỳ-Kheo phải với tay kéo cửa sổ qua và gài chốt.

Vừa ra khỏi nhà tắm, Thanh Liên đã thấy Trì Thương đứng khoanh tay đợi mình. Mộc Thảo bằng tuổi anh, cũng mồ côi cha như anh, nhưng anh không tìm thấy sự đồng cảm giữa mình và sư đệ bằng người bạn đồng tu Chân Tâm.

Chân Tâm vừa gấp mền vừa thông báo:

– Tụi mình sắp có thêm một sư đệ nữa. Người kia chừng nào ra tù thì sẽ tới nhập môn.

– Vậy hả? – Thanh Liên bình thản đáp.

– Sáng mơi tụi tôi sẽ đi khất thực ở Ngọa Long Sơn, Thầy có đi chung không?

– Có. Nếu không có ai cho, thì tôi sẽ lo cơm cho mọi người.

Trì Thương chắp tay mà nói, “Sadhu.” Thời buổi kinh tế khó khăn, thất nghiệp tràn lan, tin doanh nghiệp phá sản mỗi ngày đều có, bất động sản chết đứng như Từ Hải, nhà mướn – nhà thuê trông mòn con mắt mà không thấy ai đoái hoài. Vậy thì được mấy ai dư mà cho hơn chục phần cơm?

– Vùng Cô Tô này sẽ chẳng còn bình yên được đâu… – Trì Thương đưa mắt ngó ra khoảng sân mưa mù trắng đất.

Thanh Liên xác nhận lại:

– Họ dám mạo phạm nơi đây ư?

– Tôi với Thầy biết, nhưng không muốn nói rõ…

– Sadhu.

Kế, hai Thầy – trò lên Chánh Điện tọa Thiền. Trời càng về sáng, mưa càng dữ dội, sấm chớp bủa giăng thinh không cao vợi, đôi con vạc ăn đêm dớn dác tìm nơi trú ẩn và may sao chúng phát hiện cửa sổ nơi gian Chánh Điện không đóng nên nhân đó chui qua đụt dông – chẳng mấy chốc gian Chánh Điện đã có những mười con vạc gầy gò.

Chân Tâm cũng đã thức dậy. Anh xuống nhà sau lót bồ-đoàn hành Thiền. Không có cái bóng đèn nào được anh bật lên. Anh để sự Vô Minh bên ngoài thắp sáng sự Giác Minh bên trong. Đôi lúc ánh chớp hắt lên gương mặt anh, làm đôi mắt anh bị chói và đôi lông mày anh bị nhíu, nhưng đó chỉ là phản ứng sinh lý bình thường, không thể làm ảnh hưởng đến Thức mà anh đang gìn.

Duy Hảo, Đoạn Trần và Châu Lợi cũng kiếm một chỗ hành Thiền. Mưa này ngày mai mấy người chạy xe ôm sẽ ế khách vì đường sình lầy rất nguy hiểm nên ít có khách lên chơi; và nếu tới tám giờ hơn mà mưa không tạnh, họ sẽ không đi khất thực mà ăn trái cây lót dạ qua bữa.

– Kỳ An Cư Kiết Hạ sắp tới rồi. Không biết Thiện Sanh và Hỷ Tín có trụ nổi không nữa. – Đoạn Trần vừa nói vừa đưa mắt ngó về phía bức tường ngăn cách phòng ngủ của họ với gian nhà sau.

Châu Lợi mím môi đáp:

– Không chịu nổi thì hoàn tục. Có mấy tháng ăn kham khổ và không rời khỏi núi chứ nhiêu.

Duy Hảo bật cười. Dù chỉ mới xuất gia có ba năm nhưng cậu đã rèn được “tri túc thiểu dục”, không còn tự nhiên thèm bậy hay để Tâm Ma dẫn dắt đi theo ý nó nữa.

Rốt cuộc, bữa nay Tăng đoàn không đi khất thực. Mưa dầm mưa dề, cây gãy – cành đổ khắp nơi, cứ chốc-chốc là lại nghe trời gầm – sét nổ. Bầy vạc ăn đêm xót con nên mặc kệ dông gió vẫn ráng sức vươn cánh bay về tổ. Không nỡ để chúng chịu đói, Tăng đoàn phải đi theo để phát cá-mòi đóng hộp cho chúng. Trên con đường phóng sanh ấy, nhiều người bắt gặp vài con mèo hoang đi lạc, vậy là họ bèn dừng bước và ngồi xuống để khui cá-mòi cho tụi nó ăn.

Đến chừng trở về tịnh thất, chỉ còn nửa tiếng nữa là hết giờ Thọ Thực, nhưng ai nấy vẫn điềm nhiên làm Lễ đàng hoàng rồi mới xuống bếp kiếm gì ăn được thì nhai đỡ cầm hơi. Bà Ái Liên để lại mấy chai nước xịt phòng còn nguyên-xi, Trì Thương bèn chọn mùi “Febreze Air – Apple Cider”, “Febreze Air – Cozy Campfire” và “Febreze Air Mist – Spiced Apple” mà xịt khắp tịnh thất hòng ngăn muỗi mòng và ruồi, cũng như làm ấm tịnh thất và xông mũi trị cảm cho mình và các huynh đệ.

Qua ngày hôm sau, trời vẫn cứ âm ỉ mưa, bên ngoài dòng họ lưỡng cư kêu vang ầm ĩ, trên không chim mất tổ bay nhào nháo khắp nơi. Những du khách bị mắc mưa đều lên gian Chánh Điện đụt đỡ, người nào người nấy đùa giỡn huyên thuyên không ngớt chuyện, lại sẵn có Wi-fi miễn phí nên ai nấy thi nhau mở máy hết âm lượng, ôi thôi huyên náo khôn cùng!

Châu Lợi từ lúc bị người ta đập bể đầu thì sanh tật ghét ồn ào. Ông lẳng lặng đội mưa mà đi tới hang động náu thân. Theo sau lưng ông là Trì Thương, sư đệ của ông đem theo bó bông mà đôi trai gái kia đã bỏ lại trên mạn đồi; “Còn nắng sau đồi” nhưng tình Ta đã mất…

Ngồi đợi đâu hơn hai tiếng, kế, Duy Hảo đi lại báo tin rằng những người khách nhàn du kia đã lên xe đò về hết rồi, nhưng Châu Lợi và Trì Thương nên nán lại thêm một chút vì gian Chánh Điện và cầu tiêu – nhà tắm chưa được dọn rửa và tẩy uế.

Về phần các Tăng sĩ khác, họ chia nhau lau chùi khắp tịnh thất. Những dấu giày – dép ngập trong sình lầy nên hằn xuống nền nhà những vệt đen dơ không thể tả; đoàn khách ấy cũng không biết điều mà tự bỏ giày – dép trước khi vào cầu tiêu – nhà tắm nên hiện thời hai nơi ấy vừa bầy nhầy vừa tanh tao. Tủ lạnh và bếp nấu cũng bị đoàn khách ấy lục lọi và làm rối tung lên, đến cả rác cũng không biết bỏ vô sọt mà vục đại ra đất. Có lẽ đàn vạc đêm trước còn đáng yêu hơn đoàn khách này.

Thiện Sanh vừa dọn lại tủ lạnh vừa hậm hực nói:

– Mất quá trời đồ luôn. Vô đây đụt mưa hay vô đây phá nhà không biết nữa.

Thanh Liên bật cười. Rồi cúi xuống lượm từng mẩu rác bỏ vô sọt.

– Tháng cô hồn mà. – Phú Lâm pha lửng.

Vừa mới lau xong gian Chánh Điện, mọi người đã nghe thấy tiếng kèn xe inh ỏi.

– Khắc Xương tới. – Thanh Liên đứng ở nhà sau mà ngó lên nhà trên.

Có vẻ thấy mặt sàn gian Chánh Điện chưa khô nên Khắc Xương tính lái xe vòng ra cửa sau để từ cửa này đi vô nhà bếp. Một người bạn của chàng mập Cao Đài nín tiểu nãy giờ sợ xe không ngừng lại nên hoảng hồn la lên. Vậy là chàng mập quyết định chở nó tới khu nhà vệ sinh công cộng để tránh làm phiền người ta phải lau nhà lại từ đầu. Vừa quay bánh-lái, chàng mập vừa cười lớn trấn an thằng bạn đồng Đạo, và an ủi rằng chạy lẹ chút xíu thì chỉ mất không quá mười lăm phút là tới liền.

Thiện Sanh gãi đầu thắc mắc:

– Ủa sao đi nữa rồi?

Chân Tâm kéo tay Thiện Sanh xuống:

– Người ta không muốn khiến mình phải lau nhà lại đó mà.

Độ khoảng nửa tiếng nữa, mới thấy bóng dáng chiếc xe “Hummer – H3” của chàng mập ở sau hè. Hai người bạn của Khắc Xương xuống trước, mỗi người xách theo một cái giỏ đệm đựng đầy nguyên liệu đã qua sơ chế và rửa sạch, trên vai mỗi người quải một cái ba-lô màu xanh lam có thêu biểu tượng của Đạo Cao Đài.

– Khô rồi, vô đại đi, các vị. – Đoạn Trần vừa nói vừa chỉ xuống tấm thảm giậm chân.

Lần lượt từng người bước lên đó giậm khô giày ướt, rồi mới xách giày gác lên trên kệ và đi chân không. Khắc Xương tưởng đâu còn nước uống nên hấp tấp mở tủ lạnh ra kiếm, rồi chưng hửng khi thấy tủ lạnh trống trơn như vừa mua về ở cửa hàng điện máy.

– Cô hồn sống lấy hết rồi. – Thiện Sanh vừa nói vừa lắc – lắc đầu.

– Sao tham dữ vậy? Còn mấy kết nước ngọt mà?

– Ờ.

Thấy sắc mặt tiu nghỉu của Khắc Xương, Thanh Liên che miệng cười chúm chím rồi nói:

– Cũng may trong thơ phòng còn một cái tủ lạnh nữa. Ban nãy khóa cửa nên họ không chồm-hôm được.

Khắc Xương hớn hở nhờ Thủy Diệu mở cửa cho mình vô lấy. Hai người bạn của chàng ta cũng hăm hở nối gót theo sau.

Chừng trở ra, Khắc Xương ôm mấy lon nước tăng lực “3D” loại “Galaxy Lime” và một bình đá viên đầy nhóc. Còn hai người kia thì xách mấy cái ly mủ và bánh trái cất ở trỏng.

Lại một lần nữa, Hoàng Kỳ thay Trì Thương mà đi xịt khử mùi khắp tịnh thất. Bữa nay chàng Tăng sĩ da đen chọn “Febreze Air – Heavy Duty Crisp Clean Air Freshener”, dẫu nhà cửa hôi hám đến đâu xịt vài phát là tẩy uế liền, tịnh thất bây giờ chỉ có chai này trị là hữu hiệu nhứt mà thôi.

– Công nhận cao có lợi ghê. Chỉ cần kiễng chân và giơ tay lên một chút là xịt tới trần nhà luôn rồi. – Phú Lâm vừa nói vừa làm động tác đo chiều cao giữa mình và người bạn đồng Đạo.

Khắc Xương ̣đổi đề tài:

– Bữa nay tôi sẽ thết đãi các Thầy và Sa-di một bữa bún bò Huế chay. Bảo đảm không ngon không trở lên đây nữa đâu.

Tăng đoàn thảy đều chắp tay mà nói, “Lành thay… Lành thay…”

Nấu bún bò Huế chay mượn rau cải làm nước lèo nên chỉ mất không quá vài tiếng là hoàn thành. Nhưng do sợ trễ giờ Thọ Thực nên Khắc Xương nấu nước lèo sẵn ở nhà rồi cho vô lon thiếc, thành thử giờ đây chàng ta chỉ cần pha loãng với nước và nấu lại độ khoảng nửa tiếng là cùng. Những món ăn chính trong bún bò như bã-đậu, mì-căn, chả-chay và một số dạng đậu hũ khác cũng chỉ mất chừng hơn nửa tiếng là nấu xong. Ngoài ra, món bún nước của ba chàng Cao Đài sẽ ăn kèm với những món đồ bổi khác như cà-rốt, hành lá, giá, rau muống, bắp chuối, xà-lách, nấm đùi gà, nấm đông cô, rau quế,…

– Bắp cải, bắp chuối với rau muống tụi tôi mua ở chợ Long Xuyên; sợ bào sẵn sẽ bị thâm đen nên lên đây mới làm. – Minh Thuận vừa nói vừa chế thêm muối biển mua ở Bạc Liêu vô thau rau muống.

Thanh Liên góp ý:

– Bào xong vắt nước cốt chanh là sẽ trắng thôi.

– Ờ, có mua chanh luôn nè. Chanh-giấy thơm lắm. Pha nước uống giải cảm cũng hay nữa.

Nhờ cất thêm hàng ba nên mọi người có thể quây quần với nhau mà không bị ngột ngạt, chật chội. Khắc Xương, Minh Thuận và Gia Huy mau lẹ bày mâm sắp chén; Thanh Liên ăn ít nên chỉ múc một tô nhỏ, còn Hoàng Kỳ, Thủy Diệu, Phá Vân, Thiện Sanh và Duy Hảo ăn khỏe nên được múc nhiều hơn.

– Trời, nấu gì thơm quá vậy mấy Thầy, cho tụi tôi ăn ké được không?

– Vô ngồi luôn đi, Chí – Hòa. – Chân Tâm chỉ xuống phía cuối bàn.

Khắc Xương hỏi:

– Tên gì mà muốn định cư dài hạn trong trỏng vậy?

Chân Tâm trả lời:

– Không muốn khai tên thật thì tôi đặt cho mật danh đặng dễ bề hoạt động.

Gia Huy lè lưỡi:

– Tên gì mà có điềm đi nghỉ mát quá.

Minh Thuận cười hỏi:

– Ai Chí – ai Hòa?

– Thằng Bắc Kỳ này tên Chí. Còn tôi tên Hòa. Thiệt ra tên thật của nó là “Trí” chứ không phải là “Chí”…

– Còn mày tên thiệt là “Hiệp” chứ đé* phải tên “Hòa”, thằng…

Lời chưa nói xong đã bị Thanh Liên cắt ngang:

– Sau này có lên đây tu, Hiệp sẽ lấy pháp hiệu là “Vĩnh Khánh”, còn Trí sẽ lấy pháp hiệu “Tuệ Khanh”.

Trí bật cười:

– Nghe pháp hiệu xong thèm bánh Trung Thu với lẩu băng chuyền ghê ta ơi.

Hiệp hỏi:

– “Vĩnh Khánh” có nghĩa là gì?

– “Vĩnh viễn gióng lên hồi chuông Giác Ngộ”. Và “Tuệ Khanh”, “Công hầu – Danh lợi không bằng chứng đắc Tuệ Tâm”.

Trí gật gù:

– Sau này tôi hoàn lương sẽ đặt tên cho thằng cu tên này.

Ông Sáu Diên và thím Huê cũng ghé lại ăn trưa. Bữa nay dông lớn quá nên hai người phải chôn chân ở nhà, kế nghe Trì Thương rủ qua Thọ Thực nên cùng nhau che dù lội qua đây chơi.

– Lát nữa ăn món Tiều tráng miệng. – Thím Huê vừa nói vừa múc thêm một muỗng ớt sa-tế.

Khắc Xương hớn hở hỏi:

– Bánh gì vậy chị?

– Bánh hẹ với bánh lá liễu.

Gia Huy chưng hửng:

– Bánh lá liễu thường đem đi cúng mà chị?

– Ôi… Cúng đâu mà cúng. Thèm thì làm ăn thôi.

Khắc Xương vỗ đùi cái đét:

– Chị nói phải đó. Tùy lúc mà là bánh cúng, tùy lúc là món tráng miệng chớ.

Chân Tâm giơ tay ngắt ngang:

– Xong chưa? Tụi tôi phải làm Lễ trước khi ăn.

Nghe vậy, những người trần thế gật đầu cái rụp.

Giữa bốn bề mưa giăng gieo sầu, tiếng kinh tụng của Tăng đoàn vang lên nghe như vọng về từ cõi uyên nguyên nào đó. Bỗng chốc, Chí – Hòa cảm thấy thân tâm an lạc vô ngần, như vừa được cởi bỏ lớp áo oan nghiệt thế gian và thay thế bằng lớp áo chủng tử Phật-tánh đan từ muôn vạn kiếp mới kết thành được.

Trong giờ Thọ Thực, ai nấy im lặng ăn uống. Ai thích cay nhiều thì tự múc thêm sa-tế, ớt bằm hay ớt xắt. Ai thích ăn chua thì vắt thêm xíu chanh hay chế vô chút giấm – tỏi. Khi không còn bị ngôn từ càn quấy và phiền nhiễu bởi sự vọng động của Tâm, bữa ăn sẽ ngon hơn gấp bội và hệ tiêu hóa cũng sẽ làm việc tốt hơn nhiều.

Sau giờ cơm, Tăng đoàn xuống bếp dọn dẹp và lau chùi. Ba ông đầu rau lên bộ ngựa ngồi chơi và thưởng thức món tráng miệng Triều Châu kèm uống trà chanh-giấy giàu vitamin C. Chí – Hòa và ông Sáu Diên ở lại hàng ba mà quét tước và xịt nước tẩy sàn. Về phần thím Huê, thím lãnh cái tủ lạnh, chuyện làm sạch tủ lạnh thím rành dữ lắm.

Thấy trời đã tạnh mưa, đằng Đông đã lấp ló cầu vồng tam-sắc, mây xám đã tan đi nhiều, nền trời trong xanh đã lộ ra từng mảng, chim chóc cũng đã rục rịch nối đuôi nhau hót véo von khắp nơi, Tăng đoàn Theravada, cư sĩ bổn Đạo và ba chàng cư sĩ Cao Đài tới hang động quen thuộc để hành Thiền tĩnh tâm.

Còn lại thím Huê và Chí – Hòa, thím ngó hai con quỷ mà cười biểu:

– Chị mày vô nghề từ cái hồi hai đứa bây còn chưa được thụ thai, nên tao biết thằng nào đang bày mưu tính kế – thằng nào không.

Hòa nhếch miệng hỏi:

– Vậy sao bà bỏ nghề?

Thím Huê đưa mắt ngó đôi bướm vàng đang chập chờn bay trên khóm hải đường không hương mà rằng:

– Cái thằng chống lưng cho tụi tao bị tử hình vì tội tham nhũng rồi. Tụi tao biết trước sẽ bị trả thù nên mỗi đứa thức thời mà tự bay đi một phương.

Chí trầm ngâm hút thuốc. Ánh mắt hắn tư lự khôn cùng.

Thím Huê chợt xòe tay mà hỏi:

– Cho miếng thuốc hút coi.

Chí đưa thuốc, còn Hòa mồi thuốc. Hút đâu được vài bụm, thím Huê ném tàn thuốc xuống đất và nhăn mặt nhíu mày, tỏ ra hết sức khó chịu.

Chí nhếch miệng cười khinh khỉnh:

– Hút không được mà bày đặt xin.

Thím Huê ký đầu thằng Chí mà phân trần rằng:

– Tao bỏ thuốc mấy chục năm rồi. Giờ hút lại thấy đắng nghét, hết còn ngon.

Rồi chợt người đàn bà cô quạnh ấy cất giọng khuyên lơn:

– Thằng Tín vì tụi bây nên đã chịu sống kiếp câm. Vậy mà tụi bây còn lên đây kiếm chước dụ nó để bắt nộp cho chủ lập công. Tụi bây nghĩ rằng thằng chó đẻ đó không thủ tiêu tụi bây sau khi đã giết thằng Tín sao?

Hòa nói mà như sắp khóc:

– Nếu không phải vì tánh mạng của thân nhân, bà nghĩ tụi tôi sẽ sống thua súc vật như vầy sao?

Thím Huê ngẫm ngợi một hồi, rồi lại khuyên:

– Thôi đi tu đi, tu giả cũng được, ráng làm sao cho tụi kia tin là tụi bây tu thiệt như thằng Tín là thân nhân tụi bây khỏe hà.

Chí – Hòa ngó nhau. Không ai nói cho người kia hay biết sự toan tính trong lòng, vì sợ sẽ bị trở quẻ bất thần.

oOo

Sẵn có thân chủ dưới Kiến Hòa, Khắc Xương rủ hai thằng bạn Cao Đài xuống đó chơi một chuyến. Trước lúc khởi hành, chàng cư sĩ ú nu bỏ một ngày đi rửa xe, thay nhớt, châm thêm nước giải nhiệt, kiểm tra lốc máy cùng động cơ và bơm luôn bốn bánh xe, vì ở dưới không có chỗ nào biết sửa “Hummer” nên chàng ta phải ra sức bảo dưỡng cho chắc ăn.

– Mày đi chiếc này xuống dưới có được không đó Xương? – Gia Huy nhăn mặt hỏi.

Minh Thuận hùa theo:

– Ở dưới toàn “Cây cầu dừa” rồi sao lái?

– Yên tâm đi, nhà con ghệ tao đường vườn nhưng rộng lắm, một chiếc xe vận tải mười tám bánh còn đi ra – đi vô dễ dàng, huống chi là con voi của tao.

Gia Huy lại tiếp:

– Rồi đem theo đồ nghề sửa xe với vá xe chưa? Lỡ cán đinh một cái là có nước mướn xe cẩu về Sài Gòn.

– Rồi, đem đủ hết rồi.

Trấn an tụi bạn thêm vài câu nữa, Khắc Xương mới cho xe lăn bánh.

Thay vì đi qua cầu Rạch Miễu, thì Khắc Xương lại đưa tụi bạn về xứ dừa bằng bến phà hoài cổ. Ai chê đi phà lâu, chứ đối với anh, nhờ cái lâu lắc này mà anh có thể bình tâm ngắm nhìn sóng nước Tiền Giang và trời xanh giao hòa giữa hai miền đất lành Mỹ Tho – Kiến Hòa. Mây từ bên bờ này sang bên bờ kia, gieo mưa hay gieo thương nhớ, hay gieo những khoắc khoải mà các bậc tiền hiền bỏ lại khi cơ nghiệp chưa thành mà mệnh đời đã cạn…

Bỏ lại chiếc xe sang trọng, ba chàng Cao Đài ra mạn phà mà đứng thảo luận về điểm giống và khác biệt giữa Đạo Cao Đài và Đạo Dừa. Họ chỉ biết điểm giống ở cả hai Đạo là đều đề cao tinh thần hiệp nhứt và hòa đồng tôn giáo, không có sự phân biệt cao – thấp giữa các biểu tượng tôn kính ở mỗi Đạo, cái nhìn chung của đôi bên đều dẫn tín đồ vào con đường khuyến thiện, khuyến học và khuyến nghiệp, cũng như ca ngợi tinh thần dân tộc Việt Nam và mong mỏi thế giới sẽ luôn hòa bình – hết nạn đau thương. Về vấn đề kinh điển, vì Ông Hai – Nguyễn Thành Nam sanh thời chỉ truyền khẩu quyết và không viết sách, lại bị sát hại bất ngờ, nên không có văn tự nào đủ khả tín để nương vào đó mà tạm cho là kinh điển của Ông đặng mà đem ra so sánh với kinh điển của các Đức Bổn Sư đã sáng lập nên Cao Đài – Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Trời chợt kéo mây về làm mưa. Mưa nhè nhẹ bay, không nặng hạt cho lắm. Trời vẫn còn ưng ửng sáng, chưa bị sa sầm bởi thảm mây đen dày. Vầng dương bây giờ trông hiền như một quả cầu sáng, tròn vo, to bằng trái bưởi, nhún nhảy theo đường bay của những cụm mây u ám. Nếu ai chưa từng ở đất miền Tây, hẳn dễ tưởng lầm đây là hiện tượng nhật thực, vì trời đang sáng bỗng đột nhiên tối hù như đêm Ba Mươi, nhưng thiệt ra chỉ là một cơn mưa nhiệt đới quá lớn mà thôi.

– Mưa này mau tạnh lắm. – Một ông già bán tò-he dựa lưng vào lan-can mà nói. Điếu thuốc rê trên tay ông tỏa ra làn khói nồng nồng – hăng hắc.

Khắc Xương gật đầu:

– Dạ, mưa bóng mây.

Rồi chàng cư sĩ mập mạp nhờ ông già bán tò-he nặn cho mình một bó hồng thật đẹp. Nếu như phà cập bến mà ông vẫn chưa làm xong thì anh vẫn sẽ trả đủ tiền, nên không cần phải làm gấp. Để cho ông già tin, anh đưa đủ tiền luôn.

Vừa đắp nặn theo yêu cầu của khách, ông già vừa ngâm nga theo tuồng cải lương “Con cò trắng” của soạn giả Thu An do nhóm nghệ sĩ Bo-Bo Hoàng, Hữu Phước, Ngọc Hương, Thanh An, Phương Thanh, Bảy Xê và Hề Minh thủ diễn. Cô đào chánh trong tuồng này, tức Ngọc Hương, là người con của xứ dừa; và soạn giả của tuồng này cũng là dân Bến Tre, nguyên quán ở Chợ Lách.

Mấy đứa nhỏ bán vé số tranh thủ còn đông mà túa ra đi bán. Người mua thì ít, kẻ khoát tay thì nhiều. Đại lý mà không nhận chắc tối nay tụi nó có nước nhịn đói.

Chỉ còn mươi phút nữa là phà sẽ cập bến. Ông già bán tò-he vẫn chưa nặn xong, ông tính trả lại tiền nhưng Khắc Xương hẹn nếu có hữu duyên thì hai người sẽ gặp lại, khi đó ông đưa cho con là xong. Đời người như cánh cò trắng, làm sao mà nhớ nổi cánh cò nào đã từng bay ngang đời mình? Tuy vậy, ông vẫn gật đầu chấp thuận, để không khiến người trai hảo tâm kia bị khó xử.

Khi cánh cửa xe đóng lại rồi, Gia Huy mới hỏi Khắc Xương:

– Ổng làm gì mà chậm dữ vậy không biết?

Khắc Xương cười buồn:

– Có vẻ như ông đó bị hội chứng run tay của người già, thành ra không thể làm mau được như hồi trẻ. Tôi biết thừa nên mới biểu ổng nặn cái khó đặng mà có cớ cho tiền ổng.

Về tới xứ Đạo hiền hòa của hai người Linh mục trung niên, ba chàng Cao Đài đã thấy hai ông Cha trẻ đứng đợi mình ở cổng rào; người nào người nấy chỉ mặc độc cái quần tà-lỏn, mình mẩy – đầu cổ dính đầy sình và lá cây, da dẻ ngăm đen hơn lính trận.

– Bộ đi lạc vô chỗ của Thủy Quân Lục Chiến hả Xương? – Minh Thuận nói trong sự dở khóc dở cười.

Henrico Thạnh phá lên cười:

– Đâu, đang tát đìa thì mấy người tới, nên tụi tui chạy ra rước luôn chớ bộ.

JB Khải quơ tay về phía sau mà khoe:

– Có cá lóc đồng ngon lắm. Lát thằng Thạnh nấu bún cá hay cháo cá cho mà ăn.

Vì mình mẩy dơ hầy và y phục không chỉnh tề nên hai chàng tu sĩ không dẫn khách vô nhà bằng cửa trước mà đi vòng đằng sau.

– Nhà này mới nới thêm ba phòng ngủ, thấy phòng nào sạch thì dọn vô ở nghen các vị? – Henrico Thạnh vừa nói vừa lấy gáo múc nước tắm.

Gia Huy đưa cho JB Khải hai bịch ny-lon rất nặng và giới thiệu:

– Bốn hộp cơm gà Chí Thành, một hộp dồi trường chiên bơ-tỏi, một hộp mực xào rau cải và một hộp chân gà nướng sa-tế.

JB Khải cười tươi cảm ơn.

Ở chơi đâu được nửa tiếng, Khắc Xương mượn xe của Henrico Thạnh để qua thăm Quế Trân. Nghe Phước Thạnh nói thì giờ này nó đang phụ bán nước mía với gia đình anh Hai. Anh sẽ biếu gia đình của nhỏ mấy phần đồ ăn và bánh trái.

Tới nơi thì thấy quán đang ế. Quế Trân ngồi róc từng cây mía một, chị dâu không biết làm nên phó thác hết cho cô và nhà chồng.

Sợ nàng ta bị đứt tay do giựt mình nên Khắc Xương đợi cô làm xong mới cất giọng gọi. Gặp lại anh, nàng ta mừng lắm, hết tíu tít mời ngồi rồi dợm đứng dậy mà đi ép mía.

– Khỏi, tôi chở cô đi ăn. Cái này là để biếu cô – chú.

– Mèn đét ơi… Cảm ơn nghen mập.

Sau khi thưa ba – má đàng hoàng, Quế Trân mới lấy nón bảo hộ mà ngồi lên xe của thằng Thạnh. Nó bằng tuổi cô mà cao hơn mét tám, mua cái xe như con ngựa, mỗi lần nhờ nó chở đi đâu cô đều có cảm tưởng mình là Bạch Thu Hà!

– Ngồi vững chưa cô? Tôi mà dzọt một cái mắc công cô bay xuống đất lắm.

– Rồi… – Quế Trân nói mà giọng run-run.

Dẫu đã vô số thật nhẹ, nhưng vì đây là dòng xe gắn máy phân khối lớn nên chỉ cần đề một cái là nó vọt liền. Quế Trân bấu chặt hai bên phần thanh của yên xe, mặt cắt không còn giọt máu. Và mặc dù hết sức khó lái, Khắc Xương vẫn không than thở nửa lời; người ta đang sợ mà còn bắt người ta thả lỏng cơ thể thì coi sao được.

Tuy lớn lên ở Bến Tre từ nhỏ nhưng Quế Trân ít được đi ăn quán sang nên không biết giới thiệu chỗ nào hết. Khắc Xương bèn nhờ mấy thằng “Địa Phương Quân” chỉ giùm, đương nhiên những khứa này là bạn rất thân của anh, đồng thời cũng là thân chủ của anh, phần đông họ là những chủ vườn kiêm luôn vựa trái cây giỏi Nông Nghiệp nhưng dở môn Luật.

– Tôi chở cô tới đây cô đừng có nghĩ bậy nha?

– Tới đâu?

– Một nhà hàng trong khách sạn. Tên là…

– A, tôi biết chỗ này. Do thiếu diện tích nên người ta mở luôn nhà hàng ở từng trệt, còn mấy từng trên thì làm khách sạn. Nghèo thì nghèo chớ tôi cũng biết mấy kiểu kinh doanh như vầy mà.

Nhà hàng dưới tỉnh nghèo nên thực khách chỉ lai rai chứ không có đắt mấy. Thành thử hai người tha hồ chọn bàn theo ý muốn và không sợ ồn ào. Nhân viên vừa thấy họ ngồi xuống ghế là tươi cười đem cuốn thực đơn dâng tận tay liền, chừng như sợ họ đổi ý đi mất vậy.

Ở đây đa số bán những món Việt và Hoa, còn mấy món kiểu phương Tây rất ít (mà cũng không ngon nữa), nhưng Khắc Xương vẫn chọn cho mình và nhỏ ghệ mỗi người một phần bò bít-tết sốt rượu vang và nui xào tôm sú với rau – củ, vì cảm thấy mấy món kia không có gì đặc sắc. Nhân viên giới thiệu món súp bào ngư nấu với tổ yến, bạch quả, nấm tuyết và cồi sò-điệp; vậy là Khắc Xương kêu luôn hai tô. Nhân viên lại hỏi hai người muốn uống gì.

Khắc Xương hỏi:

– Cô uống gì cô?

Quế Trân day qua hỏi anh bồi bàn:

– Có chai nào mùi khóm không anh?

Nhân viên ấy tươi cười trả lời:

– “Lipton Green Tea: Diet – Pineapple Mango”, tức là trà Lipton hương Xoài và Khóm.

Quế Trân đồng ý, rồi quay lại hỏi ông mập:

– Còn mập uống gì?

– Nước tăng lực “3D – Frost”.

– 3-đê?

– Hổng phải ròm ơi. Dòm khẩu hình của tôi nè: 3D.

Quế Trân bẻ miệng tập nói. Một hồi giương cờ trắng mà rằng:

– Thôi mệt quá, 3-đê cho rồi.

– Vậy chừng nào mới nói được tiếng Anh?

– Thôi mấy kiếp nữa đi.

Nhân viên che miệng cười tủm tỉm. Rồi xin phép cáo lui.

Đợi cho anh bồi bàn đi rồi, Khắc Xương mới kể cho Quế Trân nghe:

– Kể từ sau vụ “Aspartame”, hãng trà này đã sử dụng loại chất tạo ngọt khác cho dòng sản phẩm mới này.

– Chất kia có độc hả anh?

– Nghe đâu uống nhiều quá gây ung thư.

Quế Trân nghĩ bụng chỉ có uống nước mía hay nước dừa là chắc ăn nhứt thôi. Ba cái nước màu tuy ngon miệng và đẹp mắt nhưng độc hại vô cùng.

– “Học mà không suy nghĩ thì luôn u tối. Suy nghĩ mà không học thì luôn nghi ngờ”. Câu ngạn ngữ này tôi tình cờ đọc được trên một tờ tuần báo “Thiếu Nhi” trước năm 75.

Quế Trân lè lưỡi:

– Hèn chi có nhiều người càng học càng ngu.

– Không những càng ngu mà còn càng ác và càng bảo thủ nữa.

– Sao lần nào đi với tui ông cũng đều chọn hàng quán vậy?

– “Vạn sự khởi đầu ăn” mà.

Rốt cuộc anh bồi cũng dọn bàn cho họ. Đầu tiên là hai tô súp, kế đến là hai dĩa nui và sau rốt là hai thớt bò bít-tết chín vừa kèm salad tươi ngon.

Ăn đâu được vài muỗng súp, Quế Trân hỏi:

– Mập nghĩ sao về nghề Luật?

– Nghề Luật là đi cãi mướn cho người ta mà. Đâu cần biết thân chủ sai hay đúng, đã lấy tiền của người ta là phải làm sao cho người ta thắng kiện.

Quế Trân bỗng cười khúc khích, đoạn kể:

– Tui nhớ có người chỉ cách ăn súp quý tộc là phải múc từ trong múc ra. Tui mà làm dâu hoàng gia chắc bị trưởng bối đuổi ra từ tám chục kiếp. Dạy tai này qua tai kia hà.

Khắc Xương nghĩ bụng chắc mình sẽ bị đuổi đi chung với con nhỏ này. Biểu anh xé từng mẩu bánh mì chứ không cho phép đưa nguyên ổ lên ăn, má la vụ này hoài mà anh có để tâm đâu.

Về đến xóm Đạo tương lai thì trời cũng đã tờ mờ tối. Cái đìa đã tát cạn được hai chàng Linh mục quây rào lưới-vải để ngăn người đi đêm không thấy mà té xuống dưới. Mớ cá – tôm bắt được hai chàng chia cho những Giáo dân trong xứ để làm phong phú thêm bữa cơm đạm bạc và hiu hẩm. Những Giáo dân này trước đây lên Bình Dương làm công nhân và mở sạp bán, sau doanh nghiệp tháo chạy nên họ bèn đưa gia đình về lại nơi chôn nhau cắt rốn mà tìm kế sanh nhai khác, đang lúc bơ vơ – lạc loài, không biết bằng cách nào mà hai ông Cha trẻ biết được hoàn cảnh của họ mà thương tình rước về cho chỗ ở và cái nghề.

Bây giờ là giờ Kinh Tối. Lúc trước chỉ có hai người hành Lễ, giờ đây có thêm hàng chục người nữa ngồi lố nhố sau lưng hai chàng mà chắp tay nguyện cầu. Nhà trên nhỏ xíu, thành thử những người đàn ông ngồi trên mấy tấm chiếu trải trước cửa lớn, còn phái nữ xếp ngồi ở giữa và trẻ nít với người già ngồi gần hai vị Giáo sĩ.

Khi tan giờ Kinh, các Giáo dân và hai Giáo sĩ chắp tay chào tạm biệt nhau. Giáo xứ mới tới thời kỳ Tiền Sử nên không có đèn đường soi tỏ, phái nam phải chia làm hai nhóm: Nhóm dẫn đường và nhóm bọc hậu, để bảo đảm an toàn cho những người yếu sức hơn họ. Những ánh đèn măng-sông nhấp nhô theo từng nhịp bước như ngọn đèn bão trên những chiếc thuyền buồm đang trôi giạt theo từng đợt sóng biển bất định. Vừa đi về nhà, họ vừa cười giỡn um sùm, hầu lãng quên đi những bộn bề lo toan trong cuộc sống và những khoản tiền phải cúng sắp tới.

Gia Huy và Minh Thuận theo chân đoàn Giáo dân tới xóm nhỏ, vừa để thỏa mãn óc tò mò vừa tiện bề phát quà cho xấp nhỏ. Mất chừng mười lăm phút sau, hai chàng Cao Đài mới thấy được cái xóm ấy. Cái xóm ấy nằm trên một bờ đất nho nhỏ, vẫn còn nhiều nơi chưa được phát quang, đêm tối chim bìm-bịp và trao-trảo rúc về tổ làm huyên náo cả một vùng; mỗi gia đình sống trong một căn nhà tranh – vách đất có gác lửng diện tích áng chừng mấy mươi mét vuông, được xây tường cao và không có cổng rào, đồ đạc bên trong toàn là đồ được cho hoặc mua ở chợ đồ cũ.

Xấp nhỏ đứng xếp hàng ngay ngắn mà chờ tới lượt. Mỗi em được một phần quà, gồm ba cái bánh su-kem và một phần mỳ Ý kèm hai miếng gà chiên và khoai tây chiên mua ở “Jollibee”. Và thay vì tặng nước ngọt, Thuận và Huy lại cho tụi nó nước mía mua ở quán nhà cô Tư Lành.

Chia tay với “Xóm đêm”, Minh Thuận và Gia Huy sóng vai nhau về nhà hai ông Cha trẻ. Trăng đã lên cao, soi tỏ vùng đất lắm cây – ít người, nhưng đêm mà, dầu đã có ánh trăng chiếu rọi, nhưng cảnh trí vẫn u huyền và mờ tối, người yếu tim dễ lầm tưởng những hình ảnh xung quanh là “Liêu Trai chí dị”. Vài tiếng chuột kêu chí chóe theo từng đợt cú đêm kêu hời, ban ngày nghe không thấy ghê, mà sao đêm xuống lại nghe rởn gai óc quá chèn.

Rồi bất thình lình. Mưa. Mưa tầm tã mưa. Mưa hối hả kéo đến như người mẹ lạc con quýnh quáng chạy đi tìm. Mưa khiến hai người hảo tâm bị nhúng nước ướt nhẹp. Vừa tối lại vừa mưa, biết đường đâu mà về?

Henrico Thạnh và JB Khải che dù mà chạy ra dẫn Gia Huy và Minh Thuận về. Lúc này đây, hai chàng Cao Đài đã lạnh run hết cả, mặc dầu đã được hai chàng Công Giáo đắp cái mền lên người và nhường luôn cây dù. Có thể ban ngày dầm nắng, ban đêm đội mưa, nên Huy và Thuận đã trúng gió mà sanh cảm mạo.

– Vô tắm rửa đi, hai người. – Henrico Thạnh vừa nói vừa nhóm bếp củi. Ban nãy anh có xối vài gáo nước cho đỡ rít và đi thay đồ mới rồi; thằng bạn anh cũng làm y chang vậy.

Khắc Xương đang coi lại hồ sơ thuế của một thân chủ. Anh chú tâm đến mức không đoái hoài gì tới hai tên “Hắc – Bạch Vô Thường” kia. Bởi lẽ anh đang sanh nghi thân chủ anh có dính líu tới một đường dây rửa tiền nên đang do dự có nên kiếm chước thoái thác trước khi lửa lan đến chân mình không?

JB Khải và Henrico Thạnh chia nhau cạo gió cho hai người khách phương xa. Cạo đâu mới có vài đường mà “xương-xẩu” hai chàng kia đã hiện lên rõ mồn một. Lát nữa phải cho mỗi ông một cử thuốc trị cảm thôi.

– Dầu này anh mua ở đâu mà thơm quá vậy? – Minh Thuận hỏi.

Henrico Thạnh đáp:

– Được người ta cho. Dầu này là dầu Con Ó trắng chánh hiệu, mua ở bên Mỹ lận.

– Hèn chi… Mùi này thơm và dễ chịu hơn loại Con Ó xanh nhiều.

Henrico Thạnh vừa giựt gió cho Minh Thuận vừa khoe:

– Tôi có nấu bún cá An Giang, ăn một tô đi cho ấm người.

– Ăn hai tô được không?

– Được chớ. Ăn hết luôn còn mừng nữa là…

– Rồi mày sao im ru vậy Xương? – Gia Huy nhíu mày hỏi.

Khắc Xương thở dài:

– Tao sợ thân chủ này có liên quan tới tài chánh bất minh.

– Rút ra được không? – Minh Thuận xụ mặt hỏi.

– Đang kiếm cách đây.

JB Khải hỏi:

– Còn hai anh đây làm nghề gì?

Gia Huy trả lời:

– Freelancer. Nghề tự do tương tự như “thợ đụng”, chỉ khác môi trường hoạt động của tụi tôi là thế giới Nhị Phân mà thôi.

Từ cái máy phát nhạc, tiếng ca Hoàng Oanh trong bài “Chuyện đêm mưa” của đôi nhạc sĩ Hoài Linh và Nguyễn Hiền vang lên thật não nề. Mưa vẫn rả rích rơi. Bầy dế ướt nhem lê tấm thân “Nghệ sĩ với cây đàn” vào nhà khách lạ hòng tìm chút hơi ấm cho mình; đi đến đâu, chúng cũng đều kêu lên ầm ĩ, như thế đánh tiếng xin phép gia chủ vậy. Henrico Thạnh ném cho chúng vài mớ giá ngọt-lành, rồi cầm dao băm hành tiếp.

oOo

Vì ba má của Khắc Xương là người già tân thời nên họ chọn sống ở penthouse nằm trong một khu phức hợp có nhiều dịch vụ tiện ích bên Quận Nhứt. Căn này có hai lầu, tổng diện tích áng chừng hơn một ngàn rưỡi mét vuông, riêng một hồ bơi và sân thượng, có thể nhìn ra một góc sông Sài Gòn quanh năm ồn ã, tấp nập.

– Cô uống thử nước trà hương vị xương rồng không?

– Cái này đọc sao mập?

– “Snapple – Elements: Rain – Agave Cactus”.

– Còn anh uống mùi gì?

– “Air: Prickly Pear and Peach White Tea”. Có loại mùi thanh long nữa, tên là “Fire: Dragon Fruit”; và một nguyên tố khác là “Earth: Cherry and Fig Black Tea”.

– Ông này chắc cũng mê “Siêu nhân Gao” lắm… Sao cười mập?

– Mỗi bận cô nói tiếng Anh là tôi lại mắc cười.

– Trước đây họ còn bán loại “Sun: Starfruit Orange” nữa.

– “Ta” là mùi gì?

– Trái khế.

– Trời ơi!

Khắc Xương dẫn Quế Trân lên sân thượng ngắm cảnh. Nhà anh nằm ở “ngã tư” tòa nhà nên phạm vi quan sát rất rộng, cứ hễ đêm nào trăng đẹp hay muốn tổ chức tiệc tùng là gia đình anh sẽ lên đây. Và để tạo thêm vẻ đẹp cho sân thượng, gia đình anh đã cất công mời một công-ty kiến trúc trong Nước để nhờ họ thiết kế và xây cất vườn thượng uyển; kết quả rất đáng đồng tiền bát gạo, hầu như ai tới chơi đều khen hết và ít người lên tiếng góp ý lắm.

– Cô thấy sao cô?

– Nguy hiểm quá…

Khắc Xương bật cười:

– Cô sợ độ cao hả?

Quế Trân lắc đầu:

– Anh coi: Lộ thì có chút nị, hai bên đường lại trồng cây đại thụ nhiều rễ, lỡ vô mùa dông bão thì dễ xảy ra chuyện bất trắc lắm.

– Ờ há… – Khắc Xương khịt mũi. – Mấy cái cây này chủ thầu mua ở đâu đem về trồng chứ hổng phải cây con phát triển mà thành. Nhiều lúc đi ngang qua cũng sợ thấy bà, dầu rằng người ta đã gia cố bằng hàng hàng – lớp lớp dây xích và cọc chống.

– Sao họ học cao hơn tui mà tính ngu hơn tui vậy anh?

– Vì muốn “Bóc ngắn cắn dài” đó cô. Trồng mấy cây con thì lên hình dòm không đẹp nên chủ đầu tư mới tha mấy cái cây lâu năm ở đâu về dựng cảnh.

– Trời!

– Mà công nhận…

Thấy Khắc Xương tự nhiên im luôn không nói tiếp, Quế Trân bực mình huých vô tay ông mập.

– Công nhận cô học không có tới đâu mà cô toàn nghĩ cho người ta, còn mấy người học cao kia toàn nghĩ cho mình trước tiên.

Quế Trân bật cười, nhưng mà cô vui không nổi. Mấy người học cao đầu óc được chữ nghĩa dẫn dắt đi kiếm tiền hết rồi, mấy người học thấp đầu rỗng nên mới có chỗ cho người dưng nước lã nhờ cậy.

Khắc Xương lại bụi mía chỉ có hình thức chứ không có sắc – hương mà mời nhỏ ghệ “thẩm định” phẩm chất.

– Lạt nhách. Cứng như khúc củi nữa chớ. Nhai tốn thời gian mà còn khiến hư răng.

Khắc Xương làm điệu bộ “Cung hỷ”:

– Đúng là dân bán nước mía chuyên nghiệp có khác. Tại hạ xin bái phục.

Đôi má Quế Trân ửng hồng. Nhỏ day mặt qua chỗ khác mà đánh trống lảng:

– Mà anh thấy ở trên đây có ai bán nước mía sạch không?

– Có. Nhờ bạn bè – thân hữu nên tôi mới biết.

Quế Trân nói giọng rầu-rầu:

– Độ rày bán nước mía ế ẩm, mà người ta cũng ít ghé đại lý lấy nước nữa.

Khắc Xương quay qua hỏi:

– Hình như ở dưới mới dẹp mấy tiệp tạp hóa.

– Ờ, gồng hổng nổi nên đóng cửa rồi. Một trong số đó hay lấy nước ở chỗ tui dìa bán lắm.

Không muốn cuộc hẹn hò trở nên mất vui, Khắc Xương bèn rủ cô Tư xứ dừa đi thăm thương xá. Con nhỏ gật đầu mà ánh mắt buồn hiu.

Trước lúc dẫn nhỏ ghệ đi chơi, Khắc Xương đi kiểm tra cửa nẻo và chỉnh các định dạng giám sát nhà cửa cho chiếc máy tính bảng thông minh; Quế Trân đi sau lưng anh, con nhỏ không hỏi han hay táy máy chi hết, chỉ lặng thinh coi anh làm việc.

Chừng sắp ra tới cửa, Quế Trân nghe ông ghệ tâm tình rằng:

– Tôi nhớ có một ban nhạc ngoại quốc đi theo tư tưởng nữ quyền, mà nữ quyền lạ lắm…

– Sao?

– Lời bài hát phần đông chê trách đàn ông và bồ cũ, phê phán những ai ghét họ hoặc tôn vinh bản thân lên đến tận trời. Họa hoằn lắm mới có bài ca ngợi tình yêu và cuộc đời.

– Cái đó ném về mẹ thiên hạ chớ nữ quyền gì?

– Ừm. Nhưng chắc chỉ có mình tôi cảm thấy nội dung ca khúc rất kỳ…

– Hèn chi mà ông chịu tui.

– Ừ, tại bà cổ hủ, mí lị tưng tửng giống tôi.

– Tui nói thiệt, cho vàng tui mới chịu mặc quần sát ván.

– Tưởng bà hổng ham chớ?

– Vàng thiệt ham, vàng kia chê.

Khắc Xương không dẫn nhỏ ghệ đi thang máy công cộng mà đưa nó tới thang máy riêng của nhà anh.

– Riết, ca khúc bây giờ trở thành “Chiến trường anh bước đi” của giới ca sĩ. Tôi nghe đã nhiều nhạc phẩm trước năm 2000, cũng biết rằng số ca sĩ có đời tư bê bối cũng không ít hơn thời nay là bao, nhưng chẳng có mấy người bưng hận thù cá nhân vào trong bài hát.

Đôi lúc tôi nghe người ta nói bài hay lắm, tôi hỏi họ hay ở chỗ nào, họ nói bài này khịa cái đứa kia đã tai lắm. Trời ơi, nghe nhạc mà tôi tưởng đâu nghe móc xỉa lẫn nhau!

Vốn liếng tiếng Anh không có nên Quế Trân không biết góp lời thế nào, thành ra nàng ta chọn cách im lặng.

– Đi chợ ở đâu?

– Dưới lầu nè. Ở đây có luôn thương xá nên tẹt qua gọn lắm.

Ở dưới quê không có mấy chỗ có thang máy và thang cuốn nên Quế Trân đi hơi ớn chân. Kêu cô xuống đìa tát cô xuống cái một, còn mấy chỗ sạch sẽ và cao sang như vầy sao cô lại sợ vậy cà?

Khắc Xương biết nhỏ bồ đang run nên vỗ vỗ nhẹ lên vai trấn an cô. Đi thang máy không quen còn đỡ, hơi xây xẩm chút xíu hà; nhưng thang cuốn mà đi không quen dễ xảy ra tai nạn đáng tiếc lắm, thành thử chút nữa anh sẽ vịn bà nội này cho chắc ăn.

– Sợ hay gì mà run dữ vậy?

Mặt mày Quế Trân tái mét:

– Sợ không mở ra…

Khắc Xương cười cái khì. Rồi nói:

– Nó không mở ra thì mình báo quản lý và cứu hộ. Lúc nào tôi ra ngoài đường mà không thủ sẵn hai cái điện thoại đầy pin.

Chừng nghe thang máy vang lên tiếng “Tin”, rồi hai cánh cửa mở toang ra, Quế Trân mới ôm ngực thở phào nhẹ nhõm. Cô đợi Đô-rê-mon bước ra trước rồi mới hấp tấp nối gót theo.

Ở đây là đại sảnh của thương xá, không như Quế Trân tưởng lầm rằng ai cũng ăn bận thời thượng và quý phái, chỉ có một nhúm khách là hội đủ hai điều kiện trên, còn lại ai cũng mặc đồ bình dân như cô.

– Ở đây là Việt Nam chứ không phải Dubai hay Monaco mà cô sợ mình bị lạc lõng.

– Sao anh biết tui nghĩ gì?

– Tôi là luật sư, không hiểu thấu người khác thì làm sao cãi thắng?

Trước lúc dẫn con nhỏ nhà quê xuống lầu để vô siêu thị, Khắc Xương đưa cô tới một tiệm nhỏ bán trang phục đặng mua làm quà cho cô. Đồ ở đây ở mức trung lưu, không quá mắc, nên cô sẽ đỡ sợ tốn tiền hơn.

Hai cô nhân viên mặc dầu khách đã bước vô nhưng vẫn cắm mặt vào điện thoại. Bây giờ, ăn cướp có dí súng trước trán hai cô cũng hổng hay biết nốt. Nhưng cũng nhờ cái sự ghiền này mà hai người khỏi bị làm phiền, muốn lựa sao cũng được, không thích thì đi ra cũng không sợ bị càm ràm.

– Cái áo ba-lá rằn ri này dễ thương quá anh.

Khắc Xương cũng khen hợp với Quế Trân, rồi chỉ sang dãy bán quần dài mà rằng:

– Cái quần ống túm đó kết hợp với cái áo này coi dễ thương lắm.

Quế Trân hăm hở day qua ngó, rồi quay lại trề môi mà phán một câu xanh rờn:

– Thôi đi cha, tính biến tui thành “Tên cướp thứ 41” hả?

Khắc Xương lại được phen cười đã đời. Hai cô nhân viên nghe được cũng che miệng cười ngất ngơ ngất ngưỡng.

– Cái quần kiểu Alibaba đó hạp với mấy bà cao mét sáu trở lên thôi. Dáng người ta tròn, chân người ta thon, mặc vô cưng lắm. Còn con lùn mà lại ròm rĩnh như tui mặc vô dòm y chang con nhái bén.

– Bà tính giết người phải hôn? Tôi cười muốn bể bụng rồi nè.

Nhân viên trong tiệm lúc bấy giờ mới lại giới thiệu trang phục và góp ý mua sắm cho họ.

Cũng nhờ đôi mắt nhà nghề của hai nàng mà con nhỏ Kiến Hòa mua được ba bộ đồ ưng ý và tôn dáng.

Mấy bộ đồ này cũng đáng bằng học phí của mấy đứa con anh Hai. Quế Trân mặc đồ xô quen rồi, giờ mua đồ có thương hiệu – nhãn mác đàng hoàng tự nhiên thấy hơi sượng-sượng.

Có lẽ hiểu được sự mặc cảm không đáng có của con ghệ nên chàng Luật gia vỗ vai an ủi:

– Ễnh ương thương nhái bén được chưa.

Quế Trân cười mà như khóc:

– Ông ném về huỳnh quang thì có.

Muốn tới siêu thị phải đi thang cuốn vì thang máy đã hết cái còn trống rồi, dù muốn dù không, Quế Trân buộc phải liều mạng đi bằng cái thang tự di chuyển đó. Cô dợm bước mấy lần mới dám đặt chân lên nấc thang đầu tiên; đứng chưa được bao lâu đã run như trúng gió. Thấy cảnh trớ trêu ấy, Khắc Xương bèn nắm lấy tay cô và dặn hít vào thật sâu rồi hãy thở ra thật nhẹ để giữ được bình tĩnh.

Tới chừng xuống dưới, mặt mày Quế Trân đã xanh như lá quế. Ngẫm đến việc lát nữa phải đi lên bằng cái thang này, cô xây qua hỏi ông mập ở đây có thang bộ không, và tiu nghỉu khi biết phải đi rất xa mới ghé được khu có thang bộ.

– Nếu cô muốn, lát nữa tôi dẫn cô tới đó, sẵn đi coi hàng luôn.

– Ờ.

Siêu thị này chỉ có hai lầu, nhưng diện tích chiếm gần ba phần trong tổng diện tích của tòa nhà. Số lượng bảo vệ và kiểm hóa đơn của khách khá đông, vì nhiều người giả bộ mua đồ rồi bỏ món đó vô trong giỏ đem theo để quỵt tiền nên người chủ phải tốn thêm một mớ tiền cho hai khâu này. Xe đẩy ở đây có ba loại: Loại Một có thể để trẻ em ngồi lên đó, loại Hai cỡ trung và loại Ba nhỏ xíu rất gọn; ngoài ra còn có giỏ nhựa cho những ai mua có mấy món và không quá nặng. Khắc Xương chọn cái cỡ trung, thường thì gia đình anh chọn loại Một vì nhà-anh ai cũng ăn mạnh hết và hay mần đám tiệc tại gia.

– Chỗ này được coi như “Costco Việt Nam” đó cô.

– Là sao anh?

– Là họ chuyên bán đồ sỉ với giá rất là phải chăng. Mua càng nhiều thì càng được lợi. Hồi tôi còn học ở bên Mỹ, tôi thường hay ghé Costco mỗi tháng – một lần; nhưng mà muốn mua đồ thì phải làm thẻ thành viên, cũng may họ có chánh-sách cấp thẻ cho người ngoại quốc. Vô trỏng mình tha hồ nếm thử đồ ăn – thức uống; không biết bây giờ vụ này có thay đổi hay dẹp bỏ không. Ở đây cũng có vụ đó nữa, lát người ta mời, nếu thích – cô cứ việc lấy, còn không thì lắc tay từ chối – không có cái gì phải khó xử hết.

Nói gì thì nói, Quế Trân vẫn quen với cách bán buôn trong chợ hơn. Dù đi mua sắm ở đây rất thích vì có máy lạnh mát rười rượi, cô vẫn cảm thấy bức bối trong tâm khảm. Dẫu sao xuất thân của cô là con chim bìm-bịp nơi ruộng đồng và vườn tược, nên dầu có được bỏ vô lầu son – gác tía đi chăng nữa thì cốt cách vẫn là chim bìm-bịp chứ không thể biến thành oanh – yến được đâu.

Ngang qua quầy cà-phê có phong cách hoài cổ, đôi tình nhân ấy nghe một nhóm gần đất xa trời bàn luận với nhau như vầy:

– Mấy cha chơi chứng khoán độ rày hay ca bản “Chiều mưa biên giới” của Đại-Tá Đông lắm.

“Chiều mưa biên giới Anh đi về đâu?

Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?

Ông già bận áo sơ-mi trắng hùa theo:

– “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn. Còn nhiều Anh ơi…”

Khắc Xương nói lát nữa sẽ đi ăn sáng nên hai người không nếm thử bất cứ thứ gì. Quế Trân thấy công việc pha chế rồi mời khách rất dễ, nếu được nhận cô cũng làm nữa.

– Họ hàng – bà con trong nhà hết đó. Không phải dễ chen vô đâu.

– Trời, việc vầy mà cũng có vụ đó nữa hả?

Khắc Xương chỉ cười cười mà không nói thêm lời nào.

Đến quầy rau cải – trái cây, hai người thấy một bà lão đang đứng lặt rau. Bà này không phải nhân viên của siêu thị, mà là khách hàng. Thay vì mua nguyên bó mà người ta đã cột sẵn, bà lại lặt bớt rau xấu để ăn gian thêm được chút tiền. Quế Trân lại lấy năm bó xà-lách khác loại, rồi mau chóng trở về bên Khắc Xương.

Không một ai nhắc tới bà lão ban nãy.

Qua hàng bột và ngũ cốc, Quế Trân không biết đường đâu mà lần. Những hiệu này cô chưa từng mua thì làm sao mà biết cái nào pha ngon để mà mua chớ?

– Ở đây hổng có bán bột pha bánh cóng, anh ơi.

– Có bánh xèo nè, lấy đỡ đi. Ít người ăn bánh cóng nên hiếm có ai pha bột sẵn lắm.

– Còn nước cốt dừa đâu anh?

– Qua hàng khác.

Nhưng sau một hồi đọc thành phần của lon nước cốt dừa, Quế Trân lắc đầu nguầy nguậy:

– Toàn là nước cốt dừa ăn với chè – xôi không hà. Có cái nào không đường không anh?

– Ít đường thì có, không đường thì không.

– Hèn chi mà người ta đồn dân xứ tui rằng nước cốt dừa ngọt gắt cần cổ sao bỏ vô nấu chung với đồ ăn được. Ai mà nấu đồ mặn với ba cái nước cốt dừa chín này.

– Ở đây làm gì có nước cốt dừa sống để mà cô mua?

– Tui có đem theo bàn nạo dừa. Lát chở tui đi mua dừa sống về tui vắt nước cốt cho.

– Trời đất ơi! Cô với ông Thạnh đúng là Bá Nha – Tử Kỳ, Bá Di – Thúc Tề, Quản Di Ngô – Trần Thúc Bảo, Võ Tánh – Ngô Tùng Châu, Lý Huyền – Vương Bá Đương,…

– Nín. Pha bột với ba cái đường hóa học này banh luôn món bánh-cóng. Chịu khó một chút xíu mà ăn ngon miệng.

Sau hơn một tiếng mấy đi giáp cái siêu thị, hai người mới mua gần đủ những nguyên liệu của món bánh-cóng. Ăn điểm tâm xong hai đứa sẽ ra chợ truyền thống kiếm mua dừa-nạo để về vắt làm nước cốt dừa. Dù ở đâu cũng có gắn máy lạnh nhưng vì đi bộ lâu quá người nào người nấy đều vã mồ hôi mẹ – mồ hôi con. Tới chừng hai người đã tính tiền xong rồi, cuộc bàn luận của nhóm gần đất xa trời vẫn chưa chấm dứt.

– Chỗ này nè cô.

Nhưng chưa kịp tắp vô, hai đứa đã thấy một nhóm hài kịch nổi tiếng xuất hiện ở đó; chừng như họ đã tính sẽ quay tiểu phẩm ở đây. Khắc Xương thở dài thườn thượt, rồi nắm tay dẫn nhỏ bồ kiếm chỗ khác ngồi ăn; ngồi đó mắc công bị mấy người đó biến thành tình tiết trong tiểu phẩm lắm.

Đến hàng quen, Khắc Xương ra hiệu cho Quế Trân vô kiếm bàn ngồi, rồi quày quả đi lấy cuốn thực đơn để sẵn ở quầy thu ngân. Trong lúc tìm chỗ, cô Tư Lành đưa mắt ngó quanh một vòng và thấy quán này rất ít khách, dẫu được lợi thế là có hướng nhìn ra đại lộ Đông – Tây; chắc có lẽ do kinh tế gặp hạn nên mối mang đều xiết hầu bao hết rồi. Và không để ông mập phải chờ lâu, cô bèn chọn chỗ ngồi cặp sát cửa sổ đụng trần đặng vừa dùng bữa vừa ngắm phố đường.

– Ăn chi ròm?

– Có bán nui hôn?

– Có. Nui gì cũng có. Nuôi cô cũng chịu luôn.

– Vậy ăn nui sườn nghen?

– Thêm cái khoanh giò đi.

– Mèn đét ui, tui cạp dòm vô duyên chết.

– Bà nội, chỗ này lóc sẵn, không cần mình phải tự làm đâu.

Chọn món xong, Khắc Xương ngoắc bồi bàn lại. Anh ăn bánh mì xíu-mại, hai cái hột gà ốp-la một phần và rau chân vịt bỏ lò với phô-mai Mozzarella.

Có lẽ chán cảnh vắng như chùa Bà Đanh nên nhân viên bèn mở nhạc lên nghe. Cô ấy chọn bài “Samba Mambo” do France Gall trình bày; bản gốc do nhạc sĩ Michel Berger chắp bút, còn bản Việt tên là “Vũ khúc Samba” của nhạc sĩ Phạm Duy – cho đến nay chưa thấy ai biểu diễn bản Việt thành công.

– Bạn tôi có nhà gần một thẩm mỹ viện lớn nhứt – nhì ngành, sau đợt trái phiếu hóa giấy lộn, khách hàng của tiệm chỉ còn gần phân nửa hồi trước; hồi trước phải chờ cả buổi mới có ghế để ngồi, giờ thì bữa ế – bữa đắt chứ không còn cái cảnh ngày nào cũng đông nữa. Cho nên, lập luận “Người ta bị, chớ mình đâu có bị, hơi nào mình quan tâm tới” là một dạng nhận thức sai lầm; người ta bị cái gì, thì trước hay sau – sớm hay muộn mình cũng bị liên đới cái đó thôi.

– Độ rày công việc luật sư của anh cũng khó khăn dữ lắm phải hôn?

– Phải, đụng chạm toàn thứ dữ với lắm tiền nhiều của không. Nhiều thân chủ vô ơn, mình giúp xong họ còn tố cáo ngược lại mình.

– Ủa gì kỳ dạ?

– Ai mà biết. Đủ trò hết trơn. Thôi, ăn lẹ đi bà, kẻo nguội mất ngon.

– Ông ăn cái gì mà món của ông lâu lên quá dzậy?

Khắc Xương kể cho Quế Trân.

– Ba cái đồ kiểu Tây tui ăn hổng quen, bữa trước được đi chơi với mọi người nên có ăn thử cái ham gì đó xong về…

– “Hamburger”.

– Ờ, nó đó!

– Vậy là bà bị dị ứng với Lactose rồi. Nhiều người uống cà-phê sữa còn bị “Huế – Sài Gòn – Hà Nội”.

– Là sao?

– Là “Tôi đi từ ải Nam Quan…” tới “Nghe nói Cà Mau xa lắm…”

Quế Trân bật cười khúc khích:

– Ờ, đi huốt một đường thẳng ro luôn.

Khắc Xương tính hỏi Quế Trân về chuyện của Kiều Xuân, nhưng sợ nàng ta lên cơn hiểu lầm anh với cô giáo kia có tình ý gì nên anh đành thôi. Nghe một người đàn anh trong nghề kháo rằng vụ con tin bị thủ tiêu trong nhà hoang có liên quan tới một nữ mật vụ rất đẹp, nữ mật vụ này từng bị đồn là đã chết mất xác sau khi bị bại lộ thân phận, không hiểu tại sao bây giờ lại bị kéo vô vụ này.

– Cô Xuân đó anh. Cổ nói với tui tháng tới sẽ ra Thần Kinh một chuyến.

– Cổ chưa khỏe mà đi đâu?

– Chắc có ai rủ nên cổ đi chung luôn. Quê tui hay có vụ này lắm: Nhà hàng xóm còn dư ghế nên cho mình đi chung đặng hùn trả tiền xe với người ta.

– Vậy cô có đi không? Đi thì tôi kêu hai thằng quỷ sứ kia đi theo luôn?

– Ba má cho thì tui đi, còn không tui ở nhà.

– Mà cô thấy cô Xuân có gì lạ không?

– Nói sao giờ, cổ ngoài tỉnh – trong mê ai mà biết được. Tui với cổ cũng mới kết giao chưa được một quý, nên không rõ lắm tánh tình cổ. Mà nghề của ảnh có dính dáng gì tới cổ hả?

Khắc Xương chỉ cười cười chứ không giải đáp thắc mắc của nhỏ ghệ. Càng lúc, anh càng cảm thấy trình độ học vấn của bả không nói lên được chỉ số IQ và EQ của bả là bao nhiêu. Rất có thể, vì gia cảnh khó khăn mà bả phải bỏ học, chớ không phải là do bả học dở quá nên thoái chí mà nghỉ ngang.

– Cô học tới lớp mấy?

– Lớp Chín.

– Cô suy nghĩ chín chắn và chu toàn hơn những người nữ mà tôi đã từng làm việc chung.

– Càng học cao thì càng tự phụ mà anh, nên rất dễ bị mắc câu. Còn người học thấp tự biết mình ngu nên luôn đề phòng cao độ hơn.

– Còn người học lơ-lớ dễ bị mắc câu vì lòng tham và sự ỷ y.

Về đến nhà, hai người đã thấy ba má của Khắc Xương ngồi đường hoàng ở phòng khách chờ họ. Má của chàng mập mặc đồ bộ nhưng theo kiểu Tây, còn ba của chàng mập cũng mặc đồ bộ song là pyjama Ý-Đại-Lợi; cũng như bao con người ở thời đại này, ai nấy đều dán mắt vô màn hình, một người là điện thoại và một người là máy tính xách tay.

– Hai đứa về rồi đó hả? – Bà Hai niềm nở tiếp đón. – Mua gì mà có vài món vậy mậy?

Khắc Xương cười đáp:

– Quế Trân không chịu mua nước cốt dừa đóng lon nên con tính chở bả ra chợ lựa dừa tươi về nạo, thành ra không mua gì nhiều.

Ông Hai cười hỏi

– Món gì vậy bây?

Quế Trân trả lời nhỏ rí:

– Bánh cóng, chú.

– Sao gọi là “Bánh cống” vậy con gái?

– Tại vì hình dạng nó giống như cái cóng để “đấu” đó chú, chở hổng phải cái ống cống.

Hai vợ chồng ngó nhau cười. Phú quý sanh sợ chết nên lóng rày họ ít ăn ba cái món dầu mỡ, thành ra không còn nhớ rõ những món bánh miền Tây ăn kèm với rau sống và nước mắm có bỏ dưa chua vô trỏng nữa. Bữa nay được ăn lại chắc là ngon miệng lắm đây.

Bà Hai ngoắc Quế Trân:

– Nè, con gái, lại đây ăn thử cái bánh trứng cuộn “Wingfai” làm bên Macau đi.

Quế Trân thấy ba má ông ghệ dễ gần nên buộc miệng giỡn:

– Hiệu này chắc của ông nào thua bài bày ra bán.

Ông Hai bật ngón cái, tỏ ý đồng tình với người yêu của con trai.

Ăn vị bụng vài miếng bánh Tàu xong, Khắc Xương và Quế Trân cúi đầu thưa ba má một tiếng rồi mới cùng nhau đi chợ.

Đợi hai đứa nó đi khỏi đã lâu rồi, bà Hai mới quay qua khều ông Hai:

– Nó xấu một chút mà đảm đang với biết chiều chồng. Ham cưới mấy con đẹp mã về tối ngày chỉ biết chưng diện với mè nheo sắm đồ; lúc thạnh thời thì thấy mặt, chừng không còn một cắc thì nó sẽ phủi đí* đi theo thằng khác thôi.

– Tôi cũng nghĩ như mình. “Vợ đẹp là vợ của người ta…” Úi da, đau bà!

Bà Hai trừng mắt mà nghiến răng trèo trẹo:

– Ý ông chê tôi già tôi xấu chớ gì?

Ông Hai nín khe, biết vậy không thèm nói hùa theo đâu, nói kiểu gì cũng bị bả xuyên tạc tanh banh hết. Tội nghiệp thằng Xương, đang yên đang lành không muốn, tự nhiên không rước má nhỏ về nuôi.

Về phần đôi tình nhân mới bước vào Yêu, hai người đang đi qua một con đường có một ngôi trường quốc tế đồ sộ – chủ đầu tư nghe đâu là người ngoại quốc.

– Sao cô buồn xo vậy cô?

– Sản phẩm thể hiện sự phân biệt giai cấp giàu – nghèo. Ở quê tôi cũng đã có rồi.

– Hồi xưa cô học ra sao hả cô?

– Nghèo thì đừng có mơ học cao…

Quế Trân nói mà nước mắt lưng tròng.

Khắc Xương cười nửa miệng:

– Tôi khác với cô, tôi không muốn học mà ba má tôi ép học lên cao, và bắt tôi bỏ mộng làm vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp. Cô thấy tôi ăn nói có giống luật sư đâu.

Chiếc xe “Bentley – Continental GT Sport” màu xám đen ngừng lại bên vệ đường. Bảo vệ của trường thấy chiếc xe sang trọng thì tưởng đâu vợ chồng nào đó tới đây ghi danh cho con nên không chạy lại đuổi đi.

– Anh biết không, vườn trẻ mà cô Xuân đang theo dạy mất giáo viên từng ngày. Họ bỏ sang các trường lớn và sang hơn để lãnh lương cao hơn. Có mỗi cái vườn trẻ dành cho con nhà nghèo mà cũng sắp sụm nữa…

Nói đến đây, Quế Trân ôm mặt khóc nức nở. Rồi trong tiếng nấc nghẹn, nàng tâm tình:

– Tui muốn qua phụ lắm mà lu bu công chuyện ở nhà nên hổng qua giúp được. Anh thấy đời chó má ghê không? Mới có chút nị mà có tiền đầy túi là lắm kẻ chạy theo hầu sau đí* rồi; còn con nhà khố rách áo ôm phải đi bằng hai cái đầu gối từ hồi mới lõ hai con mắt ra.

– Tôi sẽ làm chủ cái trường đó cho. Bảo đảm không thua gì mấy cái trường của đám con nhà giàu đâu.

Khắc Xương để Quế Trân tựa đầu vào vai anh mà sụt sùi khóc. Ngôi trường quốc tế cao sang trước mắt anh bỗng trở nên đen đúa khôn cùng; ai có thể đóng cho con mấy mươi ngàn Mỹ kim mỗi năm để theo học ở đây, hầu như lê dân bá tánh ai cũng biết, nhưng được bao nhiêu người dám hé miệng nói?

– Thôi, bậu đừng khóc nữa, qua thương bậu mà.

Quế Trân gật đầu mà vẫn còn ầng ậc nước mắt.

Khắc Xương quyết định sẽ nhờ Linh mục Thạnh nói cho biết trình độ học vấn của Quế Trân tới đâu. Nếu có thể, anh sẽ giúp nàng học tại chức và theo đuổi chuyên ngành yêu thích.

– Nè, nghe bài này cho vui nghen bậu.

Vừa dứt lời, chàng Luật sư mở bài “Dân ca Nam-Bộ” tên là “Đò dọc – Đò ngang” do song ca Nam Kỳ trước năm 75 Tài Lương – Phương Đại trình bày, người hòa âm phối khí là đôi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và Y Vân. Bài hát này chỉ Cửu Long Giang, ôm trọn lấy hai con sông Tiền và sông Hậu:

“Khoan hỡi hò khoan, khoan hỡi hò khoan

Em lái con đò ngang, Anh mang con đò dọc

Anh lái con đò dọc, Em trở con đò ngang…”

– Quỷ. – Quế Trân nhéo lỗ tai Khắc Xương một cái thiệt đau.

“… Khoan hỡi hò khoan, khoan hỡi hò khoan

Ta nên vợ – chồng

Khoan hỡi hò khoan

Mai kia đầy đàn

Con cháu thiệt đông…”

– Ông biết “Đò dọc” chỉ cái gì của ông không mà bắt cho tui nghe hả?

– Biết nên mới bắt chớ. – Khắc Xương cười híp mắt.

Khắc Xương thấy nàng đã chịu nín nên khởi động xe mà chạy đi. Chạy đâu được một đoạn, Khắc Xương nghêu ngao hát nữa:

“… Khoan hỡi hò khoan, khoan hỡi hò khoan

Sao không bằng lòng

Mang tiếng hoài công…”

– Ca nữa tui cho ông “chìm đò” bây giờ.

Khắc Xương còn ca lớn hơn:

“… Nghe Anh một lần

Khoan hỡi hò khoan

Ta se chỉ hồng

Kết nghĩa đường trăng…”

Quế Trân vừa cười vừa khóc. Nàng tưởng đâu kiếp này sẽ ế rồi chớ, dè đâu run rủi sao mà Ông Tơ – Bà Nguyệt gởi cho nàng một ông khùng-khùng y chang nàng.

– Sao mếu nữa rồi? Bà mà còn khóc nữa tôi bắt bài còn bạo hơn bài hồi nãy nữa cho chừa đó nghen?

– Nín nè! Mệt quá!

– Ăn kem không ròm… Ê… Cây kem đằng đẵng kìa… Đau, đau bà! Bà làm gì mà ám ảnh với mấy cái thứ hình chữ nhựt đứng… Đau, đừng có đánh nữa!

Quế Trân vừa xức dầu cho đỡ đau tay vừa dẩu môi nói:

– Mới ăn đồ nóng cái sột, giờ ăn đồ lạnh, muốn súc ruột hay gì cha?

– Ừ, tôi bị bón mà.

– Vậy ông lại đó xổ ruột một mình đi.

– Có bà mới dzui.

– Dzui khỉ họ.

Khắc Xương vẫn cho xe chạy lại tiệm kem “Bud’s”. Tiệm kem này có chừa chỗ cho thực khách đậu xe nên anh không sợ lát quay qua quay lại mất tiêu cặp kiếng xe.

– Ông có hiếu ghê luôn.

– Kệ, chiều ổng – bả ăn cũng được mà. Giờ mình vô đây ngồi chơi xíu.

Khắc Xương dẫn Quế Trân xuống sau hè để ngồi ngắm một nhánh kinh. Vì bữa nay là ngày đầu tuần, lại nhằm lúc sáng sớm nên quán vắng teo, do đó hai người có cảm tưởng mình đang bao nguyên quán. Sân vườn của quán được trồng rất nhiều cây có tán dày và bày trí nhiều tiểu cảnh đẹp mắt. Bàn ghế được đóng từ ván nhựa giả vân gỗ ngồi rất thoáng mát và cũng dễ lau chùi tẩy ố.

– Ăn gì cô?

– Ông biết tui bị dị ứng Lactose mà còn dắt ra đây ăn.

– Trời, tôi đoán mò thôi bà. Bà phải đi xét nghiệm đường hoàng mới chắc được chớ?

Sau một hồi nghe nhân viên giới thiệu và gợi ý, Quế Trân chọn món một ly “Jelly Cocktail” và ông “Đò dọc” thì kêu “Taco Sundae” lấy loại kem trà xanh, chocolate và vanilla.

Nhờ buổi ăn kem này mà Khắc Xương mới nhận ra Quế Trân không hề học dốt như anh lầm tưởng. Nàng đáng thương vô cùng, và cùng đáng mến vô cùng. Anh sẽ ráng dựng lại vườn trẻ cho nàng, để những đứa nhỏ nghèo “di truyền” được học tập ở một môi trường tốt nhứt. Anh không hứa, nhưng chắc chắn anh sẽ thực hiện.

oOo

Hè vừa sang được có mấy bữa mà thời tiết đã nóng bức thêm vạn lần. Ở Việt Nam mà tưởng như bên sa mạc Trung Đông, nếu không có việc gì gấp rút thì ai nấy đều lựa chọn rút trong nhà như loài bò sát lẩn vô hang; thành thử xóm Đạo chỉ nghe thấy mỗi tiếng ve, gió rung cành và vài tràng chó sủa hay gà gáy um trời.

Ignacio Cường đang ngồi phân quà cho những người dân nghèo trong xóm lao động ở Quận Bình Thạnh. Kiều Xuân và Quế Trân có luộc bánh dừa, bánh cúng và rế chả giò; nhờ bạn thân của Khắc Xương mà những món này được chở lên từ rất sớm. Kiều Xuân còn nấu cho anh và Stephen Đoàn mỗi người một chai bồ kết dành để gội đầu; ngoài ra cô còn thắng một keo tóp mỡ nặng độ ba ký và chắt ra ba chai nước mỡ heo, chưa kể đến cô còn thắng dừa làm nước màu và làm vài ký chà-bông gà cho hai người ăn dần. Stephen Đoàn vẫn chưa nguôi ngoai, nhưng “Vậy còn hơn không…”, “Vậy còn hơn không…”,…

– Cưỡng!

– Chi Cha?

– Ăn bánh không?

– Ăn.

– Vô ăn đi rồi phụ tôi qua Bình Thạnh phát quà.

Vừa lột bánh dừa, Cưỡng vừa cười hỏi:

– Rồi Cha Mỹ ở nhà hả Cha?

– Xách theo chớ đâu để ở nhà được.

Cưỡng được phen cười ngất ngơ ngất ngưỡng:

– Ổng mà Cha làm như cái két sắt.

Stephen Đoàn hãy còn đang giặt đồ trên lầu. Anh giặt luôn đồ của người bạn đồng tu vì chân cẳng của ảnh không tiện ngồi chồm hổm. Do sợ máy giặt sẽ làm hư áo Lễ và dây Stola nên hai chàng thường chọn cách giặt tay; sau này được bà Ái Liên cho viên nước xả vải “Downy Light Beads” với hai mùi “Woodland Rain” và “Ocean Mist” nên hai chàng mới bỏ vô máy-giặt mà giặt lại một lần nữa để phẩm phục được thơm và sạch hơn.

Ignacio Cường kiểm lại từng cái bánh để tránh cho người ta ăn phải đồ mốc hay bị thiu. Anh vừa làm vừa lần chuỗi Mân Côi của Richard Lãm, trong đầu anh đang đọc bài “Kinh Nữ Vương Hòa Bình” và mắt anh thì đang đăm-đăm kiểm tra từng món một.

– Mình đi xe nào hả Cha?

– Đi xe lam… Thôi đừng có ca!

– Cha làm tôi cụt hứng ghê. Tính ca “Chuyến xe lam chiều” hay “Chuyến xe ba người” rồi.

– Tao đi chung nữa. Ở nhà vợ nhằn quá chịu hết nổi rồi. Để tao tự giải phóng tao.

Kể từ ngày về nhà, Sáu Quới bị vợ hành đủ đường. Không phải là do ghen tương, mà là do phải chạy ăn từng bữa nên đôi đũa lệch ấy mới hục hặc với nhau dữ vậy.

– Tôi định thử vận may với tiền điện tử, mà sao sợ hiu quá.

Cưỡng bật cười:

– Thử đại đi chú, biết đâu gặp thời – đổi vận thì sao?

Sáu Quới gãi đầu cười trừ:

– Chắc tôi phải nhờ Thủy Diệu tạo giùm trương mục quá. Dẫu sao cậu cũng giỏi và rành rẽ khoản này hơn tôi nhiều.

Ignacio Cường nhận lời nhắn lại.

Stephen Đoàn mãi đến giờ này mới xuống. Anh bận áo sơ-mi trắng – tay dài và quần jeans denim xanh biển, chân mang giày sandals màu đen. Anh còn quải theo ba-lô màu rằn ri đựng sẵn những món đồ cứu thương và thuốc men cần thiết, ngoài ra trong đó còn có khăn giấy khô và ướt và một cái bi-đông chứa nước trà.

Ignacio Cường được Louis Quế và Cưỡng dìu lên xe lam. Cái chân trái của anh phải chịu cà-thọt ít nhứt là tới đầu năm sau; thà đứt lìa luôn nối lại còn dễ, đằng này…

Người lái xe là ông nhiếp ảnh gia quởn đãi, sẵn không có việc gì làm nên nhận phần chở đi giùm. Dù đã ngoài sáu mươi nhưng ông không hề mắc bệnh già nào, tóc tai còn xanh mướt như thời đôi mươi, ngay cả đồi mồi và những vết chân chim cũng chỉ có vài chấm.

– Nãy nhiều chuyện đi ngang qua nhà Thầy, nghe hai vợ chồng đấu với nhau như Quách Tĩnh – Hoàng Dung, rồi giờ yên chưa Thầy?

– Yên rồi. Nó dẫn con về nhà ngoại. Tôi về nhà nội.

Ông Sáu cười mà mặt mày méo xẹo:

– Không có tiền vui sao nổi mà vui. Mà con Bích trước đây có làm nghề gì không?

– Có. Ẻm tốt nghiệp Đại học Kinh Tế, vì cưới tôi mà bỏ dở quan lộ của mình.

– Vậy cho nó đi làm kế toán hay cái gì đó liên quan tới sổ sách đi.

– Rồi mấy đứa con ai giữ?

– Thầy giữ. Thầy làm Freelancer dẫu sao cũng thoải mái giờ giấc mà.

– Trời ơi, tôi có sữa đâu mà cho thằng Út nó bú.

– Thì nhờ ông bà qua lo giùm.

Ignacio Cường cảm thán:

– “Không muốn làm, sẽ tìm cớ. Đã muốn làm, sẽ tìm cách.”

Cưỡng nhếch miệng hỏi:

– Chú sợ chỉ có ghệ phải không?

Sáu Quới nín thinh.

– Năm mặt con rồi còn bồ bịch cái nỗi gì nữa mà chú sợ?

Ngang qua Đài Đức Mẹ, chiếc xe lam ngừng lại để đoàn người xuống xe mà làm Lễ với Mẹ một chút. Bữa nay ít người viếng Mẹ nên hoa cũng không nhiều, bức tường sau lưng Đài trơ trọi như vách núi buồn tênh, cũng may còn tổ chim cúc cu trên đó nên không gian mới bớt phần cô quạnh.

Tan Lễ, đoàn người lại tiếp tục cuộc hành trình dang dở.

Sài Gòn những ngày Hè nhiều thêm màu áo “The Transporter”, vì sinh viên muốn kiếm thêm lợi tức nên đã đổ ra đường làm nghề giao đồ mướn. Khách đặt đơn thì ít mà nhân viên đi giao thì nhiều, giờ chẳng lẽ cùng nhau giao qua – giao lại cho đủ chỉ tiêu công-ty đề ra sao?

Ignacio Cường cứ hễ thấy ai đói khổ là lịnh ngừng xe để bước xuống trao quà. Những phần cơm này là do chủ tiệm kim hoàn đài thọ, đặt làm ở các quán ăn trong xứ, chứ không riêng gì quán của vợ chồng dượng Bảy, để tránh mích lòng nhau. Mỗi phần gồm có xá-bấu, tép kho tiêu với tóp mỡ, cải ngọt luộc và canh giò heo nấu củ sen; kèm theo một ly nước đậu xanh cỡ khoảng nửa lít. Chưa đến Quận Bình Thạnh mà số phần cơm đã vơi gần hết, chỉ còn lại không tới chục hộp, có lẽ đi khỏi cái Quận này là coi như sạch bách luôn.

Tháng Bảy mưa Ngâu Ngưu Lang – Chức Nữ bắc cầu Ô Thước để gặp nhau, còn họ bắc cầu đến với anh em họ – tức những người con khác của Thiên Chúa. Kêu họ đừng giúp, họ làm không được, bởi lẽ những anh em mà họ thấy trên đường y hệt như những người bị hụt hơi giữa dòng đang ráng sức quơ quào tìm đường sống; họ có thể vì lòng tốt mà bị nhiều trong số những người đó dìm xuống chết thay, vậy có sao đâu, đó chẳng qua là chút thử thách nhỏ nhoi mà Thiên Chúa ban cho họ mà thôi…

Và quả đúng như trong dự đoán của chàng Y-Nhã, chưa ra khỏi Quận Nhứt mà cơm đã hết trơn. Những người chậm chân buồn hiu quay gót đi, trong lòng đang lo không biết tối nay sẽ đi xin cơm ở đâu, Mạnh Thường Quân chứ đâu phải Ông Thần Tài mà ngày nào cũng nuôi cơm họ nổi.

– Khoan đi đã! – Stephen Đoàn cất tiếng gọi. – Gần đây có quán hủ-tíu, nếu bà con không chê, tôi xin mời bà con một bữa.

Đã người ta cho thì còn kén cá chọn canh gì nữa, nên ai nấy thảy đều hớn hở đồng ý.

Ông nhiếp ảnh gia, Cưỡng, Đức Cường và Huỳnh Quới hùn được một mớ tiền. Riêng Ngọc Mỹ trong túi rỗng không nên lại tiệm cầm đồ gần đó mà cầm luôn cái điện thoại của mình; anh hứa với ông chủ tiệm qua ngày sau sẽ quay lại lấy, biết anh đang cần tiền gấp nên ông chủ tiệm cũng không nương tình mà trả cho anh cái giá thật thấp với tiền lời thật cao, anh cũng chẳng hề màng đến…

– Chú, chú, chú mua giùm con mấy tờ vé số đi chú.

Y-Nhã Cường thấy đứa nhỏ bận đồ trắng sạch boong, mặt mày hết sức dễ thương như hình ảnh Thiên Thần trong các bức bích họa Cơ Đốc Giáo, thì lấy làm lạ lắm. Trong túi anh bây giờ chỉ còn đủ tiền mua ba tờ vé số, mà vừa hay thằng nhỏ chỉ còn ế lại hai, vậy là anh mua hai tờ và cho không nó một tờ.

Chừng trở lên xe, Y-Nhã Cường kể lại sự lạ ban nãy cho những người anh em đồng Đạo nghe.

Ông nhiếp ảnh gia ráng hết sức kiềm chế để không khiến mình trở nên bất nhã:

– Chắc… con ai ghẹo Cha rồi đó. Ăn bận vậy đi bán vé số sao được.

Cưỡng cười hỏi:

– Đâu, số mấy đâu, để chút nữa con về bao lô… Đau, Cha! Con giỡn mà Cha quánh thiệt hả?

Chiếc xe bây giờ một đường thẳng tiến về Quận Bình Thạnh, vì cạn tiền và hết cơm rồi.

Đến được nơi cần đến, nhóm anh em Giáo xứ St. Pio thấy hai nữ tu Dòng Chúa Cứu Thế ngồi đợi họ ở một quán cóc ven đường. Hai nàng đều mặc tu phục nên dễ nhận ra vô cùng.

Y-Nhã Cường được Sáu Quới và Cưỡng dìu xuống xe. Chàng Giáo sĩ đã cập ngưỡng tứ tuần bước lại chắp tay chào từng “nhỏ em”, và được nhận lại cái cúi đầu xẽn-lẽn của mỗi nàng.

Sáu Quới tặc lưỡi:

– Ông ở với Thanh Liên riết ổng quên ổng bên nào luôn.

Dưới sự dẫn đường của Sơ Agnes Hà và Sơ Clara Hường, nhóm con dân xứ Đạo – Thánh Pio Năm Dấu tìm đúng địa chỉ cần giúp và đáng nhận quà. Trời mới ánh chiều mà xóm nhỏ đìu hiu như hồi khuya lơ khuya lắc; những quán xá tịnh không bóng người, hàng hóa bày ra hệt như đang triển lãm trong một viện bảo tàng, người muốn mua thì không có tiền mà người muốn bán lại không có khách tới hỏi. Những đứa trẻ hanh hao, nhỏ thó đang chơi cò-chẹp ở cuối con hẻm; trái ngược với nỗi mệt mỏi – u uẩn trên sắc mặt người thân của chúng, nụ cười trên môi của chúng không khi nào ngớt và tiếng cười giỡn ầm ĩ ấy phần nào đã làm xóm nhỏ trở nên có sức sống hơn.

– Mấy đứa ăn bắp rang bơ không?

Y-Nhã Cường vừa nói vừa mở ba-lô ra. Đây là phần hùn của ông thương gia Victor Thu, toàn là bánh kẹo chánh gốc Hoa Kỳ nên ít thấy ở Việt Nam.

Xấp nhỏ mừng rơn mà cảm ơn rối rít. Có đứa thảo ăn còn nói sẽ rước đám bạn cùng lớp qua nhận quà, nên nó xin ông Cha chừa phần cho nó và mấy đứa kia.

Mỗi đứa được một bịch bắp rang bơ “Candy Pop – Snicker”, một gói kẹo “Sour Patch Kids” hương Cola và một bịch kẹo “M&M’s” loại “Caramel Cold Brew”.

Những đứa nhỏ đi kêu bạn học tới nhận quà đã tề tựu đông đủ. Trong số đó có cả những đứa may mắn đổi đời nên được vô trường Quốc tế học, không biết là ai đã tiêm nhiễm vào đầu chúng, mà khi nhóm anh em Công Giáo trao gói quà thì liền bĩu môi nói, “Tưởng gì. Ở nhà tao đầy. Vậy mà mày cũng rủ tao qua lấy nữa.” Với những đứa đó, Y-Nhã Cường lấy lại quà và gằn giọng nói, “Tôi thấy mấy cậu thiếu đạo đức quá, sẵn đây còn dư mấy cuốn sách “Học làm người”, cần không tôi cho?” Có lẽ khuôn mặt của Đức Cường giống con cọp ở đồi Cảnh Dương quá nên mấy đứa đó cuống quýt xin lỗi rồi lẹ-lẹ lên xe ra về; Stephen Đoàn cảm thấy tội nghiệp nên phát quà lại cho chúng và nhỏ nhẹ khuyên lơn.

– Tụi nó muốn coi “Siêu nhân Gao” biến hình bản 4D. – Louis Quế cười đến nỗi đau tức cả bụng.

Ông nhiếp ảnh gia hãy còn nhớ cái hồi trước khi thằng Cường về đám con nít trong xứ quậy như bầy quỷ nhỏ, kể từ ngày thằng Cường giá lâm tụi nó đổi tính thành Thiên Thần hết. Đi Lễ thì ngồi im thin thít, ngủ cũng không dám ngủ, muốn nói gì thì tự giác biết giơ tay xin phép đàng hoàng, ra về theo thứ tự được sắp chứ không tranh nhau chạy ra nữa. Cũng may nó không vô quân đội, không là mấy thằng dưới trướng đào ngũ hết rồi.

Hai nàng nữ tu vốn nghe danh Cha Cọp của Ignacio Cường mà nay mới được tận mắt chứng kiến. Đúng là vẻ ngoài giống tài tử Hồng Kông mà phần hồn lại y khuôn xã hội đen Hương Cảng!

Một bà già bán vé số vừa đón lấy bịch quà của mình và ba đứa cháu, vừa chép miệng kể:

– Hồi đó tụi nó cũng dễ thương giống mấy đứa này lắm. Sau ba má nó luồn lách sao mà ôm được mớ tiền, rồi tự nhiên tụi nó mất dạy luôn. Phải nạt như vầy tụi nó mới tởn, hiền như cậu này riết tụi nó không ra đách ôn gì hết.

Trước lúc tạ từ hai nàng nữ tu hiền dịu, Cưỡng mua tặng mỗi nàng hai cây kem, một là “Shaomei – Lemon and Mochi” và hai là “Shaomei – Dark Chocolate anh Matcha, ở tiệm chạp-phô gần đó để ăn giải khát. Hai nàng chúm chím cười duyên, làm ai nấy phải nhớ đến những lời hát “Ta nhờ Em ru Ta. Hãy ru tên vô Đạo. Hãy ru tên khờ khạo. Ma-Sơ này Ma-Sơ…” trong bài “Em hiền như Ma Soeur” của Nguyễn Tất Nhiên và Phạm Duy.

Rời khỏi Quận Bình Thạnh, đoàn người tới quán cà-phê “Sóng Nhạc” mà ngồi nghỉ ngơi một lát.

Lúc này đây, trời đã ngả màu hoàng hôn, thinh không ken dày những áng mây ráng vàng và có vân xà-cừ, chim muông hối hả kéo nhau về tổ, và bên dưới thì đường sá chật như nêm, những người bán ế ngồi ngáp ruồi, còn những người thất nghiệp thì thơ thẩn đi tìm thứ đã đánh mất tựa cô hồn bóng quế chơ vơ trên dương trần.

“Đời chỉ đẹp khi tiền đầy túi

Đời mất vui khi túi rỗng không hoài…”

(Thứ lỗi cho kẻ gàn dở nhé, cụ Hồ Dzếnh.)

Sắp tới Quận Nhứt thì bị kẹt đường, nói là kẹt đường chứ không phải kẹt xe vì nguyên nhân gây ra kẹt là do đang làm đường chứ không phải là do xe cộ. Chiếc xe lam của đoàn người xóm Đạo đành chịu chôn chân. Hai bên dãy nhà bụi mù bám đầy lên cửa kiếng; mỗi bên mười căn thì hết ba căn treo bảng cho thuê hoặc bỏ không.

Ước khoảng mười lăm phút nữa, chiếc xe lam mới qua được cái ngã tư, rồi lại bị đứng khựng vì kẹt xe. Xe cộ ở đâu đổ về như thác lũ, người nhường thì ít mà kẻ giành thì nhiều, thành thử mới kẹt xe dữ vậy.

Ngang qua một ngôi nhà lầu có giàn hồng leo nơi cổng rào, vọng ra giọng hát của Sĩ Phú trong bài “Điệu buồn” của nhạc sĩ Đào Duy đã khiến trái tim của Stephen Đoàn như thắt lại:

“… Em ơi!

Tuổi Xuân lỡ làng, men đời cay đắng, tình xưa ngỡ ngàng

Nên đành trọn kiếp… trọn kiếp sầu đau…

Còn gì đâu Em

Tóc xanh phai màu thời gian

Tìm đâu nữa, giấc mê trong đời, từng bước đi hoang

Và còn gì đâu, dáng xưa êm đềm, mùa xanh đó

Gió cuốn tả tơi, sầu đắng lên môi, mộng đã tan rồi…”

Cưỡng sợ Cha Cường lên cơn nên kiếm chuyện đánh trống lảng:

– Chiếc xe đua “Malcolm Smith” kìa mọi người. Tôi mới thấy trên TV thôi, nay được gặp ngoài đời thật rồi; công nhận dòm đã con mắt thiệt.

Louis Quế nói:

– Tính ra gia cảnh nhà Phước Thạnh khá nhứt trong đám. Tấn Khải cũng có của ăn – của để nếu như cậu Hai Khờ không yểu mạng. Cường cũng được ruộng bông với mấy sào ruộng và mấy công đất trồng trái cây. Có mình Mỹ là trên răng dưới dép hà.

Ông nhiếp ảnh gia phì cười:

– Thầy cũng được xếp vô hạng trung lưu chớ bộ.

Sáu Quới cười khổ:

– Khá đâu chú. Chiếc “Chevrolet” kia là do thằng bạn xuất ngoại để lại, nó cho con trả góp dài hạn, chớ dư đâu mà sắm nổi nguyên con.

Độ chừng sáu giờ hơn, đoàn người mới tới được quán cà-phê “Sóng Nhạc”. Trời đang mưa rào, mưa này mau đổ rồi chóng tắt nên dễ khiến người ta ể mình mà sanh bịnh.

Trong quán, Jo Marcel đang ca bài “Bên lề đường” của một nhạc sĩ giấu tên. Nếu như người sáng tác biết mất đi tên thật của mình thì nhạc phẩm này sẽ chìm nghỉm, không biết người ấy có tiếc nuối không ha?

– Cũng ngộ ở chỗ Jo Marcel là ông bầu nổi tiếng mà ít ai biết ông còn là nhạc sĩ và kiêm luôn ca sĩ. – Thừa Tân vừa nói vừa thối tiền cho khách.

Sáu Quới thầm nghĩ mình mà đi huốt thêm một chuyến nữa chắc đây sẽ là ca khúc chủ đề chính của cuộc đời mình.

Người khách vừa kiểm tiền vừa hỏi:

– Còn bài nào nữa không?

– Đợi tôi làm trà sữa cho khách cái đã…

Nhóm anh em Công Giáo lựa cái bàn nằm cạnh cửa sổ và có thể nhìn ra con đường me già đổ bóng. Vừa hay góc này dựa sát tường nên năm người ngồi rất thoải mái. Cưỡng kêu bạc-xỉu, Sáu Quới thì sinh-tố mãng-cầu, ông nhiếp ảnh gia gọi trà chanh, Cường uống trà khóm và Mỹ chọn trà đào; thời tiết oi bức đã khiến không ai uống cà-phê đen nổi, và người đài thọ chầu này là Cưỡng và ông nhiếp ảnh gia.

– Cô Như An là một trong những nữ ca sĩ được ông Marcel lăng-xê, nhưng không hiểu sao lại không thành công như những người khác. Cô sẽ song ca với ông bài “Tiếng đàn Tôi” của nhạc sĩ Phạm Duy.

Chọn bài cho khách xong, Thừa Tân vô nhà kho để soạn dĩa hát và băng cối. Những tờ nhạc mà anh đã cất công sưu tầm được người thợ khéo tay tạo thành một bức tranh lồng trong khung kiếng vô cùng tinh xảo; anh định chọn ngày tốt thật tốt rồi mới mướn nhân công treo lên.

Sáu Quới lắc lư theo điệu nhạc, tiếc rằng bản này không được “Ông hoàng Tango” Hoàng Trọng hòa âm phối khí nên giai điệu trong lần thâu âm này có phần kém hay hơn bản của quý nữ nhà ông, tức cô Bạch La.

Trước lúc ra về, Sáu Quới lại quầy mà yêu cầu một bản nhạc thật là hiếm.

– “Vùng tự trị” của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân do nam ca sĩ trước năm 75 Huy Khanh ca.

Louis Quới chắp tay cảm ơn.

– Sắp về rồi còn yêu cầu nhạc nhẽo chi nữa chú? Phiền người ta quá trời… – Ignacio Cường nhăn mặt.

Louis Quới nở nụ cười cầu hòa:

– Vui thôi… Vui thôi mà…

Một người khách vừa giở thực đơn vừa hỏi:

– Còn có ca khúc nào lạ hơn không anh?

Thừa Tân trả lời mà mắt ngó ra ngoài đường. Bên ngoài đang xảy ra cự cãi do hai chiếc xe gắn máy không may quẹt nhau:

– Còn nhiều lắm, nói sao cho xuể bây giờ…

– Bài nào liên quan tới Lính đi.

– “Chiến sĩ hành” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ và sẽ do Thiên Trang ca.

– Có bài nào là ca khúc đôi không anh?

– “Lời tình đứa con gái” và “Lời tình đứa con trai” của nhạc sĩ Vĩnh Thuận. Bài đầu do Khánh Ly ca, còn bài sau thì là Thanh Lan.

Do trời đột ngột làm dông nên đoàn người phải nán lại một lát nữa. Ai nấy đều đói ngấu nên ông nhiếp ảnh gia bèn mời mọi người ăn một món nóng có nước. Stephen Đoàn và Cưỡng ăn cháo lòng với bánh quẩy, Louis Quế chọn hủ tíu bò viên – gân – nạm, Ignacio Cường gọi bún gỏi-và và người đãi đằng thì kêu bánh canh thập cẩm.

– “Những ngày mùa Hạ trở về” của nhạc sĩ Trần Đình Quân, người trình bày sẽ là nữ ca sĩ trước năm 75 Hồng Vân. – Thừa Tân đã chọn được bài theo ý khách.

Một người khách vừa che miệng nhai bánh mì thịt vừa hỏi:

– Anh có bài nào của nhạc sĩ Nhạc Đỏ mà nội dung lại thuộc về Nhạc Vàng không?

– “Chàng ra đi” của nhạc sĩ Trần Hoàn. Bài này tôi chỉ thấy có mỗi nam ca sĩ trước năm 75 Xuân An trình diễn. Sau năm 75 cũng chẳng thấy ông này đem ra giới thiệu với ca sĩ nào hết.

– Ủa sao ém luôn vậy?

– Nhiều khi người ta cố tình quên.

Một người khách mặc áo kiểu dân quần-vợt tặc lưỡi:

– Sao mấy bài nhạc này khác một trời – một vực với mấy bài Nhạc Đỏ của ổng vậy? Thiệt là ổng viết không đó, sao mà…

– Mấy bài này hay là nhờ có những nhạc sĩ hòa âm – phối khí đại tài kết hợp với những nhạc công tài hoa, cộng thêm sự thẩm âm đúng đắn nên mới tìm ra ca sĩ thích hợp trình diễn…

Một ông lão bình phẩm:

– Bản này do nhạc sư Lê Văn Thiện hòa âm mà.

– Ủa mà sao ông Hoàn theo phe kia mà lại…

Thừa Tân nói trong lúc lau lại những cái ly đã rửa:

– Giới âm nhạc ở miền Nam trước năm 75 không bận tâm anh theo phe ai hay đời tư của anh ra sao, cái chính họ để tâm là nội dung tác phẩm của anh kìa. Hay và không đạo văn thì họ sử dụng, thế thôi.

Một người khách khác lại hỏi:

– Anh nghĩ sao về ông Hoàn?

– Ông Hoàn đâu phải là một nhạc sĩ bất tài, nhưng ông để cái tâm vụ lợi cao hơn nghệ thuật nên mới sáng tác ra nhiều bản nhạc Trời ơi Đất hỡi. Coi lại những sáng tác thời Tiền Chiến của ổng đi, rồi anh sẽ thấy nhận định của tôi là đúng.

Người khách đó hỏi nữa:

– Sáng tác của ông Hoàn có đặc điểm gì lạ không anh?

– Ông Hoàn ưa viết vế “Ra đi” và “Đi xa”, phần đông tác phẩm của ổng đều có phần lời đòi đi hết.

– Vậy chắc ông Trịnh Công Sơn sáng tác bài “Một cõi đi về” là dành cho ổng: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.”

Cưỡng đã đi vệ sinh xong. Anh lại quầy mua thêm một ly trà sữa xoài thêm kem mặn và kem phô-mai. Sức ăn của anh rất khỏe nhưng vẻ bề ngoài của anh lại không thể hiện điều đó; dáng người anh roi-roi, không mập cũng chẳng ốm, mỡ bụng cũng không có là bao.

– Có bài nào của Thái Thanh mà là lạ không anh?

– “Trào lòng” của đôi nhạc sĩ Hữu Thiệp và Hữu Châu.

Người khách mới lại quầy ngồi toan hỏi nữa, nhưng Thừa Tân đã khoát tay từ chối:

– Bữa nay ngưng tại đây đi nghen, tôi còn có công chuyện phải lo…

– OK, chừng nào anh quởn rồi hai ta sẽ bàn tiếp.

Bữa nay là tới ngày Thừa Tân đem chiếc xe “Porsche” lại hãng kiểm tra máy móc, rửa xe, tẩy uế cho bộ lọc gió và thay nhớt cũng như bôi nhớt thêm cho động-cơ. Có lẽ đến tối mới về.

– Khoan đi đã, anh!

Thừa Tân vừa bấm điều khiển để mở khóa xe, vừa nhướng mày hỏi:

– Chi nữa anh?

– Tôi đi quá giang được không?

Thừa Tân nhún vai, đoạn khoát tay mời lên xe ngồi.

– Thứ cho tôi vô duyên nghen, tòa soạn tôi làm bị đình bản một tháng nên túng thiếu dữ lắm.

Thừa Tân bật cười. Rồi nhắc người bạn đường bất đắc dĩ nhớ cài dây an-toàn. Trong lúc chờ anh ta làm xong, anh sửa lại kiếng chiếu hậu và chỉnh sửa ghế ngồi của mình.

– Cha… Toàn là màn hình cảm ứng không há?

– Giờ anh muốn nghe bài gì, tôi chiều được liền.

– Anh tích-hợp vô IClound hả?

– Ờ. Gọn lắm.

Mày Sẹo nói mà mắt ngó đăm đăm vào táp-lô:

– Mình đang ở Sài Gòn thì nên nghe bài nào về thành đô đi.

– “Tre già” hay “Măng mọc”?

– “Măng mọc” không hay bằng “Tre già”.

– Vậy thì “Tre già”.

Thừa Tân mở bài “Sài Gòn Twist” của nhạc sĩ Y Vân do Hùng Cường ca. Đoạn, dận nhẹ chân gas và đẩy cần về D. Chiếc xe chầm chậm lăn bánh, mà muốn nhanh cũng nhanh không nổi vì con lộ thì có chút xíu mà hai bên vỉa hè lại ken đặc hàng rong và khách bộ hành.

– Anh tính dừng ở đâu?

– Xuống xe hả? À… Cho tôi lại quán cơm “Liên Thành”. Ở đó bán đồ chay giá rẻ lắm, gặp lúc đói khổ tiết kiệm được biết bao nhiêu là tiền.

Dù bị nghịch đường, nhưng Thừa Tân vẫn đồng ý chở người ký giả đói ăn tới đó. Nghe nói ở đây có mấy món bánh trái và chè – xôi ngon lắm, có gì mua về cho hai con nhỏ kia ăn thử; riết, không biết tự bao giờ, chàng chủ quán ế vợ lại coi tụi nó như em gái ruột.

– Lộn chân gas với chân thắng mệt lắm anh há?

– Ờ. Ủi sập nhà người ta chứ chẳng chơi.

Sẵn đây Thừa Tân vui miệng kể tai nạn năm xưa:

– Hồi đó mới mua được cái xe này, giữ chân thắng mà kéo cần về D, cũng may cái xe nó “chưa đi”…

Mày Sẹo phá lên cười:

– Tôi nghèo quá nên không dám mướn xe tập. Mạng tôi thì không đáng bao nhiêu, chớ còn mạng của cái xe…

– Vậy anh mua xe dạt về tập. Mấy chiếc KIA – Morning, Mazda, Nissan,… đời cổ lỗ sĩ giá rẻ bèo hà.

– Dạ, có thể mua nổi, nhưng ra đường gặp chuyện đền hổng nổi.

Thừa Tân thôi tươi cười. Đâu phải người nghèo không có chí tiến – thủ, họ không dám vượt lên chỉ vì sợ không biết đào đâu ra tiền đắp chiếu cái hậu quả mà thôi.

Dù mới bốn giờ chiều mà quán cơm “Liên Thành” đã có hàng dài người đứng xếp hàng mua cơm bên phía cửa tiệm bán giá rẻ, còn bên phía bán đúng giá chỉ lác đác vài mống khách.

Do Thừa Tân mua chè nên anh khỏi cần phải xếp hàng. Anh vẫy tay chào người bạn đường trước khi bước vào tiệm vắng.

Mặc dầu đã biết bà chủ đã gần sáu mươi nhưng Thừa Tân vẫn không thể nào tin rằng bà đã ngần ấy tuổi, trông bà chỉ chừng khoảng bốn mấy là cùng. Đôi mắt, thực sự đúng là đôi mắt mà thi sĩ Quang Dũng đã từng thốt lên rằng, “Đôi mắt Em có sầu cô quạnh.” Thời trẻ chắc nét buồn của bà không khác nào Tây Thi.

– Mua chi cưng?

Nhưng tiếng nói của bà đã làm Thừa Tân sực tỉnh. Giọng nói đó đã ít nhiều không còn trong trẻo và mang đậm hơi già của một người đàn bà từng trải. “Mỹ nhân tự cổ như Danh tướng – Bất kiến nhân gian lúc bạc đầu.”

– Dạ, tôi… tôi muốn mua chè.

– Ở đây không bán chè, nếu thích thì cậu tự lại múc. Bồn rửa tay đằng kia, có luôn máy hong khô và khử trùng; nhớ lau cho sạch rồi hẵng lại múc nghen?

– Dạ.

Quầy chè có món chè trôi nước, chè thưng, chè đậu xanh – phổ-tai, chè đậu đen, chè đậu đỏ, chè đậu trắng, chè đậu ván, chè đậu ngự và chè khúc-bạch. Ngoài ra còn có tàu-hũ – nước đường, tàu-hũ lá dừa và thạch trái dừa.

– Cái nào cũng miễn phí hết hả chị?

– Ờ, miễn đừng bỏ mứa là được.

Bà Ái Liên với tay cột lại làn tóc xoăn bồng bềnh như mây của mình. Hồi thằng Thanh chưa đi tu, tóc của nó giống y hệt bà, ai cũng ghẹo nó là “thằng Tây lai” hết. Nhắc tới nó, bà lại càng thêm buồn…

oOo

Maria Bích đã xin được một chân sổ sách ở một hãng sản xuất bao bì – giấy xốp; nhưng người ta bắt buộc phải nộp một khoản tiền thế chân rất lớn mới cho vô làm, mà số tiền ấy bằng mệnh giá ba chiếc xe SH của Ý. Lại một lần nữa, Andrew Hồ lại ra tay giúp đỡ chị. Do chỉ là nhân viên phụ trợ nên công việc trong Tổ Kế Toán không quá nặng nhọc hay chịu nhiều rủi ro thất thoát như những người cựu trào kia; và cũng vì là nhân viên phụ trợ nên mức lương không mấy cao, mỗi tuần làm có vài buổi, mỗi buổi chưa quá năm tiếng, song chị không bận tâm lắm đến vấn đề này, chỉ hiềm một nỗi lỡ mai chỗ này phá sản rồi lấy đâu ra tiền mà trả cho cậu em đây?

Mặc dầu là nhân viên của hãng nhưng chị vẫn phải trả tiền gởi xe; số tiền này không lớn, song cũng lấy mất một lít xăng của chị. Nghe đâu bãi giữ xe này là của người nhà ông chủ nên mới dám tỏ thái độ cà-nghinh cà-bật như vầy. Dù rằng đây chỉ là chuyện hay xảy ra ở Việt Nam, song chị lại tự nhiên cảm thấy bất an với sự tồn vong của công-ty này; ưu ái người nhà bất tài, hạch sách người dưng tài đức, sớm muộn gì cũng đi bán muối mà thôi.

Bàn làm việc của chị kê gần chân cầu thang dẫn lên sân thượng. Chỗ này được cái rất mát và sáng do gió và nắng từ bên trên lùa xuống; thành ra dù có hay bị làm phiền vì nằm sát lối đi chung chị vẫn cảm thấy hết sức ưng ý.

– Cô Bích, cô làm giùm tôi xấp này nghen…

“Làm giùm”, tức là “Bị đì”, chị biết tuốt song vẫn nhoẻn miệng cười và đáp, “Dạ, anh.” Con chị nó cần cơm ăn, chồng chị cần nghỉ hưu sớm, cho nên dầu có bị ức hiếp cỡ nào chị vẫn sẽ nhún nhường hết cỡ.

Nhớ lại năm nào tốt nghiệp Đại Học, chị ao ước được làm cho chính phủ trong cương vị một nhân viên xuất chúng của Bộ Kinh Tế. Nhưng gia thế và thời thế đã xán cho chị “Liên hoàn tát”, chị bẽ bàng tỉnh mộng rồi gạt lệ quay về nơi khói ám – dầu văng. Bây giờ, ngồi “cộng – trừ – nhân – chia” cho người ta, hoài bão năm nào chợt vọng về như thủy điện làm lũ. Chị đâu có khóc mà mắt đã hoen sầu.

Do trí sáng nên sổ sách nào mà người ta giao-cho chị đều làm xong rất gọn ghẽ. Song, chị biết cái nết của đám cựu trào, hễ thấy mình rảnh là sẽ bày vẽ chuyện khác cho mình làm, và đặc biệt chuyện đó không phải bổn phận của mình (nên nếu mình nhận làm thì chắc chắn sẽ xảy ra sai sót, hay thậm chí còn bị lãnh luôn tội làm sổ sách giả để biển thủ tiền của công-ty), thành thử dầu đã làm xong hết rồi chị vẫn giả bộ ngồi dò dẫm từng trang để khỏi phải bị ai sai vặt.

– Bích nè…

– Chi chị?

– Chưa làm xong nữa hả em?

– Dạ, em ở nhà làm nội trợ lâu quá nên máy móc với nhu liệu thời nay chưa rành lắm.

– Vậy chừng nào làm xong rồi thì kiểm giùm chị mớ này nha? Chị lu bu quá, làm hổng xuể, mà tối nay còn phải chở con đi thăm ông nội nằm nhà thương nữa…

– Gấp hôn chị?

– Sáng mơi cũng được em.

– Dạ, vậy để đó đi chị. Xíu nữa em làm cho.

“Bà làm như tui hổng có gia đình vậy.” Dẫu tức lắm, nhưng Maria Bích vẫn phải trưng ra nụ cười tươi nhất có thể.

Chưa tới giờ nghỉ trưa mà nhiều người đã bỏ ra ngoài mua cơm. Lần hồi chỉ còn lại Maria Bích và dàn đèn chiếu sáng; chị ráng làm cho xong xấp sổ sách mà bà nội kia giao để chiều nay được ăn uống với gia đình.

– Qua tới rồi nè bậu ơi!

Maria Bích vừa cười vừa dụi mắt. Rồi nhẹ giọng trách:

– Mua chi cơm hộp cho tốn kém vậy ông già?

– Dạ, cơm nhà má chị, chớ em đâu có dám đi mua cơm hàng – cháo chợ.

Má của Maria Bích thương con gái cực khổ nên đã nấu nhiều món tẩm bổ và giúp thanh nhiệt ngày Hè, gồm có các món như sau: Canh sườn-non hầm ngũ-quả, mực xào cải-thìa với dầu hào, cá chẽm chưng tương hột, bông-cải chiên bột và gỏi rau càng-cua bóp-thấu với thịt bò.

– Bữa nay nhà mình ăn sang một bữa để mừng bậu đi làm lại. Mơi ăn nhín-nhín như cũ.

Maria Bích ôm lấy tay chồng mà hôn lấy hôn để. Già, xấu mà dễ xài – dễ sai.

Sáu Quới sướng rơn kể công:

– Qua còn mua cho bậu ly trà sữa nữa nè.

– Kiếm đứa nữa không?

– Dẹp! – Louis Quế rùng mình. – Thêm đứa nữa chắc chết.

– Ghẹo chút mà ông làm thấy ghê.

Sáu Quới giúp vợ hiền bày biện mâm cơm. Cái cà-mên này đã lâu không dùng tới, tưởng đâu tháng sau đã về nhà của bà lụm ve chai rồi chớ.

– Mà nè, hổng được nói ông làm nghề gì nghen.

– Biết rồi.

Nhiều người có cái tật kỳ khôi, hễ máy móc nào hư hoặc bị chập chờn là lại cất giọng nhờ sửa. Dân IT chớ đâu phải Thần Đèn mà búng tay vô cái máy nào là máy đó “hết bịnh” được; vậy mà không chịu hiểu, cứ sửa không xong là lại nhè mình ra bắt đền hay tặc lưỡi trách cứ.

Ngồi ăn cơm với nhau được đâu mười lăm phút, có khách hàng nhắn tin nhờ thiết kế website nên Louis Quế phải ngừng đũa để nói chuyện với người đó. Maria Bích loáng thoáng nghe thấy người đó là chủ của một tiệm bánh mới nổi, thằng Hai đã có lần được bạn cho ăn thử và về khen dữ lắm, nhưng vì giá khá cao nên chị không có mua cho nó và mấy đứa em nó ăn.

– Ông già.

– Hửm? – Sáu Quới vừa vuốt tóc vợ vừa hỏi.

– Chừng nào lãnh tiền xong mua cho xấp nhỏ bánh ở tiệm đó nghen?

– Cũng được.

Dù đã quy định một ngày chỉ làm năm tiếng rồi thôi, nhưng Maria Bích vẫn phải làm không công thêm một tiếng rưỡi. Đã lâu không ngồi suốt trên ghế nên cái lưng của chị đau nhức kinh khủng, còn đôi chân thì tê rần như bị đặt trên tảng băng vậy; song, nếu mà còn nấn ná thêm giây phút nào nữa, thể nào chị cũng bị sai vặt tiếp, nên chị ráng gom chút sức lực còn lại mà kéo ghế đứng dậy rồi thất thểu đi cà-nhắc xuống dưới, đương nhiên trước khi ra về chị đã tắt hết các thiết bị điện tử và sao lưu lại sổ sách đàng hoàng, cũng như phần của ai thì đem trả lại người đó.

Trở về Giáo xứ vào lúc trời đã chạng vạng hoàng hôn, Maria Bích ghé qua nhà thầy Năm để đón thằng Hai về. Trên đường chạy tới đó, chị viếng Đài Đức Mẹ để dâng hoa cho Mẹ và gởi lời cảm ơn đến Mẹ một đỗi rồi mới lên xe đi tiếp; bó bông này chị mua trong Giáo xứ, giá cũng rẻ vì đã cuối ngày rồi.

– Mới đi làm về hả chị Sáu?

Ignacio Cường vừa nói vừa với tay khóa van-nước.

– Dạ, Cha. Chân – cẳng sao rồi Cha?

– Sang năm mới liền nổi, chị.

Nói đoạn, Y-Nhã Cường giúp vợ ông Sáu đặt bó bông lên đầu tường sau lưng Đức Mẹ; những chỗ kia vừa tầm tay với nên bà con xúm nhau để hết rồi, chỉ còn mấy chỗ cao là trống trải thôi.

– Cảm ơn Cha nghen.

Y-Nhã Cường nhoẻn miệng cười, để lộ hai lúm đồng tiền rất sâu nơi đôi má, khiến chị Sáu được phen ngẩn ngơ vì đã lâu lắm rồi chị chưa thấy đứa em đồng Đạo mặt mày tươi rói nhường vậy.

– Trúng số hay gì mà vui dữ vậy Cha?

– Không, bữa nay thấy khỏe trong mình nên vui thôi.

Sực nhớ đến thằng Hai, Maria Bích cuồng cuống trở ra xe để đi rước nó.

– Vợ thằng Sáu hả Cường?

– Dạ Cha.

Ông lão đã gần thất tuần nhưng sắc diện tươi nhuận khác thường, nếu không biết tuổi chính xác thì dễ lầm tưởng ông chỉ hơn năm mươi lăm là cùng. Dù chỉ mới về đây ở được nửa tháng song ông đã quen mặt với hầu khắp bà con trong xóm Đạo.

– Mình về tiệm vợ chồng cậu Bảy ăn cơm thôi con.

Trên chiếc xe cút-kít nhỏ mà ông lão ấy đang đẩy đầy vun những bó bông héo úa; số cây chết này sẽ trở thành phân bón ương trồng những loài thực vật khác, vòng tuần hoàn đó cứ thế tiếp diễn ngày này qua ngày nọ.

Đêm xuống.

Ông lão lại xách chổi đi quét dọn các khu vực thờ tự và nghĩa trang của Giáo xứ. Để thấy đường mà đi, ông gắn trước trán cái đèn soi ếch và thủ sẵn hai cây đèn pin trong ba-lô – phòng khi đèn kia hư thì có cái khác thay thế liền. Để ngăn muỗi chích, ông mượn cái áo chùng thâm của Stephen Đoàn mà bận vô, còn đôi giày thì lấy cỡ của Ignacio Cường; ai mà yếu tim đi đêm thấy ông chắc dám tưởng ông là Tử Thần đang đi lùng bắt người sống về cõi dưới.

Loài chim nhiều nhứt ở đây là con cú, cú “phi điểu” và có cả cú không biết bay mà lại rất giỏi đi thập thò tình hình trong xóm Đạo. Đêm nào đội Cảnh Binh của Giáo xứ cũng bắt được vài con thuộc họ “Linh trưởng” mà đem lên hội trường nhốt cho tới sáng. Do đêm nay mưa lâm râm nên nghĩa quân rút về nhà ngủ hết, trên những con đường thiếu vắng “ánh điện câu” chỉ còn lác đác bóng dáng của những ai đi đóng đáy, soi ếch, đặt lờ, bắt dế, đào trùn và đi làm hay đi chơi về khuya; cứ hễ gặp ai, ông lão lại vẫy tay mà chào, người nào dễ gần ông mới đánh tiếng hỏi bâng quơ vài câu, còn không thì thôi. Đôi lúc, gió mái lại hù ông một cái muốn đứng tim bằng những trò phá phách của khứa; tỷ như sập cửa bất thình lình, rung cây – đẩy cành dữ dội hay phát ra những âm thanh kêu rên nỉ non nghe ớn lạnh thấu xương, những lúc xong cơn hoảng hồn ông chỉ biết làm dấu Thánh hay cầm lấy mặt dây chuyền mà đưa lên môi và lầm rầm khấn vái Đức Mẹ che chở. Cũng có lúc ông bị thử thách, mấy con chó nhà ai thả rông trách lầm ông là trộm nên dí ông chạy gần chết, may mà lần nào ông cũng cắt đuôi được tụi nó. Bữa trước ông còn gặp cái cảnh huống trớ trêu thế này: Ông đang đi lượm rác ở khu Đông Giáo xứ thì bỗng nghe tiếng ru con ai oán vọng ra từ căn nhà tù mù ánh đèn dầu – do bữa đó cúp điện, nếu mà con nhỏ đó ca giống con người thì ông đâu có tò mò mà quay lại dòm; Jesus – Ma, nó đã tóc dài buông xõa bờ vai thì thôi chớ, đã vậy còn bận đồ trắng và bồng con đứng bên cửa sổ, giữa cảnh tranh tối – tranh sáng ấy, hình hài hai mẹ con y hệt miêu tả trong những câu chuyện ma, khiến ông thần hồn nát thần tính mà la thất thanh, “Quỷ!” rồi quăng luôn cái kẹp gắp và cái xe cút-kít mà thoát thân một mình; sáng hôm sau, nghe chồng con nhỏ đó ra nhà xứ mắng vốn rằng quân bất nhơn nào đổ rác trộm trước nhà thằng chả làm vợ thằng chả đã bị viêm xoang hành lại còn bị nặng thêm do chịu không thấu mùi xú uế.

Sắp tới khuôn viên nhà nguyện, ông lão tự nhiên ngửi thấy mùi dầu hôi đâu đây. Ông ráng vắt óc nhớ lại xem thử coi từ hồi sáng tới bây giờ có ai sửa đồ ở đây không. Hình như không. Để đề phòng cháy – nổ, Đức Cha Vincent Trung đã khuyến nghị bà con không nên sửa đồ – sửa xe ở những khu vực thờ tự dễ bắt lửa, việc ấy đã thành thông lệ và từ đó đến nay chưa có ai dám phạm phải. Vậy cái mùi này ở đâu ra vậy cà? Lạ nữa ở chỗ, sao mà củi ở đâu ra mà đổ đống thế này?

– Suỵt…

Nghĩa đệ của ông ghì áo ông lại, và ra hiệu cho ông đẩy xe đi chỗ khác. Riêng nó, liền lượm hai cây củi dừa lên rồi đi về hướng bốc lên mùi dầu hôi hăng-hắc.

Lửa chưa kịp bén lên đống củi, thằng khứa cầm hộp quẹt đã bị cây củi dừa quất xuống bản lưng một cái thấu mạng. Nó ểnh lưng chạy có cờ, nước mắt – nước mũi đổ xuống ròng ròng. Mấy đứa bạn của thằng chả nhao-nhao mồi lửa tiếp trước khi lên xe dzọt mất.

“Rào.”

Một luồng nước cực đại nã thẳng về phía bánh xe trước của mỗi thằng. Sức nước đủ mạnh để hất văng mỗi đứa bay ra xa.

Chưa kịp lồm cồm bò dậy, mỗi thằng đã bị cây củi dừa đánh xuống đầu, xuống cổ như sét nổ trong cơn dông. Trên mặt sân mới lát gạch mau chóng hứng máu tươi.

Tưởng chừng nguyên đám sẽ bị đánh đến chết, ngờ đâu người kia đã “buông hạ đồ đao” và đứng vịn tay vào cột nhà nơi hàng ba nhà nguyện mà thở hổn hển. Cây củi dừa đã để lại trong lòng bàn tay người đó những cái dằm rất đau; máu tươi theo đó âm ẩm rỉ ra.

– Thằng chó đẻ nào lịnh cho tụi bây đốt nhà nguyện? Hả?

Nguyên đám bị tiếng quát tháo của người đó làm cho kinh hồn táng đảm. Đứa nào đứa nấy lấm lét ngó nhau; con dao găm nơi túi áo trong của mỗi thằng chỉ chờ người kia bất cẩn là sẽ xông tới xả xuống liền.

“Rào.”

– Còn muốn giết tao nữa hả?

Nói đoạn, người đó chỉnh van nước ở mức độ cao hơn nữa rồi xịt xuống đầu đám quỷ phá nhà chay.

Sức nước quá lớn đã khiến cho thương tích trên mình mẩy nguyên đám càng thêm nặng. Còn bị trấn nước thêm một chốc nữa chắc thằng nào thằng nấy sẽ “Quy cố lai”.

– Chú, chú tha cho tụi con đi chú.

– Đem theo vũ khí gì thì quăng hết lại chỗ tao…

– Thấy đường đâu mà quăng chú?

– Quăng đại. Miễn sao không có đứa nào giữ vũ khí trong người là được.

Nhưng chỉ có hai đứa là chịu “Giã từ vũ khí”, còn mấy thằng kia nhân lúc trăng mờ – sao rụng nên liệng ra “không khí”.

Rồi bất thình lình, những thằng còn giữ dao trong người hò nhau kéo tới truy sát “Kẻ gác đền”.

Người đó một tay thủ vòi nước, tay còn lại giữ khư-khư hai cây củi dừa đầy gai nhọn; thằng nào nhào vô thì liều mạng quyết tử với thằng ấy.

Cũng nhờ giày – dép của lũ quỷ bị dính sình ướt nhẹp nên đi đứng không vững vàng. Thành thử người đó mới dễ dàng hạ gục từng thằng mà không phải tốn quá nhiều công sức.

Còn biết đánh nữa sẽ gây ra án mạng nên người đó lùi vô hàng ba thủ thế. Những cái dằm nằm trong tay ông đã bắt đầu làm độc, song ông vẫn ráng sức bấu lấy hai cây củi khô.

– Thời xưa mấy ông pháp sư thường nuôi âm binh để làm “ma méc”, tức là sai tụi nó đi rình người ta coi làm chuyện gì rồi về hộc lại. Tụi bây là âm binh của khứa nào?

Vẫn không có ai trả lời ông.

Người đó đưa miệng hứng lấy nước từ cái vòi cho đỡ khát. Mồ hôi mẹ – Mồ hôi con rưới ướt người ông.

“Rào.”

Một tên trong bọn vẫn cứ nhất quyết đốt nhà nguyện cho bằng được, cũng may ông phát hiện kịp thời nên lửa mới bén liền tắt ngúm.

– Đứa nào vô xứ tao quậy hả?

– Chết mẹ thằng Cường tới rồi tụi bây ơi…

Y-Nhã Cường giương ná ra nã từng thằng. Anh chỉ lấy đất sét chứ không chơi thẳng tay là đạn sắt. Song cũng đủ để nguyên đám quýnh quáng lên xe tháo chạy.

Song, vì trời tối quá nên bên phía Kitô Giáo không hay biết rằng vẫn còn vài tên trong băng lũ quỷ đã lẻn ra sau lưng Ignacio Cường mà chuẩn bị kết liễu chàng ta.

– Chết mày nè…

“Hự.”

Cú đá từ phía sau lưng không chút nương tình của Stephen Đoàn đã khiến cho tên đó cắm mặt xuống đất; lưỡi dao theo đà mà sượt qua tay gã ta, khiến gã ta đau quá mà kêu lên thảm thiết. Chàng Linh mục xấu trai không để cho hai tên còn lại ập tới, đã tay đấm – chân đạp hết đứa nấy rồi đến đứa kia, mặc cho lưỡi dao trên tay chúng đã “chà nát” mình mẩy chàng.

“Đoàng.”

Phát súng chỉ thiên khiến cả hai bên đình chiến. Bên đi gây sự nhớ rõ anh Hai cấm sử dụng súng vì dễ khiến cảnh sát lưu tâm đến vụ này. Còn bên bị gây sự cũng nhớ Giáo xứ có lịnh cấm sử dụng súng săn để tránh gây thương tật và hiềm khích lẫn nhau. Bên tôi không có, bên anh cũng không luôn, vậy thì thằng đó thuộc phe nào?

“Đoàng.”

– Rút!

“Kẻ gác đền” hãy còn tức lắm nên buông cây củi dừa xuống mà nhào tới kéo áo một thằng giữ lại đặng tra hỏi.

Gã đó ráng hết sức vùng vẫy, nhưng khi ngó thấy con dao găm để trước yết hầu thì cười mơn hỏi:

– Nắm kẻ có tóc chớ ai nắm kẻ trọc đầu, ha chú ha?

– Mày còn hai cái lỗ tai. Tao hỏi lại một lần nữa: “Thằng chó đẻ nào?”

– Tôi nói cho ông biết thì được rồi đó, nhưng ông có đền nổi mạng cho bà già tôi với con em tôi không? Có cháy con c** gì đâu mà cứ kéo áo ăn vạ hoài.

Ignacio Cường vừa đỡ người bạn thiết vừa nghiến răng nói:

– Để cho nó đi đi, Cha. Mỹ bị thương khắp người rồi kìa.

Gã đó chợt phá lên cười ha hả:

– Ông này mà là tu sĩ hả? Dám ổng mà lột cái áo ra chắc ổng giết tao luôn.

Đồng bọn của gã đó hối gã mau lên xe tẩu thoát, sắp sáng bảnh con mắt mà còn đứng đó diễn tuồng “Tiếng súng Mê Linh” nữa.

Thấy lũ quỷ đi hết rồi, Stephen Đoàn mới ngồi gập người xuống mà chịu đựng các cơn đau do những nhát dao găm xả lên mình anh. “Kẻ gác đền” cũng thắp sáng hàng ba để thấy đường nhổ dằm. Còn Ignacio Cường thì gọi điện kêu taxi để đưa anh bạn đồng quản xứ và Thầy tới nhà thương trị liệu.

Ngồi đợi đâu mười lăm phút hơn, mới thấy chiếc xe taxi ấy đến. Chiếc ấy hiệu “Honda – Civic” bảy chỗ ngồi khá rộng rãi.

– Í, ông này bị thương hả? Máu ra nhiều hôn đó?

“Kẻ gác đền” quả quyết sẽ đền tiền rửa xe. Chàng tài-xế taxi mới chịu chở đi.

Nhằm tránh dây máu xuống nệm xe nhiều hơn, “Kẻ gác đền” lột luôn cái áo gió của mình và biểu Stephen Đoàn ngồi lên đó.

Thể theo lời khuyên của chàng tài-xế “Thổ Địa”, ba người tới một trạm xá cách đây không xa để chữa thương; bây giờ mà vô bịnh viện đợi làm thủ tục chắc khô máu hết.

Trạm xá về khuya cũng đông chứ không thưa thớt như chàng tài-xế tưởng bở. Tuy vậy ở đây được cái làm thủ tục rất mau và đưa vô thăm khám cũng lẹ hơn ở bịnh viện nhiều.

– Nếu có vấn đề gì thì sáng mai quay lại chích ngừa uốn ván. Bác sĩ phụ trách đi về hết rồi. – Y-tá nam vừa thông báo vừa sát trùng vết thương cho Stephen Đoàn. Bản xét nghiệm máu của chàng Linh mục lát nữa mới có, nếu không có dấu hiệu “phong đòn gánh” thì mơi khỏi chích cũng được.

– Cảm ơn anh.

– Rất may là áo anh dày nên vết thương không bị sâu quá. Mà đám gây sự với anh xài dao găm hả?

– Dạ. Kiểu quân đội.

– Cha… Vậy nên chích ngừa uốn ván đại đi. Lỡ người ta tuồn dao từ trong trỏng ra xài bậy là máu huyết anh nguy lắm.

Stephen Đoàn lắc đầu từ chối:

– Tôi chích ngừa lần nào cũng bị vật hết, anh.

– Do cơ thể anh yếu quá đó mà… Độ rày ăn – ngủ có điều độ không? Tiêu – tiểu ra sao? Ủa mà tôi là y-tá, tôi đi hỏi mấy câu của bác-sĩ chi ta?

Dù vậy, Stephen Đoàn vẫn trả lời:

– Ăn – ngủ không điều độ mấy. Tối thức khuya, sáng dậy sớm, bữa nay mất ngủ luôn. Cơm thì mỗi bữa ăn được chén lưng với một chén canh là cùng; tôi có thói quen ăn đồ-ăn nhiều hơn là ăn tinh-bột như cơm, mỳ, cháo, bún,…

– Hèn chi mà anh y chang Triệu Phi Yến.

Y-Nhã Cường cau mày hỏi:

– Còn Thầy tôi bị xóc dằm sao anh?

– Uống cử thuốc bác sĩ cho cho-chắc-cú. Nếu có điều chi bất thường thì đi gặp bác sĩ Da Liễu càng sớm càng tốt. Nghen ông Thầy?

Ông gật đầu. Rồi ngó xuống hai lòng bàn tay quấn băng kín mít và hăng hắc mùi thuốc sát trùng – diệt khuẩn. Không biết thuốc gì mà xức vô rát thấy ghê. Nhưng hay một cái để chừng mươi – mười phút là mấy chỗ xóc dằm hết hành độc.

Trong lúc đợi kết quả xét nghiệm máu, ba cha – con ra cổng nhà thương ăn cháo mực; để có cái lấp bụng mà uống thuốc. Chàng tài-xế đang ngồi theo dõi sàn chứng khoán trong xe, ban nãy họ có rủ nhưng chàng ta không ăn vì sợ bị chụp thuốc mê cướp tài sản.

Từ cái xe hàng đậu cặp mé đường, bài hát “Phượng Hồng” của Trần Anh Mai, tức nhạc sĩ Bảo Thu, qua phần trình bày của Hoàng Oanh vọng đến tai những thực khách đêm muộn:

“Hè đã sang sau ngày Xuân tạ từ

Gợi tiếc thương trong lời ve sầu nhớ

Thương cánh hoa tàn úa bay-bay

Thương gió ru Hè thoáng lung-lay

Thương Người chân núi, đầu mây…”

Stephen Đoàn khoác áo gió cho đỡ lạnh chứ không mặc áo mới vô vì những vết chém đụng vô rất khó chịu. Anh không biết mấy ngày tới nên nằm ngủ ra sao cho đỡ rêm mình, cái lưng của anh hiện thời chẳng khác nào tấm thớt.

– Bây quản xứ sao mà bị đám cô hồn đó quậy hoài vậy?

Ignacio Cường cười khan:

– Từ hương lộ lên đại lộ, miếng mồi thơm phức mà Cha.

Nicolas Trực lắc đầu nguầy nguậy:

– Tôi đã bị huyền chức rồi nên xin hai cậu đừng ai gọi tôi là Cha nữa.

Y-Nhã Cường cau mày nói:

– Họ không công nhận, nhưng tụi con công nhận. Ai xứng đáng là Cha thì con gọi là Cha, ai đi đêm với quỷ dữ thì con kêu bằng “Thằng”.

– Bị chém chưa tởn hả con?

– Quỷ dữ có bao giờ ghê tay đâu, mà con phải tởn?

Trời bất thần đổ mưa xối xả. Gánh hàng rong sống đời lục-bình chỉ còn nước nghỉ bán sớm; bữa nay coi như huề vốn, mai phải ra bán sớm để bù lỗ cho bữa nay. Những người khách ăn chậm bực bội trả tiền rồi bỏ về.

– Tới chỗ của Mạn-Hòe Anh không Cha? – Y-Nhã Cường hỏi trong lúc đi lấy bản kết quả xét nghiệm máu.

Nicolas Trực nhíu mày đăm chiêu:

– Là ai?

Stephen Đoàn trả lời thay:

– Emmanuel – Ngô Kỳ Anh.

– À…

Chiếc xe taxi tư nhân đưa ba người tới nhà thờ Tin Lành chỉ trong vòng chưa đầy hai chục phút.

Manuel Ngô đã đứng chờ họ nơi hiên nhà thờ. Anh mặc luôn bộ đồ pyjama chứ không thay sang âu phục, dẫu sao đón lên rồi đi ngủ luôn chứ đâu có làm Lễ gì mà phải sửa soạn mí-lị chải chuốt.

Vì phòng riêng khá nhỏ nên Manuel Ngô dẫn Thầy và hai người đàn-anh xuống nhà nguyện nghỉ ngơi. Tối nay anh sẽ ngủ ở đây luôn.

– Con có sẵn đồ bộ với dép mềm, Thầy với hai anh đây nếu ưng cứ lấy bận thoải mái.

Y-Nhã Cường và Tê-Pha-Nô Mỹ không chút khách sáo mà ôm đồ đi thay. Cầu tiêu – nhà tắm nằm bên hông nhà bếp và cách khu vực này một cái hành lang nho nhỏ có bồn bông chạy dọc theo lối đi. Cha Sở nhường cho Cha Phó thay đồ trước.

Ở trong này, Nicolas Trực đi vài vòng ngắm nghía nhà nguyện. Bỗng ông ngó thấy cuốn “Chuyện Kinh Thánh” của nữ văn hào Pearl S. Buck đang được mở phơi và dằn lại bằng một hòn sỏi sơn hình con ong; ông tò mò cầm lên đọc thử vài dòng và cảm thấy đây quả là một cuốn sách thú vị, bởi lẽ nội dung trong sách là một cách kể về Đạo của một người Giáo dân.

– Chồng cũ của bà Buck là một Mục sư nên bà bị ảnh hưởng văn hóa Ki-tô rất sâu đậm. Hầu hết những tác phẩm của bà ấy đều mang “hơi thở” Cơ Đốc Giáo.

Vừa nói, Manuel Ngô vừa trải cái giường-xếp ra. Kể từ ngày có Judas, cơ sở vật chất của Hội Thánh được tăng lên bội phần; nhờ vậy mà ai có cần ngủ lại qua đêm đều được phục vụ hết sức chu đáo và tận tình.

– A, vậy ra bà này là Cơ Đốc Nhân chứ không phải Giáo dân.

Manuel Ngô gật đầu, đoạn hỏi:

– Thầy nằm ở đâu Thầy? Cạnh cửa sổ, chính giữa hay sát thành cầu thang.

– Cạnh cửa sổ đi con.

Vậy là Manuel Ngô hì hục kéo cái giường mới trải sang trái.

Do không thân thiết với Manuel Ngô nên Nicolas Trực kéo ghế ngồi xuống đọc sách cho đỡ sượng. Đương nhiên ông đã hỏi qua ý kiến của đứa con “cải nhánh” trước khi đọc cuốn sách đó. Nó cười bảo cuốn đó nó đã đọc hàng trăm lần rồi nên xin đừng sợ nó bị “mất dấu”.

Manuel Ngô đem táo, lê và xá-lị ra gọt để mời Thầy và đàn anh ăn cho mát người. Mấy thức quả này anh được một Cơ Đốc Nhân nguyên quán Đà Lạt gởi biếu, nhờ biết cách trồng nên trái nào trái nấy vừa bự vừa ngọt nước.

– Nhà nguyện này không giống nhà nguyện mà giống kiểu hội trường hơn.

– Dạ. Do kinh phí thấp nên tụi con phải xây theo kiểu “nhiều thứ vô một”.

Nicolas Trực đọc đâu được vài trang thì cơn buồn ngủ kéo đến. Ông nhờ cậu Mục sư dẹp giùm cuốn sách rồi ngả người nằm thẳng cẳng:

– Đã lưng quá…

Ignacio Cường và Stephen Đoàn chỉ biết ngó nhau cười trừ. Họ vừa về tới thì thấy ông Cha “Hương xưa”

– Sau Thầy bị hồi tục vậy Thầy?

Nicolas Trực day mặt ra ngoài sân mà buồn bực trả lời:

– Tôi đâu có ngờ người yêu cũ của tôi lại cấn bầu, nên sau khi chuyện vỡ lỡ tôi bị đuổi đi luôn.

– Tức là cái cô đó có thai trước khi Thầy gia nhập dòng tu?

– Ừ, cổ về lại Đài Loan nên tôi đâu có biết. Tới chừng thằng nhỏ mười mấy tuổi tôi mới hay. Nó lấy họ của tôi luôn. Và đã trở thành Linh mục, hiện đang ở nhà thương điên.

– Alphonso – Lữ Gia Hạp? – Y-Nhã Cường nói mà như sắp tắt thở tới nơi.

– Biết rồi mà còn đòi xác nhận.

Stephen Đoàn vẫn nguyện “làm cây Thánh giá trên nóc cao nhà thờ”.

Ignacio Cường bất bình hỏi:

– Nhưng mà chắc chắn có người chọt Cha phải không? Chứ cái chuyện này đâu có đáng tới nỗi bắt Cha phải hồi tục.

– Thằng già giả danh Giuse-Blanc Thành chọt chứ ai.

Ignacio Cường chống cằm hỏi:

– Rồi Cha làm “chim di trú” luôn?

– Ừ, tôi qua Mỹ ở đâu được chục năm rồi về đây làm hướng dẫn viên du lịch.

Manuel Ngô còn bài giảng cho tiết dạy Giáo lý vào sáng mai nên anh thôi làm phiền đến Thầy và hai người anh năm-cũ. Anh bỏ tô mỳ “Buldak: Glass Noodle – Rosé” vô lò vi-ba rồi trở ra bàn ngồi viết trong lúc chờ mỳ chín. Anh có thói quen ăn mỳ khô trộn sốt cay kiểu Hàn mỗi bận thức khuya làm việc, dù biết rằng nó không tốt một xíu nào nhưng anh không thể “cai” được.

– Sao con không về Dòng học tiếp?

– Con nghĩ con đã hết duyên rồi, Thầy.

Mùi nước sốt cay xé lưỡi mà Kỳ Anh đang trộn làm ông thầy năm cũ che mặt ho sặc sụa; không biết bỏ hương liệu gì mà vị ớt lại nồng nặc dữ vậy. Anh mở bếp chiên trứng ốp-la và xúc-xích heo để ăn kèm với vắt mỳ cho đỡ cay.

– Nói đúng hơn, con đã hết Ơn Thiên Triệu của Dòng Chúa Cứu Thế.

– Không phải đâu Thầy, con còn bên Tin Lành mà.

– Thì Thầy mới nói con hết Ơn bên Dòng cũ rồi.

Manuel Ngô cười khổ. Nãy giờ tâm trí của anh đâu có để nơi trò chuyện mà là nghĩ tới những vấn đề mà Hội Thánh đương gặp, nên có hiểu chi mô những gì mà Cha Trực nói.

– Bên con lại đang xảy ra chuyện gì hả?

– Dạ? À… Cũng không có chuyện chi lớn lao đâu, Thầy ơi.

Nicolas Trực nằm chắp tay trên bụng mà độc thoại:

– Đầu tiên là cha con bị giết, sau nữa là bác sĩ Lê Vĩ Kỳ bị dàn cảnh cán nát bàn tay, tiếp đó là An-Tôn Vũ bị bắt tạm giam, rồi đến lượt Thầy bị phanh phui chuyện có con trước khi vào Dòng, thêm nữa là ba của Stephen Đoàn bị người nhà nạn nhân đệ đơn kiện tập thể vì tình nghi có dính dáng đến đường dây buôn lậu nội tạng…

Ngoài ra, còn có vụ ám sát Tổng thống Bàng Đông Quân và thủ tiêu con nuôi của ông ấy là Tổng thống đương nhiệm Hác Đăng Khánh.

Ignacio Cường cau mày:

– Chuyện này có dính dáng tới cả Bộ Quốc Phòng, Bộ Nội An, Bộ An Sinh – Xã Hội và Bộ Y Tế.

Nicolas Trực gật đầu:

– Ông Khánh ổng đã cố gắng hết sức để kéo dài thời gian điều tra thảm án “Hai Mươi” thêm vài năm nữa. Sau thời hạn này, hồ sơ sẽ bị đóng lại.

Không biết vô tình hay cố ý, cái sạn trong tay Manuel Ngô gõ xuống chảo cái đùng.

Ba người khách lỡ đường chưa kịp định thần thì đã trông thấy cửa nhà nguyện mở ra.

– Judas! Về muộn vậy?

– Ai đây?

– Thầy và anh của tôi.

– A…

Nicolas Trực lắp bắp hỏi:

– Cậu… cậu… này tên gì?

Judas nhún vai:

– Tôi tên là Judas, thưa Cha.

– Ai đặt tên con kỳ cục vậy?

– Cha ghẻ, thưa Cha.

Manuel Ngô cười hỏi:

– Vụ của Gấu Nga sao rồi Judas?

– Yên rồi. Bên phía Mad Max đã chịu hòa hoãn với anh ta.

– Nói đúng hơn là Marissa không muốn làm lớn chuyện.

Judas mua về cho Manuel Ngô một tá gà chiên bột và bơ tỏi. Gã còn đem lại một kết bia “Heineken”.

– Anh có muốn ăn mỳ không? Tôi trộn cho một tô.

– “Buldak Stir-Fried Ramen: Quattro Cheese”.

– D’accord.

Thêm một lần nữa, ba thầy trò Dòng Chúa Cứu Thế được phen bụm mặt ho lấy ho để.

– Ăn giống gì mà nồng nặc gia vị dữ vậy chèn? – Nicolas Trực nói trong hai hàng nước mắt.

– Ngon lắm, Thầy.

– Thôi, tha cho hệ tiêu hóa của Thầy đi con.

Y-Nhã Cường đã qua cơn buồn ngủ nên mở điện thoại ra coi tin tức. Stephen Đoàn cũng lục tục ngồi dậy theo, nhưng thay vì lên mạng anh lại bước đến tủ sách và lựa một cuốn mà đọc; sẵn tiện rót cho mình và người bạn đồng quản xứ mỗi người một ly nước.

– Có nước dâu tằm tôi mới mua ở Đà Lạt đó. Anh biết cách pha không?

– Con có muốn gặp Chúa không con?

Stephen Đoàn cười khổ mà thú rằng hễ anh xuống bếp là đụng đâu hư đó hà.

– Vậy thôi ngồi đó đợi tôi pha đi. Đừng có rớ vô cái gì hết. Chị Hai mà thấy nhà cửa bề bộn là coi như anh Hai sống không nổi đâu.

Ngoài trời bất thần đổ mưa, gió lạnh theo kẽ hở của ô cửa sổ lá-sách mà ùa vào gian nhà nguyện nhỏ xinh, hai cây quạt trần được đà càng quay mạnh hơn.

Stephen Đoàn bị lạnh nên trùm mền kín mít, mặc cho chất vải cọ vào những vết chém gây đau rát khôn tả. Biết anh đang rét run người, đứa đàn em năm nào bèn đóng hết cửa sổ, tắt quạt và bật điều hòa ở định dạng sưởi ấm; dàn máy đời mới nên chỉ mất không đầy mười phút là ấm nguyên gian phòng. Do tác dụng phụ của thuốc, lại gặp cảnh chăn êm – nệm ấm, nên chẳng mấy chốc mà chàng Linh mục xấu trai đã ngoẹo cổ ngủ khò.

Ở đằng này, Judas và Manuel Ngô đang ăn bữa tối cùng nhau trong ánh sáng lung linh của những ly nến. Vốn hay bị căng thẳng thần kinh nên người Mục sư trung niên thường chọn loại có hương thơm; bữa nay anh đốt ly nến hiệu “Glade”, điều-hương của hãng này vừa ấm mà lại không quá nồng nên dẫu ai có mẫn cảm với dầu-thơm cũng có thể chịu được.

Nicolas Trực hỏi:

– Con đốt mấy loại vậy Anh?

– “Angel Whispers”, “Enchanted Evergreens”, “Pine Wonderland” và “Fall Night Long”. Những mùi này giúp dễ ngủ và xoa dịu tinh thần rất tốt.

Judas cất giọng mời:

– Lại đây ăn gà chiên nè Thầy.

Ban nãy hai đứa nó có mời, nhưng vì buồn ngủ quá nên Nicolas Trực không có ăn chung. Giờ tan giấc mộng đẹp nên ông mới đổi ý mà lại ngồi ăn cùng. Và trước nhiên, ông sẽ đi vệ sinh răng miệng cái đã.

– Ở trỏng có nước súc miệng “Listerine” không cồn hương kẹo dẻo đó Thầy.

– Cảm ơn con nghen.

Judas cũng đứng dậy đặng đi lấy bộ cùi-dìa bằng giấy cho Nicolas Trực. Về phần Manuel Ngô, anh lại kệ bếp mà soạn coi Thầy mình ăn loại mỳ nào được.

Chừng Nicolas Trực trở ra, đã thấy trên bàn bày sẵn một bộ cùi-dìa và gà chiên. Người tín hữu Nam Kỳ còn để cho ông chai bia và một cái tẩy.

– Thầy ăn gì được Thầy?

Nicolas Trực coi từng bịch mỳ rồi nói muốn ăn gói này.

Manuel Ngô cầm lên gói hiệu rồi mở miệng góp ý:

– Mỳ tương đen bị cái phải luộc lâu mới ăn được, luộc ba-sồn ba-sựt ăn vô đau răng lắm.

– Vậy thôi Thầy ăn cái này…

Ngó theo hướng ngón trỏ của Cha Trực thì Mười Anh thấy đó là “Buldak Stir-Fried Ramen: Tomato Pasta”. Mỳ Ý thì hầu như ai cũng ăn được và rất dễ chế biến.

– Cái này hổng có cay dữ há?

– Dạ, cay vừa lắm Thầy.

– Vậy cảm phiền con nấu giùm Thầy nghen?

– Dạ…

Không quá mười phút là Manuel Ngô đã làm xong tô mỳ trộn. Anh còn chiên cho thầy hai cái trứng ốp-la và xúc xích heo.

– Hồi nãy có ăn được đâu vài muỗng cháo mực, thì trời đột nhiên mưa to gió lớn, đã mất tiền mà còn không được no bụng nữa.

– Vậy hai anh có kịp ăn gì không Thầy?

– Để sẵn cái hộp mỳ loại này, thằng Mỹ nó khoái ăn cà chua lắm. Hồi còn là chủng sinh, ngày nào Thầy cũng thấy nó xuống vườn hái ăn.

Judas ngó về phía Ngọc Mỹ mà lắc đầu cười. Không biết thằng nhỏ Do Thái Giáo Alain có chăm bẵm mấy chậu cà chua của anh không đây.

– Thằng Cường thì khoái ăn bắp…

– A, con có loại hương bắp nè.

– Với nó cũng khoái ăn mực với bạch tuộc nữa. Hồi trường mình tổ chức thi đấu túc cầu với Giáo xứ dưới Cà Mau, nó được ăn quá trời mực với bạch tuộc luôn.

Judas che miệng cười:

– Cha có vẻ rất hiểu họ nhỉ?

Nicolas Trực trả lời bằng giọng buồn xo:

– Con trai tôi mà, sao mà tôi không hiểu nết ăn – ý ở từng thằng.

Judas chưa kịp hỏi han thêm gì, thì chuông điện thoại của anh đã vang lên. Có người nhờ anh ra mở cửa giùm.

Manuel Ngô vẫn cắm cúi gắp mỳ ăn. Sáng mai anh còn có tiết dạy nữa nên giờ phải ráng ăn cho no bụng đặng mà có sức đứng trụ suốt ba tiếng. Trưa nay anh sẽ ngủ bù vài tiếng, việc tiếp khách sẽ do anh Ba Đức và anh Năm Tường chịu trách nhiệm.

– Định phải không?

– Con nè Cha.

Samuel Định bước tới cung kính bắt tay với Thầy anh. Mới năm nào anh còn là đứa trẻ mười tuổi đi lạc được ông dẫn về đúng lớp học, bây giờ Trò đã cận tứ tuần và Thầy đã gần sáu mươi.

– Thầy đã về vườn rồi con.

– Sao vậy Cha?

– Chuyện là như thế này…

Nghe xong được đầu đuôi câu chuyện, Samuel Định chỉ còn có nước thở dài. Năm đó Thầy gã là Biệt Động Quân, do bị thương nên ở lại phòng Y Tế của trường điều trị vài ngày, Thầy đã hẹn một mai “Qua cơn mê” sẽ trở thành Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, dè đâu tại chức chưa được mười năm thì đã bị treo Chén rồi. Trước khi bị bắt hồi tục, hai cha – con có ra quán cà-phê gần bùng-binh Cây Liễu nói chuyện chơi cả mấy tiếng đồng hồ; nào ngờ Thầy đã đi theo bùng-binh Cây Liễu luôn.

– Con có nói mai sau sẽ làm tu sĩ…

– Hai vai còn nặng nợ Nước – thù Nhà thì sao mà đóng cửa lần chuỗi nổi Cha?

– Ăn gì hôn anh họ?

Samuel Định nhếch miệng cười:

– Cậu làm như là nhân viên cửa hàng tiện lợi vậy.

Manuel Ngô nhún vai. Rồi chỉ lên hàng kệ bày đầy những bịch mỳ ăn theo kiểu “chó cắn”, tức là ăn chưa hết mà đã xé bịch khác để thay đổi khẩu vị cho đỡ ngán.

– Hãng giống cậu, nhưng là loại “Habanero Lime”.

– Mỳ sốt kiểu Mễ hả con?

– Dạ.

– Thầy không quen ăn những món kiểu Mễ cho lắm. Chua chua, cay cay, mặn mặn,… Thầy thích ăn riêng từng vị hơn là cho nguyên đám nhập thành một băng.

– A, không biết đồ đã giặt xong chưa ha?

Thấy đồ đã được giặt sạch, Manuel Ngô bèn cho một nắp không đầy những hạt “Downy Unstopables – Shimmer” để làm thơm trang phục. Đây cũng có thể coi là giặt thêm lần nữa. Xong bước này rồi, quần áo của ba thầy trò sẽ được anh cho vào máy sấy hong khô.

Chừng chàng Mục sư trở lại nhà nguyện, Samuel Định đã nấu xong tô mỳ cho mình.

– Thầy muốn nghe chuyện “Người trong giang hồ” không?

Nicolas Trực hứng thú gật đầu. Thời trai trẻ ông đã từng mộng làm Sinbad chu du bốn biển với những người đồng đội đầy tài năng trên chiến thuyền oai dũng; tuổi già đến mau quá, mộng đã vỡ tan, ngày tàn sắp đến, ngó qua ngó lại chưa thực hiện được mấy điều mà mình muốn…

– Cứ xem như là một cuốn tiểu thuyết đi…

Samuel Định nói đoạn, đứng dậy mà với tay rút khăn giấy lau miệng.

Nicolas Trực thầm nghĩ cái thói quen đứng dậy lấy giấy ăn của con trai bao nhiêu năm vẫn vậy. Tay dài như vượn chứ có ngắn ngủn đâu mà phải cực thân thế chứ?

– Có một cô gái rất giỏi về đầu cơ chứng khoán nên chẳng mấy chốc đã trở thành cự phú. Rồi không biết bằng cách nào, cô nhập băng với “Mãng Xà Vương” và trở thành một con rắn trong bọn. Những người trong bang đối xử với cổ như con gái ruột và luôn bảo vệ cô hết mực. Để đáp lại ơn nghĩa hộ mạng mình, cổ chỉ cách cho họ làm giàu và chấp nhận liên hôn với một gã phá gia chi tử.

Gã ấy thì không thương cổ, cổ cũng vậy, hai người đồng trang lứa nên coi nhau như bạn thôi. Ngoài ra, cổ không đẹp như người mà gã ấy yêu… Nhưng trái khoáy ở chỗ, ông già chồng lại thương cổ. Song, lý trí của ông mạnh hơn con tim, nên ông không để cho mình và cổ tiến xa hơn nữa.

Có người đồn cổ trúng số độc đắc nên mới có gia tài kết sù, chứ họ không tin vào tài năng thiên bẩm của cổ.

– Judas là luật sư riêng của cổ? – Nicolas Trực cười hỏi.

– Phải, nên Judas mới vắng mặt một thời gian dài.

Judas cười biểu:

– Thế giới mà cổ đang sinh sống thú vị hơn những thước phim điện ảnh rất nhiều.

– Đâu, kể nghe chơi đi cậu.

– Có lần bang chủ của “Thiên Sơn Môn” là Chó Sói Lửa than thở với thằng bạn, “Tao quá đẹp trai để chết.” Thằng bạn của gã mới đáp lại rằng, “Tao định bắn mày mà nghe vậy cho nên sẽ tha chết cho mày.” Gã mới hỏi, “Tại sao vậy?” “Tại vì pháp luật luôn khoan hồng đối với người bị bệnh tâm thần.”

Nicolas Trực phá lên cười.

Samuel Định bồi thêm:

– Tội nghiệp Chó Sói Lửa. Không có đứa nào dưới trướng công nhận gã đẹp trai hết. Mặc dầu gã đẹp trai thiệt, đẹp đến độ bị nhận lầm là tài tử Hollywood là chuyện thường đến độ khiến gã nhàm tai.

Gần bảy giờ sáng, Nicolas Trực mới đánh thức các con dậy. Lát nữa thằng Mỹ phải đi chích ngừa uốn ván, cho chắc-ăn, ai biết được ngày đầu khỏe mạnh – ngày kế sanh biến chứng thì sao?

Trong lúc đợi hai thằng con Công Giáo súc miệng, Nicolas Trực lên Cung Thánh, hay nói đúng hơn là giảng đường, mà chụp vài bức làm kỷ niệm với hai đứa con họ Ngô và người tín hữu Nam Mỹ. Nhà trên lúc ấy tịnh không bóng người thăm viếng, chỉ có một đàn bồ câu hiền hòa đang nhặt nhạnh những vụn bánh mì baguette mà Kiến Tường để lại trước khi về nhà cùng em họ, bốn bề chan hòa ánh nắng ban mai và sắc màu rực rỡ của những tấm tranh-kiếng gắn xung quanh gian phòng, và những hàng ghế – bục giảng còn vương hơi lạnh của một đêm mưa thăm thẳm sầu. Dù rằng ngày nào anh em cũng cắt cử nhau quét nhà và lau chùi đồ vật, nhưng bụi vẫn hoàn bụi, ngồi chưa nóng chỗ mà đã nhám đí* rồi. Thành thử, trước lúc mở cửa lớn, phải để cho vòi tưới cây xịt khoảnh sân khoảng đâu mươi – mười lăm phút.

– Tụi con xong hết rồi Cha.

Đức Cường vừa nói vừa nâng tay áo lên ngửi. Công nhận đồ rất sạch mà lại vô cùng thơm dai và sớ vải thì hết sức mềm mại. Kỳ Anh có cho anh và Ngọc Mỹ mỗi người một bộ đồ nghề giặt giũ, xài đâu cũng được một quý lận.

Judas đưa ba thầy trò về bằng chiếc xe “Jeep – Wagoneer” trắng tinh của mình. Hai anh em họ Ngô cũng đi chung nữa.

Ignacio Cường chỉ tay vào sáp thơm treo ở máy điều hòa bên phía người lái mà hỏi:

– Anh chọn mùi gì vậy? Lần trước tôi đi xe của hai anh họ Võ có thấy một cục.

– “Febreze Plug- Platinum Ice”. Cũng nhờ ông mập Cao Đài giới thiệu nên mới biết mà xài.

– Khắc Xương hả?

– Ừ.

Khu chích ngừa tuy mới mở cửa nhưng đã có đông nghẹt người ngồi chờ. Có nhiều kẻ mới vừa vô đã được dẫn đi vào phòng trước vì đã móc nối với cò.

Stephen Đoàn tới quầy trực ghi danh và bốc số, rồi ra gốc cây ngồi chờ thời. Bây giờ mà phát cho anh cái giỏ và cái cần câu thì chẳng khác nào Khương Tử Nha bên bờ sông Vị. Bạn bè của anh đã đi mua đồ ăn – thức uống hết ráo rồi; ở đây không có căn-tin, mà nếu như có căn-tin thì mọi người cũng sẽ ra ngoài mua vì phần đông căn-tin Y Tế thường bán mắc mà lại không được ngon. Gần đây có một quán nhỏ chuyên bán những món Việt “cách tân”, mở bán từ rất sớm, chắc là mấy người đó đã qua bên bển mà chọn điểm tâm.

Do vẻ ngoài quá giống những tay đá cá lăn dưa nên không có con cò nào lại hỏi thăm Stephen Đoàn. Nhờ vậy anh khỏi phải bị làm phiền và làm tiền.

Lúc bấy giờ đã hơn tám giờ sáng, trong nhà đã chật ních nên những người đến sau ra ngoài sân ngồi lố nhố; những băng ghế đá hoa-cương chẳng mấy chốc đã kín chỗ. Thời may ở đây có trồng bàng và điệp nên bầu không khí mát rượi hơn cả trong nhà.

Stephen Đoàn mở album trong điện thoại ra coi. Cái máy của anh thuộc loại rẻ tiền nên anh ít đem ra chụp hình, thường là anh nhờ người khác chụp rồi gửi qua máy của anh. Duy có đôi lần, vô tình bắt gặp cảnh tượng nào đó hay một khoảnh khắc đẹp đẽ, anh sẽ tự mình ghi lại. Một trong số đó là kỷ niệm này…

Đó là tấm hình duy nhứt mà hai người chụp riêng, nối cảnh là ở một góc sườn núi Cô Tô hôm nào. Trong bức ảnh, nàng ngồi tựa đầu vào vai Stephen Đoàn, trên môi nở nụ cười buồn ơi là buồn; và anh, anh chẳng có lấy một nét cười. Hai người ngồi xích lại gần nhau, nhưng đôi tim không dám khởi lên bất cứ ý niệm nào của Trái Cấm, hết thảy chỉ là một di ngôn của “Đoạn cuối Tình Yêu”. Phải, “Nghìn trùng xa cách, Người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà giữ cho Người.”

Tiếng đọc số đều-đều vang bên tai Stephen Đoàn. Những người mua số từ cò đi cà-ễnh cà-ễnh vô chích, dáng điệu thong dong như đi dạo chơi của họ đã khiến những người ngồi chờ từ rất sớm mà vẫn chưa được kêu phát bực. Nhưng rồi gây với ai bây giờ? Gây với bầy cò ư? Hay là kẻ dư tiền – quý thời gian? Phải chăng nên trút hết mọi phẫn uất với cái đám “đồng ruộng” cho bầy cò kia mặc sức bay lả bay la?

Cất điện thoại vào túi áo trong, Stephen Đoàn lần tràng hạt trong lúc chờ tới phiên mình. Trên đầu anh là nhà của gia đình chim-sâu, cái tán cây ấy vừa đủ um tùm để che giấu chiếc tổ bé-con của chúng và không sợ những “Thợ săn trong thành phố” sẽ xé nát sự sum vầy ấy.

“Số 79…”

Stephen Đoàn hớt hải chạy cái vù vô phòng. Cái loa vẫn ra rả đọc số của anh, kèm theo lời hối thúc của nhân viên trực quầy. Chẳng lẽ anh phải mọc cánh bay thì họ mới vừa lòng sao?

Tại đây, bác sĩ coi sơ qua bản kết quả giám định vết thương, kế đó cầm bản kết quả xét nghiệm máu lên đọc một chút, rồi mới cất giọng hỏi Stephen Đoàn đôi ba câu về tình hình sức khỏe của anh hiện thời, cũng như cơ thể của anh có bị dị ứng hay mẫn cảm với loại thuốc nào không. Sau khi chắc chắn mọi thứ, ông mới yên tâm mà tiến hành chích ngừa uốn ván cho anh.

Mới đầu chích không đau, sau thuốc thấm mới bắt đầu đau nhức. Cánh tay trái của Stephen Đoàn nặng như đeo chì, giơ lên – hạ xuống cũng khó khăn. Ông bác sĩ nói rằng anh bị suy nhược thần kinh – tim nên rất dễ bịnh bậy; phải thả lỏng tâm trạng và ăn uống bồi bổ nhiều vô thì sức đề kháng mới mạnh mẽ được. Anh vâng – dạ cho ông bác sĩ vui, chớ tiền đâu và thời gian đâu mà anh có dư để làm hai việc đó.

Ra sân ngồi đợi đâu khoảng mười phút hơn, Stephen Đoàn mới được Cha Trực dẫn ra xe. Nãy giờ đi kiếm chỗ đậu xe gần chết, người nào người nấy xây xẩm hết mặt mày, bực quá nên không ăn không uống gì luôn mà chạy vòng-vòng mấy cuốc đặng khỏi đóng tiền phạt oan mạng.

Vừa mới ra băng sau ngồi, chưa kịp cài dây chi sất, Stephen Đoàn đã nghe Samuel Định hỏi rằng:

– Anh đây muốn ăn ở đâu? Tôi bao.

Nhờ sống chung với Ignacio Cường nên Stephen Đoàn đã bỏ được câu “Sao cũng được”, anh bèn đáp ngay tắp lự:

– Hay là ghé quán hủ-tíu sa-tế ăn đổi món đi. Ở đó còn có bán kèm món hủ-tíu nai và hủ-tíu khô nữa.

Samuel Định gật gù:

– Cho địa chỉ đi anh…

Manuel Ngô mím môi hỏi:

– Có chỗ đậu xe không anh?

– Quán này tuy ở trong hẻm nhưng có sân riêng nên tha hồ để xe.

Samuel Định thở phào nhẹ nhõm:

– Vậy là được rồi… Trong hẻm khó vô cũng không sao…

Nhác thấy mưa bay lất phất, Samuel Định tức cảnh sinh tình mà mở bài “Thành phố mưa bay” của nhạc sĩ Bằng Giang qua tiếng hát của Thái Châu. Anh thích mùa mưa bởi lẽ nó có hai thái cực rõ rệt: Bao người lầm than vì bán buôn ế ẩm và bao người mừng vui vì đỡ tốn tiền nước tưới ruộng vườn. Và anh thích mùa mưa là do yêu tiếng mưa rơi, tiếng trầm bổng hay gắt gỏng, tiếng êm đềm hay dữ dội tột cùng, anh đều mến hết.

Vì bị lấy lại chỗ thuê bất tử nên ông chủ buộc lòng phải dời vô đây bán để giữ thương hiệu và khách quen. Thành thử quán chỉ lai rai chứ không đắt.

– Trời, nay mày lớn quá vậy Mỹ?

Hỏi ra mới hay hồi mẹ Stephen Đoàn còn sống, bà thường hay dẫn anh lại quán của ông mà làm một tô hủ-tíu đầy vun. Sau khi bà qua đời, anh không được ai cho ăn nữa. Mãi đến năm anh mười tám tuổi anh mới trở lại quán của ông mà ăn. Đúng là “Mồ côi cha ăn cơm với cá – Mồ côi má lót lá mà nằm”.

– Bữa nay dẫn bạn tới ăn ủng hộ chú Ba mày hả?

– Dạ.

Ngó thấy khoảng sân rộng rãi, lại trồng nhiều cây sanh cắt tỉa công-phu, Samuel Định nảy ra ý tưởng mời các Thầy, các anh em trong Hội Thánh và tín hữu Judas lại đây ăn điểm tâm sáng, để cùng nhau bàn chuyện Đời – chuyện Đạo cho vui.

Thể theo lời của chú Ba, quán này bị chết tên là “Quán Hai Hòn”, vì sân trước để hai hòn non bộ trấn trạch. Ông đã cất công nghĩ ra cái tên hay gần chết mà khách ăn cứ gọi bằng cái tên bẹo gan kìa hoài. Nhìn lên cửa lớn mới thấy bức hoành-phi đề “Phước Niên Hữu Dư” viết bằng chữ Nôm sơn son thếp vàng hực hỡ; ai biểu ông đặt tên quán như vầy làm cho khách làm biếng gọi đúng.

Mất khoảng nửa tiếng hơn, những người mà Ngô Gia Định mời đến mới có mặt. Đường thì có chút xíu, xe cộ đông như mắc cửi, lại thêm trúng giờ hành-chánh, nên không thể tới mau hơn được. Ông chủ quán lúc bấy giờ mới cười tươi nổi, nãy giờ tưởng đâu bị trác rồi chớ.

Bé Hải đi khoanh tay mà thưa hỏi một vòng, sau rốt mới trở về ngồi cùng ba mẹ em. Hoàng Minh Tâm bị cấn cái bụng bầu nên ngồi xuống rất khó khăn, chồng chị phải đỡ và Kiến Hữu phải giữ chiếc ghế cho thật chắc thì chị mới ngồi được.

Những người khách mà đứa cháu “nước lã” đem tới phần đông đều có tướng mạo bảnh bao, sang trọng; coi mòi đều là dân lắm tiền nhiều của. Nhưng theo kinh nghiệm nhiều năm chơi chứng khoán và theo dõi các nhà đầu tư xứ cờ hoa, ông dám chắc cái người giàu nhứt trong đây là nó.

Sáu Nghệ và vợ cưới nhau đã lâu mà chưa thấy có hỷ tín. Cả hai vừa chạy chữa ở bệnh viện Sản Khoa vừa thành tâm phó thác mọi sự theo Thánh Ý của Chúa. Nếu như đến cùng vẫn không thể có con ruột, thì hai người sẽ dành nhiều thời gian lo cho con của thiên hạ.

Trước lúc cầm đũa lên ăn, đương nhiên là phải đọc Kinh Cầu Nguyện và làm dấu Thánh; mỗi nhánh làm theo ý mình chứ không làm gộp theo bên nào hết. Samuel Định làm bên Công Giáo và Judas làm bên Tin Lành. Riêng Kiến Hữu thì niệm Tứ Ân theo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa”.

Chú Ba vừa trông coi xấp nhỏ bắt hủ-tíu vừa lâu-lâu đưa mắt dòm ra bàn. Áng thờ Quan Ông đang tỏa hương nghi ngút, thứ nhang trầm ông đặt mua ở mấy tiệm chuyên bán đồ cúng ở bên Thái.

– Rồi, rồi, giờ tôi dọn bàn được chưa quý vị? Kẻo hủ-tíu nở hết là mất ngon á.

Bàn ăn bỗng chốc thành nơi tranh luận Kinh Thánh giữa Tin Lành và Công Giáo. Lớp trẻ nhường hết cho lớp già, bởi dẫu sao tuổi Đạo của họ cũng không cao bằng các Thầy.

Đáng lý bữa điểm tâm chỉ mất chừng một tiếng, vì cuộc tranh luận mà kéo dài gần ba giờ đồng hồ, ông chủ quán ngồi trong quầy theo dõi cuộc tranh luận mà tưởng đâu sắp có chiến tranh xảy ra. Công nhận ông nào cũng thuộc loại “già-gân”.

Trước lúc đường ai nấy đi, La Viễn Phương hẹn Lữ Quân Trực một ngày không xa sẽ tái ngộ ở quán cà-phê bên Quận Thủ Thiêm; ông vẫn còn chưa thỏa mãn với lời biện giải và phản bác của Nicolas Trực. Nicolas Trực gật đầu cái rụp và ra kèo ai thua phải đãi một chầu bánh-bèo với nước sâm. Mục sư Phương chịu liền.

Vừa về đến Giáo xứ, ba thầy trò đã nghe tiếng cố Toàn la bai bải:

– Đứa nào hôm qua xài nước không tắt vậy hả? Có biết tháng này tiền điện – tiền nước tăng bao nhiêu hông? Tổ cha quân nào xài nước quên khóa…

– Cố, cố. – Nicolas Trực vừa nói vừa kéo cố Toàn đi ra sau cây sứ trắng.

Cố Toàn lụm cụm đi theo:

– Chi bây?

Nicolas Trực nói nhỏ vô tay Peter Toàn.

– Ủa nói vậy là mấy đứa bây hả?

Cố Toàn xẽn-lẽn xin lỗi xấp nhỏ, rồi sượng ngắt biểu tụi nó giải tán.

Xấp nhỏ bị mắng oan trề môi cả thước, nhưng vẫn cung kính chắp tay xá ông cố lẩm cẩm một cái rồi mới tan hàng.

– Cố, vô phòng con nói chuyện riêng… – Y-Nhã Cường chỉ lên lầu trên của khu lưu xá.

Nghe xong đầu đuôi ngọn ngành, cố Toàn chỉ biết thở dài thườn thượt. Nhà nguyện nằm ngay chóc ngã tẻ lên đại lộ; mấy năm nay bướm ong ở đâu đổ hô về dập dìu như trẩy hội, hết dụ khị lại lấy chức – lấy quyền ra hăm he nhượng đất.

Y-Nhã Cường chấm dứt cuộc nói chuyện bằng một câu kết:

– Con sẽ đệ đơn lên Phủ Tổng thống mà yêu cầu ổng dỡ bỏ bản sơ đồ này.

Vì đã tới giờ dạy Giáo lý Hôn Nhân nên Đức Cường xin phép rời đi, Ngọc Mỹ cũng phải lo dạy nhạc cho Ca Đoàn Thiếu Nhi nên cũng không thể hầu chuyện Nicolas Trực.

Nicolas Trực buồn tình kiếm quán cà-phê nào đó mà ngồi nghỉ chân, sẵn nạp tiền cước cho điện thoại luôn. Ông đang ở khu Đông nên sẽ lựa một quán trong chỗ này.

Đón ông Linh mục bị đuổi là giọng ca của Trang Mỹ Dung và Minh Phụng trong bài Tân – Cổ Nhạc “Ai hỏi tên Anh?” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này ba ông ký tên là Minh Kỳ – Dạ Cầm, với phần Vọng cổ của soạn giả Viễn Châu.

– Ổng nói ổng nhận hối lộ vì thương người.

– Thì đúng rồi, sai đâu mà bắt bẻ người ta.

– Sao đúng hả?

– Ổng thương ông Washington.

Nicolas Trực đi qua cái bàn đang rộn vang tiếng cười và lời bình luận để ngồi xuống cái võng kê bên hông quán. Ông thích ngồi đây uống cà-phê, lúc nào đau lưng quá thì có sẵn chỗ nằm luôn.

Góc này có cây trứng cá sanh đôi, tức là một gốc mà hai cây mọc chồng lên nhau, năm năm – tháng tháng hợp thành cây đại thụ; mỗi cây có tán chừng tám mét, hai cây gộp lại bao trùm gần hết mái nhà nên bên dưới mát dữ lắm và không cần phải sắm nhiều cây quạt.

– Bữa nay uống cà-phê hay nước mía, Cha?

– Cho tôi một ly nước mía có bỏ đậu phộng. Nắng vầy nuốt cà-phê hết vô rồi.

– Rồi Cha ăn gì chưa? Tôi bới cho Cha một tô.

– Sáng giờ ăn muốn bể bụng rồi. Chắc tới khuya mới kiếm cơm ăn.

Người nãy giờ nói chuyện với Nicolas Trực là em trai chủ quán, anh ta là một cư sĩ Phật Giáo tu tại gia và không lập gia đình, anh ta và ông trạc tuổi nhau nên nói chuyện như hai người bạn đồng niên.

– Chức Thánh thành sự nhờ sự gian dối thì sớm muộn gì Chúa cũng lấy lại thôi.

Pháp Thân cười buồn:

– Sư trụ trì của cái chùa mà tôi hay viếng mới bị bắt gặp đi đêm với gái… Bữa nay lại nghe cái tịnh thất nào trên An Giang tu mà trữ đồ ăn cả đống…

– Đâu? Chú Tư cho tôi coi cái tin đó được không?

– Ủa Cha Cường?

Y-Nhã Cường đọc bài tố cáo tới đâu, đôi mày kiếm của anh đanh lại tới đó. Anh tức mình xổ luôn một tràng cho Pháp Thân nghe.

– Trời, vậy mà họ dám dựng chuyện bậy bạ!

– Tu thiệt thì hè nhau phá, tu xạo thì xúm lại sì-sụp vái lạy. – Y-Nhã Cường nghiến răng trèo trẹo.

– Cha biết địa chỉ của ngôi tịnh thất đó không?

– Ở đó không có địa chỉ, không có bảng hiệu, và tuyệt nhiên không có hàng rào dựng lên để giữ của. Đặc điểm để nhận ra là hàng cờ phướn treo vòng quanh dưới mái nhà mà thôi.

Pháp Thân chắp tay mà nói lời cảm ơn người Linh mục đáng tuổi cháu mình.

Y-Nhã Cường cũng chắp tay đáp-lễ lại.

Không làm phiền hai tu sĩ Công Giáo nữa, Pháp Thân xin phép đi làm nước mía đãi hai thầy – trò. Đợi vài ngày nữa, có lẽ chú sẽ lên đó ở và phụ giúp tịnh thất nhân mùa An Cư Kiết Hạ. Đã lâu lắm rồi, chú chưa được nếm trải hương vị của Bát Nhã Ba-La-Mật…

Một đứa nhỏ cởi trần mặc quần đùi bước lại hỏi Nicolas Trực:

– Cha tên gì Cha?

– Nicolas Trực.

– Cha tên Trực mà con tưởng đâu “Kiếm Bạc – Kiên Giang” Nguyễn Trung Trực tái thế không hà, cầm cây củi mà tưởng đâu ngân kiếm…

Biết mình nói hớ, đứa nhỏ tính dợm bước chuồn đi. Nhưng đã bị “bàn tay Thanos” của Cha Cọp kéo lại.

– Qua thấy cái gì? Nói!

Đứa nhỏ mếu máo khai tuốt tuồn tuột, khai sạch sành sanh, nhớ tới đâu là hộc ra hết tới đó, không dám giấu lại một chữ.

– Rồi có về nói lại với ai không?

– Dạ có…

Rồi nó lại làm một vòng tuần hoàn như ban nãy nữa.

– Rồi xong. Cái mỏ của nó còn hơn con bồ-nông. – Nicolas Trực thở dài. Ông và hai đứa con tính ỉm luôn cho bà con yên tâm, vậy mà cái thằng A-li-ba-lơn này nó đi truyền tin ráo trọi rồi.

– Mày tới cướp đất – đốt nhà người ta mà đòi người ta cơm dưng nước rót hả? Mẹ, nó chưa vác dao chém mày là may rồi đó con.

– Mẹ, nếu hôm qua hổng bị ổng đe, dám tao giết thằng Cường với thằng già kia luôn rồi. Đêm hôm khuya khoắt có biết ai là ai đâu mà sợ bị phát hiện.

Thấy thiếu mồi nhậu, một tên trong bọn liền ngoắc em gái lại mà trách cứ, sẵn tay vỗ mông một cái luôn.

Thằng khác vừa quẹt cái chân gà vô chén muối ớt – tiêu – chanh vừa quạu quọ hỏi:

– Tao nghe đồn thằng Mỹ hiền lắm mà, đụng chút là khóc, sao bữa đó nó đánh tao như con hổng đẻ vậy?

Thằng bị đánh u đầu nhếch miệng cười:

– Mày thử ở gần con cọp bốn năm đi, rồi lúc đó tâm tánh mày sẽ thay đổi ra sao.

Thằng mặc áo đỏ trề môi bình phẩm:

– Con của Võ Tòng có khác.

Thằng cởi trần tức mình hỏi:

– Võ Tòng là thằng nào nữa? Ba nó họ Đoàn mà…

– Tao quên. Tao nghe “Tòng”, “Tòng”, là nghĩ tới thằng cha quốc tịch Tàu.

– Thằng đó nó ác một cây luôn.

– Đ* má, hèn chi con nó y chang nó luôn, không khác một dem nào hết.

Nhỏ em mặc đầm ngắn màu đỏ tự nhiên đứng ngó vô bàn của cả đám hoài mà không hé răng nửa lời.

Một thằng trong bọn bực quá đứng phắt dậy, rồi mở bao tải nằm dưới chân con nhỏ bán bia ôm.

Trong đó là cái đầu con chó đã bị thui chín, kèm theo dòng huyết thư, “Liệu hồn tao.”

oOo

Trong lúc chờ tên nghi phạm trở ra, Martin Cảnh mở bài “Như giọt sương khuya” của nhạc sĩ Y Vân do Anh Khoa ca. Cũng may trạm xá có sẵn bác sĩ phụ trách giám định vết thương nên anh mới…

Do không rõ Khán Cảnh chết ngày nào nên nhà họ Thường hằng năm cứ lấy một ngày rảnh rang nhứt làm đám. Còn hai hôm nữa là tới ngày giỗ “giả định” của anh Hai, hung thủ vẫn ung dung sống thơ thới, và án oan sai của anh Hai sắp bị vùi lấp bởi luật định chó má của chính phủ.

Đức Hoàng đã trở thành diễn viên có tên tuổi, nhiều chương trình giải trí muốn mời hắn tham gia nhưng hắn từ chối hết vì không muốn bản thân tiếp tay tẩy não giới trẻ Nước Nhà. Do đó, hảo cảm của người trong ngành đối với hắn bắt đầu sụt giảm; hắn cũng đách cần cái tình nghĩa kim tiền của cái đám đó, cứ hễ đóng xong là về thẳng nhà nghỉ ngơi rồi chốc nữa đi chơi với mấy thằng bạn thiết. Hắn nhớ hoài nhớ mãi chuyện về một gia đình giàu sang nức tiếng, hồi thạnh thời hàng hàng lớp lớp giới giải trí bu vô bắt quàng làm họ, tới chừng rớt đài cóc thấy đứa nào ú a ú ớ hỏi thăm.

– Nay tụi bây đi ăn ở đâu, tao bao? – Đức Hoàng hỏi trong lúc lấy dao cạo râu.

– Đi ăn lẩu đi mậy. – Chí Công đề xuất liền.

– Nực chết mẹ ăn lẩu cho cháy luôn hả? – Khán Bình cự.

– Vô phòng có gắn máy lạnh, mát mà.

Tống Ngạn dàn hòa:

– Thôi, bữa nay nghe lời thằng Công đi.

Chiếc xe “GMC – Yukon” đưa bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” đến nhà hàng chuyên bán các món Á Châu và trái cây Nam Kỳ. Nhà hàng chia làm năm khu: Tiệc tùng, Hội nghị, Sân vườn, Phòng riêng và Phòng chung. Đức Hoàng đặt một phòng riêng đánh số 259 có góc nhìn xuống thác nước nhân tạo, số ghế ngồi đủ cho tám người, bàn tròn – kiếng xoay rất thuận tiện trong việc ăn uống.

Trước lúc gọi nhân viên vô đặt món, Đức Hoàng nói:

– Bữa nay sẽ có một vị khách mời mà mày sẽ không vui đó Bình, nhưng mày cần nói chuyện với người này thì mới mong giải được án oan cho anh mày.

Khán Bình gật đầu chấp thuận.

Đức Hoàng bèn nhắn tin mời người đó vào phòng.

Bữa nay Martin Cảnh bận âu phục đàng hoàng, tóc tai chải láng-cóng, không còn cái vẻ luộm thuộm như thường ngày nữa. Sau một lúc chào hỏi, chàng Pháp y Công Giáo mới chọn cho mình cái ghế kế bên Khán Bình. Lúc này Đức Hoàng đã nhấn chuông mời nhân viên lên ghi món, hắn không quên kiểm lại hầu bao một lần nữa để tránh bị lên trang nhứt của những tờ báo nhiều chuyện.

Sau khi hội ý, nguyên nhóm bèn gọi một con vịt quay Bắc Kinh, một cái lẩu tôm chua cay kiểu Thái cỡ lớn, năm dĩa gỏi tôm – thịt với củ hũ dừa, hai con cá tai tượng chiên xù cuốn bánh tráng và rau sống chấm với mắm nêm và một mâm ốc vòi voi nướng mỡ hành và bơ-tỏi.

Trong lúc chờ món, Martin Cảnh vịn vai Khán Bình mà hỏi:

– Anh Hai của anh có đi cai nghiện ma túy chưa?

– Tôi không biết. Năm đó ảnh vào đô thành học tập ra sao gia đình đều không hay không biết hết.

– Vậy ai nói cho anh nghe tin ấy?

– Bạn bè của ảnh, rồi chủ nhà trọ.

– Lai lịch chủ nhà trọ ra sao?

– Làm thầu đề. Trong nhà có một đứa con bị nghiện nặng.

– Căn cứ vào đâu mà chủ nhà trọ dám áp cho anh Hai anh cái chứng trên? Dựa vô biểu hiện của con trai ruột hả?

– Chắc là vậy.

Martin Cảnh đập bàn:

– Sao gia đình anh dễ tin người vậy? Ở tuốt ngoài miền Trung thì cũng phải ráng làm một chuyến vô Nam thăm hỏi chớ?

Đức Hoàng cũng có suy nghĩ y hệt như Pháp y Cảnh.

Martin Cảnh lại trình bày:

– Rất có thể anh Hai của anh không phải là bị nghiện ngập mà lên cơn đập đồ, mà là bị người ta cho uống thuốc loạn thần, thuốc đó chỉ dành cho người điên chứ người khỏe mạnh uống vô là mất tỉnh táo liền.

Khán Bình mím môi mà nói trong sự uất hận:

– Ảnh có nói cho chủ nhà trọ biết sự ghé thăm của gia đình tôi…

oOo

Bính khai nhận rằng do nhận tiền của Lê Hoài Sang nên mới đi tung tin Thường Khán Cảnh ăn chơi lêu lổng – nghiện ngập hút chích. Ban đầu ông tưởng Hoài Sang ghét Khán Cảnh mà thôi, dè đâu đằng sau đó là cả âm mưu đổ vạ tội giết người cho cậu đó, chừng ông nhận ra và định đi minh oan giúp cẩu thì cẩu đã bị mổ cướp nội tạng rồi.

Bản tin chính phát sóng trên đài Quốc gia hôm nay có sự tham gia của Tổng thống Hác Đăng Khánh. Chú xin phép đại diện ngành Tư Pháp, Lập Pháp và Hiến Pháp mà cúi đầu tạ lỗi với gia đình Thường Khán Cảnh, không quên hứa sẽ điều tra vụ này tới cùng để trả lại sự trong sạch cho những dân oan khác, cũng như đòi lại công bằng cho những người bị hung-thủ thủ tiêu trong thảm án này.

oOo

Hè đã sang nhưng con nhỏ Quỳnh Như vẫn phải chạy đôn chạy đáo đi học.

Vừa tan lớp Anh ngữ, nó liền chạy vù đến quán cà-phê “Sóng Nhạc”.

Trong quán vẫn phát những bản nhạc mà nó không biết, những giọng ca vàng son một thuở cứ nối tiếp nhau đưa thính giả về lại một góc trời mơ huyền – diễm ảo. Ông chú của nó đang coi người ta sửa cái máy rót nước giải khát, khuôn mặt nhăn hơn con khỉ ăn ớt.

– Đang phát bản gì vậy chú?

– “Đỉnh đời” của Hồng Vân, tức bút hiệu của nhạc sĩ Trần Quý, do Giao Linh ca.

Quỳnh Như than bài này có nội dung buồn quá.

Thừa Tân bật cười:

– Uống gì không cô?

– Con uống si-rô bảy màu nha chú.

– Lại khều thằng mập kia kìa.

– Dạ… Tặng con một bản đi chú.

– Thôi, cô thì không có tặng bản nào hết. Cô chê nhạc tôi ưa hoài.

Quỳnh Như giơ tay cam kết:

– Bảo đảm không chê.

Vậy là Thừa Tân mở bài “Dậy thì” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ do Thanh Lan ca.

– Vừa lòng chưa?

– Dạ rồi.

Sau khi lấy ly đá bào, Quỳnh Như trở lên gác mà nằm võng nghỉ lưng. Biết cái tánh nó ưa làm biếng, nên lần nào ông chú cũng đứng ở trên cầu thang mà gõ vô tường vài tiếng để nó biết đường mà sửa lại tư thế và chỉnh trang y phục.

– Cô kêu tôi kiếm cho đã rồi không thèm nghe.

Quỳnh Như lè lưỡi và nhún vai.

Thừa Tân vỗ đầu Quỳnh Như một cái, rồi leo lên sô-pha mà nằm thẳng cẳng. Nằm đâu được một lúc, anh chuyển sang tư thế vắt tay lên trán mà lẩm bẩm tính toán chi đó.

Vì ông chú đã lên nên Quỳnh Như hết dám vừa nằm vừa ăn. Nó ngồi đàng hoàng trên võng, lưng cũng thẳng thớm chứ không ngồi cái tướng gù lưng – ễnh bụng nữa.

– Tôi nhớ có một tác phẩm dành cho tuổi học trò có nội dung như vầy: Một chàng đạo diễn chán đời tình cờ gặp được một cô bé đang trổ mã, hai người mau chóng kết thân và trở thành bạn tốt của nhau. Nhưng dần dà, cô bé hiểu lầm chàng ta thương chị nó vì chị nó rất đẹp và sành điệu, nên tập tành thay đổi cho giống người chị ăn chơi ấy. Và sau lần chứng kiến nó trong dáng vẻ người chị, chàng ta đã không bao giờ còn gặp lại nó nữa; vì không thể nào chấp nhận một đóa hàm tiếu chân phương lại biến thành bông hồng gai góc và đã bị lấm lem bụi đời.

Quỳnh Như gật gù.

– Tôi thích cái kết của truyện đó.

– Con thương món ngon – vật lạ hơn hà. Phải lòng người ta chi cho sớm để rồi bị thiệt trăm bề.

Thừa Tân mở máy lên một đỗi, mới nói, nói mà mắt vẫn dán vào màn hình điện thoại:

– Có một nhận xét mà tôi công nhận tác giả hãy còn đúng đến bây giờ. Nó nằm ở chương 9:

“Phim hay kịch của ta các nhân vật tham nói quá. Lợi thế của phim là hình ảnh, lợi thế của kịch là động tác, tại sao ta cứ phải dùng quá nhiều lời nói để biến khán giả thành thính giả?”

– Vậy chớ ai ý kiến là người hâm mộ của mấy người đó vô chửi thúi đầu luôn đó chú. Muốn tiến xa mà hổng chịu lắng nghe nhận xét thì tiến xa sao được.

Thừa Tân với tay lấy một cuốn sách dạy tiếng Anh trong chồng “phổ cập văn hóa” của con nhỏ. Nghe đâu ông cảnh sát muốn nó phải đạt được IELTS trên tám, nên không tiếc tiền mà cho nó đi học quá trời trung tâm Anh ngữ. Học sao mơi mốt nó hết biết ba má nó là ai luôn thì nguy.

– Cuốn đó tên gì chú?

– “Chùm hoa trắng rụng xuống sân Tình Yêu” của nhà văn Đinh Tiến Luyện.

– Cha, tên lãng mạn quá ta!

Thừa Tân chợt đổi đề tài:

– Tôi nghĩ việc dịch những tình khúc của thế hệ nhạc sĩ trước năm 75 sang tiếng Anh là một điều không thể.

– Tại sao?

– Người Việt có thủ pháp “Bửng lưng bơ lơ” mỗi khi nói về ai đó. Tỷ như nhạc sĩ Vũ Thành An chẳng hạn, trong bài “Không tên số Bảy” có câu, “Sẽ cho nhau đời nhau ư? Đớn đau Anh… Sẽ cho nhau đời nhau ư? Xót xa Em…” vế đầu là câu hỏi trỏng không vậy thì đặt chủ ngữ tiếng Anh ra sao? Trong khi nguyên bản ngữ pháp tiếng Anh thường phải đặt câu có đầy đủ “các vị trí”.

– À há… Chưa chắc gì người trong cuộc nói với nhau, mà có khi là chỉ chung mọi người.

– Rồi bài “Nỗi lòng” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, “Yêu ai yêu cả một đời”, chẳng lẽ lại viết là “When we love somebody, we will love them all of our life”?

– Con hổng dám bàn trình độ văn phạm Anh ngữ của chú…

– Rồi, tôi biết tôi dở tiếng Anh rồi cô.

– Nhưng câu tiếng Việt mà nhạc sĩ đã viết rất ngắn gọn mà lại đủ nghĩa. Còn câu tiếng Anh mà chú đặt ra làm hư hết giai điệu gốc rồi; mà nếu vô tay người giỏi Anh ngữ cũng chưa chắc gì gò nó vô khung vừa hay mà lại sát với ý của nhạc sĩ được.

Thừa Tân thở dài.

– Chú có thấy bài nào từ Việt sang ngoại quốc mà hay không?

– Có, “Giọt mưa trên lá” của nhạc sĩ Phạm Duy, được nhạc sĩ Steve Addiss dịch thành “The Rain on the Leaves”.

– Tại sao không phải là “Raindrop” mà là “The rain” hả chú?

– Tại vì hát hổng được đó con.

Quỳnh Như ôm bụng cười nắc nẻ. Rồi trề môi mà lên giọng bình phẩm:

– Sao ca hổng được chú?

Thừa Tân bèn ca thử theo mẫu câu của nó.

Lần này, Quỳnh Như còn cười lớn hơn nữa. Nó run giọng nhận xét:

– Công nhận y chang cọp nhai đậu phộng.

Thừa Tân cũng vui lây. Rồi lảng sang chuyện khác nữa:

– Những bài hát ngoại quốc dịch sang tiếng Việt thường dễ trở nên hoa mỹ hơn bản gốc.

– Dạ.

Thừa Tân muốn ôn lại tiếng Anh nên chọn một cuốn sách căn-bản nhất trong số đó mà cầm lên học. Chỗ nào anh phát âm chưa đúng và bị nhịu, Quỳnh Như sẽ giúp anh sửa lại liền. Hai chú cháu cùng nhau luyện tập được đâu có mười lăm phút, chứng đau nửa đầu của anh bị tái phát nên việc học hành phải đứt ngang.

Vừa kê gối cho ông chú nằm nghỉ lưng trên võng, Quỳnh Như vừa nói:

– Nhưng mà có nhiều câu tiếng Anh dịch sang tiếng Việt không còn hay mà thậm chí còn bị dài dòng nữa.

– Cô biết câu nào hay không, chỉ tôi với.

– Dạ, “Chó sủa là chó không cắn – Barking dogs never bite”.

Thừa Tân trề môi:

– Mấy câu như vầy thì cô nhớ lẹ ghê!

Quỳnh Như cười tít mắt, rồi lên tiếng đánh trống lảng:

– Mấy bài hát tiếng Anh thời nay chú thích ai?

– “Họa mi Anh quốc” Adele. Sam Smith thời xưa sáng tác rất hay nhưng thời nay tôi hết ưng nổi dòng nhạc đổi mới lẫn phong cách biểu diễn của anh ta rồi.

– Chú có thích Lana Del Rey không?

– Không. Tôi không thích dòng nhạc mà cô này trình diễn.

– Chứ còn khả năng sáng tác và ca hát thì cô này OK đúng không chú?

– Ừ, hay nữa là đằng khác.

– Còn Taylor Swift?

– Không thích luôn.

– Công nhận chú khó thiệt chớ. Hèn chi ế vợ tới giờ.

– Ờ, vậy cho khỏe, khỏi mắc công sáng – trưa – chiều – tối chở đi ăn hàng như cô.

Ngoài sân cây sứ trắng đang rung nhẹ những cành – nhánh trổ bông trắng xóa. Những con chim hiền đang hót véo von trên đó, dáng vẻ thung dung của chúng làm người ngắm bất giác cảm thấy thơ thới trong lòng và vui lây cái niềm vui, vốn riêng rẽ, của chúng. Tiếng ve sầu từ bên kia đường vọng sang; gió càng lớn và nắng càng dữ thì sự ca-xang của những nhạc sĩ có tuổi thọ ngắn ngủi ấy càng hăng say và đắm đuối. Những người bán hàng rong xúm lại chuyện trò trong lúc ế ẩm; điện – nước và những sinh hoạt phí khác tăng hoài tăng hủy đã khiến kiếp đời của họ thêm cùng khốn và vật vờ. Thằng nhỏ được anh giao coi xe đang dẫn xe cho khách; nó học cũng giỏi lắm, song vì không đào đâu ra tiền nên đành phải nghỉ ngang ở năm lớp Mười Hai và bường mặt đi làm đủ thứ nghề để kiếm sống.

– Nói cho vuông, tôi không thích dòng nhạc điện tử hay chèn quá nhiều hiệu ứng âm thanh, thành ra tôi hợp với dòng nhạc trước năm 2000 hơn.

Quỳnh Như lại thích dòng nhạc điện tử và chèn nhiều hiệu ứng âm thanh vui nhộn.

– Bữa hổm tôi có đọc được một bài viết khen ngợi một ca khúc ngoại quốc vì có câu “Em coi tôi như một chiếc áo cũ để quên dưới gầm giường”, tôi cảm thấy tác giả nói hơi quá lời.

– Vậy có bài nào sử dụng hình ảnh chiếc áo mà chú cảm thấy đặc sắc không?

– Có. “Buồn vương màu áo” của nhạc sĩ Ngọc Trọng. Bài này dịch sang tiếng Anh cũng không được luôn.

– Chú có thấy bài nào sử dụng các biện pháp trong văn chương không?

– Trong bài “Không tên số Bảy” của nhạc sĩ Vũ Thành An có một đoạn rất hay như vầy:

“Một làn khói trắng

Ru đời vào quên lãng

Nâng sầu thành hơi ấm

Hơ dịu Tình đau…”

Một khổ ngắn miêu tả thật trọn vẹn hình ảnh một người thất tình đang mượn hơi thuốc lá làm điểm tựa hòng quên đi nỗi sầu thương của mình. Đó mới gọi là nghệ thuật ẩn dụ. Còn nói huỵch toẹt ra như cái bài hát kia thì chỉ là hình thức ví von thông thường thôi. Nghệ thuật ẩn dụ rất khó, còn ví von hay so sánh thì dễ òm.

Sao cười, cô?

– Con đang tưởng tượng mấy đứa tụi con mà bắt phân tích mấy bản nhạc trước năm 75 chắc rớt liệt địa.

Thừa Tân phì cười:

– Phân tích tác phẩm bị rất nhiều người bóp méo thành dạy nói láo và họ ưa nói, “Tác giả đâu có nghĩ như vậy mà lại đi phân tích như vậy.” Phân tích tác phẩm là cách nêu lên cảm nhận của mình về nội dung trong tác phẩm đó một cách tường tận và mang nhiều thiên kiến riêng tây hơn.

– Chú thấy có câu hát nào đáng để làm đề thi không?

– Tôi thấy câu hát “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn…” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông trong bài “Chiều mưa biên giới” đem làm đề thi rất hay.

Hay bài “Tình ca” của nhạc sĩ Phạm Duy. Rồi “Kiếp nghèo” của nhạc sĩ Lam Phương. Và cả những bài nhạc xanh của Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang nữa.

– Tại sao nhạc sĩ hồi xưa họ sáng tác được đa dạng thể loại và bối cảnh vậy chú?

– Nhạc sĩ ngày xưa họ đi nhiều và đi nhiều tới những nơi triền miên đau khổ đầy khói lửa nhân gian, cho nên họ mới có thể sáng tác những bài ca ghi vào lòng người. Còn bây giờ phần đông tới những chốn ăn chơi xa hoa, sợ lấm lem đồ hiệu nên đâu dám bương xuống những chốn khốn cùng kia, chưa kể đến là nhạc sĩ sáng tác mà làm biếng đọc sách và tìm hiểu điển cố Đông – Tây kim cổ nên hiếm có bài nào có nội dung đặc sắc. Có nhiều người làm nhạc sĩ mà lệ thuộc vào thiết bị điện tử tân thời thấy ớn, thành thử giai điệu thì bắt tai mà phần lời lại sáo rỗng hoặc mâu thuẫn nhau.

– Bây giờ nói tiếng Anh “ngọng” với “bồi” mà cũng trở thành trào lưu nữa chú.

– Ừ, “Làm móng” thì nói “Làm móng”, phải nói “Làm nail” mới chịu. “Trang điểm” thì không nói, đi nói “Make-up”. “Dưỡng da”, “Dưỡng nhan” không nói, đi nói “Skincare”. “Lột da” không nói, đi nói “Peel da”. “Tẩy lông” không nói, đi nói “Wax”.

– Chú thấy có trường hợp nào tréo ngoe không chú?

– Có. Duy Quang và Anh Khoa trạc tuổi nhau, hồi trẻ ông Quang ca không bằng ông Khoa, sau này ông Khoa hát không bằng ông Quang.

Tôi vẫn còn giữ một đoạn clip ông Khoa thâu âm trực tiếp “Bài không tên số Bảy” tại phòng trà, nơi mà nhạc sĩ Vũ Thành An đã khen ngợi ông hết lời khi ông biểu diễn “Bài không tên số Bảy” của nhạc sĩ. Ở trên mạng không kiếm ra đâu.

– Chủ nhân của em ơi, xuống phát nhạc cho khách kìa…

– Nghe rồi! Mốt đừng có kêu tôi như vậy nghe chưa?

– Kêu bình thường ông giả điếc hoài.

Quỳnh Như được phen cười bể bụng.

Người điều tra viên hôm bữa ghé quán với hai người bạn, không rõ là cảnh sát hay là người ngoài ngành, nhưng người nào cũng ăn bận hết sức đơn giản và có phần bụi đời.

– Anh uống cà-phê nào?

Người điều tra viên hất cằm giỡn:

– Hổm rày chưa lọt lưới được con nào. Thôi, “vợt” đi cho lấy hên. Mà quầy này cũng của quán anh hả?

– Không. Chú này bị quản lý đô thị rượt hoài, rồi lại bị đám quan địa phương – đám du đãng đòi tiền bảo kê, nên tôi đưa chú về đây mở quầy bán. Ai muốn uống cà-phê vợt và trà-sao thủ công thì qua chú mà uống.

Người điều tra viên cười hỏi. Giọng nói của anh có phần hòa ái hơn trước:

– Không sợ hả?

– Sợ gì anh. Chú này đã hơn bảy mươi rồi. Thương còn không hết, sao lại sợ mất phần?

Ông già bán cà-phê vợt và trà thủ công ngó Thừa Tân mà cười tủm tỉm. Từ ngày vô đây bán, sức khỏe và lợi tức của ông được cải thiện đáng kể; hễ ngày nào mệt thì ông đóng quầy sớm và ra ngoài chợ cóc bên hông quán mà chuyện vãn với những người buôn gánh bán bưng như mình.

– Cho nghe cô Hoàng Oanh ca bài nào mơi-mới đi anh.

Thừa Tân gật đầu:

– “Những đêm đợi sáng” của nhạc sĩ Dzũng Chinh, sẽ do Hoàng Oanh ca.

– Bài này tôi nghe rồi…

– Vậy hả? Lo cho hai con lùn kia riết lẩn luôn.

Quỳnh Như liếc ông già một cái sắc lẻm.

– Rồi, rồi, “Tuổi nhớ” của đôi tác giả Thanh Sơn – Đắc Chung.

Người điều tra viên đưa mắt nhìn người khách vừa yêu cầu bài hát. Người ấy chỉ là một dân công-sở bình thường tới tầm thường, tuổi tác áng chừng nhỏ hơn chủ quán chút đỉnh, da ngăm và cao ráo. Người khách cổ cồn trắng ấy lại hỏi, trong lúc với tay lấy ống hút cho ly trà dâu tằm của mình:

– Học vấn của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có cao không anh?

– Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đâu có học cao, nhưng những sáng tác của ông đều khẳng định được trình độ học vấn của ông là không hề thấp một xíu nào. Cái nhạc sĩ cần là tác phẩm, chứ còn ba cái tấm bằng còng lưng ra học ấy chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ; bởi lẽ họ cho rằng, học cao dữ vậy mà không có lấy một tác phẩm để đời hay đáng trân trọng để người ta đi tìm hiểu.

Quỳnh Như ướm hỏi:

– Vậy ai mà nhạc sĩ thời xưa mà có học vấn cao không chú?

– Có Cung Tiến, Mạnh Phát, Nguyễn Văn Đông, Hùng Lân, Thẩm Oánh, Lê Văn Thiện, Lê Văn Chấn, Hoàng Trọng, Nghiêm Phú Phi, Nghiêm Phú Phát, Nghiêm Phú Đạt, Võ Đức Hảo, Võ Đức Thu, Võ Đức Phấn, Trầm Tử Thiêng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Trường Sa,… Nếu liệt kê ra hết chắc tới mơi mới xong.

Người khách bật cười.

– Nhưng họ chẳng bao giờ ỷ học vấn cao mà coi thường những người bạn đồng nghiệp bị dang dở học hành. Ai giỏi hơn họ trong khoản sáng tác, họ sẽ coi trọng người đó vô cùng.

Người điều tra viên hỏi:

– Tại sao có nhiều nhạc sĩ là lính hả anh?

– Tại vì học rớt nên phải đi quân dịch hoặc tự nguyện tham gia quân ngũ vì lý tưởng của mình.

Ông già bán cà-phê vợt vẫn mê say biểu diễn độc chiêu pha chế của mình. Dòng nước đắng nghét ấy như có chân, hết nhảy sang ly này lại vọt sang ly khác mà không hề rơi rớt một giọt nào. Hai người bạn của người điều tra viên vỗ tay tán thưởng không ngớt, quên đi hẵng cơn ghiền cà-phê. Vài du khách ngoại quốc thấy cảnh hay nên đã ghi lại làm kỷ niệm.

Một người khách hỏi:

– Anh có biết tựa đề nào mà các nhạc sĩ thường hay chọn làm tên ca khúc không?

– “Phượng Hồng”. Một của Trần Anh Mai, tức nhạc sĩ Bảo Thu. Một của nhạc sĩ Hoài Nam. Và một của đôi tác giả sau năm 75 Đỗ Trung Quân và Vũ Hoàng.

Người điều tra viên vừa lấy ống hút quậy đều ly sinh-tố cà-phê vừa hỏi:

– Anh có bài hát nào mà đã thất truyền không?

– “Giòng suối Quê Hương” qua tiếng hát của Lệ Thu, trên bìa đề chữ “Khuyết danh” nên tôi không biết người sáng tác là ai. Điểm thú vị là bài này được thâu trực tiếp khi cô đang biểu diễn ở vũ trường Ritz.

Người khách đang ngồi ở quầy thu ngân sửng sốt hỏi:

– Ghi âm trực tiếp mà còn hát hay hơn những ca sĩ thâu qua máy móc thời nay nữa?

– Giọng mộc của cô đó.

Kết thúc màn biểu diễn, ông già chế cà-phê vô hai cái ly giấy đã bỏ sẵn đá viên đầy vun. Cà-phê của ông đắng nhẹ, hậu ngọt, phần đông uống lại lần sau đều yêu cầu giữ nguyên như buổi đầu, ít có ai đòi thêm hay bớt đường lắm. Âu cũng là kinh nghiệm “quần vợt” mấy mươi năm. Mấy người khách uống thử rồi tấm tắc khen ngợi ông hết lời; do ông là dân Tây học nhưng vì thời thế – thế thời nên phải ra lề đường bán nước thành thử họ nói gì ông cũng đều hiểu và trả lời được hết ráo. Có một dạo ông đã bị đám chóp-bu làm khó – làm dễ vì đã trả lời ba-lơn rằng, “Tôi bán cà-phê với trà chứ có bán Nước đâu mà rượt bắt tôi hoài.”

Rời khỏi quán cà-phê, nhóm điều tra viên trở ra xe. Họ đi bằng chiếc xe bán tải hiệu “Toyota – Tacoma” màu trắng, xe này mướn của một người quen bên Tòa nên giá thuê khá rẻ và giao kèo cũng ít gắt gao như mấy chỗ khác.

Người điều tra viên tiếp chuyện với Thừa Tân hôm bữa bình phẩm:

– Thà bỏ lọt tội phạm còn hơn bỏ tù oan một người.

Hai người bạn của anh thảy đều tán thành. Rồi một trong số đó bắt qua chuyện khác:

– Hồi chưa nổi tiếng, gặp ai hâm mộ mình cũng tíu tít bắt chuyện; chừng nổi tiếng rồi thì kiếm đủ thứ cớ né tránh người hâm mộ.

Người điều tra viên hôm bữa phá lên cười:

– Bởi vậy cho nên tôi đâu có hâm mộ ai. Ai ca bản nào hay thì tôi nghe, ca bản đó dở thì tôi kiếm người khác nghe.

– Chú.

– Chi Yên Hồng?

– Con thèm ăn gà xác chiên quá.

– Ăn dầu mỡ không.

– Đi mà chú. Một miếng thôi cũng được.

Thừa Tân vừa chạy đi mua được đâu mười lăm phút, Yên Hồng chợt lên cơn chuyển dạ. Nó ráng hết sức bấm số gọi cấp cứu, rồi ngất lịm đi…

Khi Thừa Tân trở về, xóm lao động vẫn nhà ai nấy ở, cái máy giả tiếng chim hót vẫn không ngừng vang lên để dụ bầy chim trời, cái nắng vẫn thúc giục những con ve sầu còn sót lại rằng mau cất lên bài ca mừng Hè về.

Mới vừa bước qua cổng rào, Thừa Tân đã ngửi thấy một mùi tanh-tanh rất khó chịu. Nói một cách bất nhã, nó y hệt mùi băng vệ sinh xài rồi mà anh đã từng biết qua một lần đi đổ rác giùm chị dâu hồi về quê chơi dịp Tết. Vốn không phải là vợ chồng với nhau nên mấy cái chuyện kinh nguyện hoặc tế nhị của Yên Hồng anh không có xen vô, thành thử anh không biết do đâu lại xuất hiện cái mùi bắt gớm này.

– Hai đứa… Chú vô nhà được không?

Không có ai trả lời anh.

– Hai cái đứa này… – Thừa Tân xẵng giọng. – Chú vô đại nghen? Đừng có đổ thừa đó.

Nhà trên không có ai. Thừa Tân hốt hoảng chạy xuống nhà dưới.

– Yên Hồng.

Yên Hồng đã xuất hiện tình trạng xuất huyết. Điện thoại của nó còn hiển thị cuộc gọi cấp cứu; số giờ thực hiện chưa được một phút nên chắc là người ta không kịp nhận địa chỉ, thành ra không có ai đến cả.

Thừa Tân vừa bấm số gọi cấp cứu vừa chạy ù lên lầu lấy cái mền quấn cho con nhỏ. Giữa tiếng thở đứt quãng của anh, nhân viên trực điện thoại vẫn nắm được đại ý của anh là gì; người này khuyên anh ráng chờ xe xuống, nhưng anh không đồng tình vì tính ra con nhỏ này đã ngất xỉu hơn một tiếng đồng hồ rồi, chờ nữa sẽ “một xác – hai mạng” mất.

“Hụ…”

Có tiếng xe cứu thương vọng từ đầu xóm vọng xuống.

Thừa Tân mừng rơn chạy ra kiếm.

– Tao đã nói nó gọi phá thôi mà, đó, có ai…

– Có! Nhà này nè!

– Đó, thấy chưa?

Hai người bác sĩ Sản Khoa hớt hải chạy tốc vô nhà theo sự chỉ dẫn của anh chủ quán cà-phê. Vừa đi, Thừa Tân vừa tóm lược tình hình sức khỏe của Yên Hồng và không quên nhắc đi nhắc lại rằng bác sĩ riêng của nó đã định sẵn ngày mổ bắt con nhưng chưa kịp thì nó đã xảy ra chuyện.

Thừa Tân ở lại thu xếp giấy tờ và chuẩn bị tiền đóng viện phí. Ngoài ra còn để chờ ba má con Hồng qua nữa; con của họ thì họ biết nó cần cái gì để mà lo liệu thấu đáo.

– Chú.

– Vô đây phụ tôi gấp đồ của Yên Hồng nè.

– Chưa tới ngày chỉ mổ bắt con mà chú?

Miệng tuy hỏi vậy, nhưng Quỳnh Như vẫn lẹ làng mở tủ quần áo rồi bỏ hết trang phục và đồ dùng cá nhân của Yên Hồng vô hai cái rương cỡ lớn.

Vậy là hai chú – cháu đi thăm nuôi luôn, chứ không chờ ba má Yên Hồng tới. Chú thím đang ở dưới Cà Mau lo chuyện thương thảo nên không thể về kịp; tiền viện phí và mướn điều dưỡng viên của nó chú thím đã gởi qua luôn rồi.

Vừa đến nhà thương, hai chú – cháu lại được phen hú tim vì hay tin có sản phụ bị băng huyết đang cần truyền máu gấp.

– Lấy máu con đi bác sĩ.

– Cô có xét nghiệm gì đâu mà hiến máu liền được. Mà ở trỏng cũng không có thiếu đâu mà làm.

Thừa Tân vỗ vai con nhỏ tài lanh tài lẹt. Rồi hối nó mau cùng mình đi lại quầy để làm thủ tục nhập viện cho Yên Hồng.

– Khoan đi đã…

Hai chú cháu ngớ người đứng lại.

Ông bác sĩ ấy có tướng mạo khắc khổ nhưng bù lại đôi mắt rất có uy. Trên tay của ông cầm hồ sơ bệnh án của người nào đó, có lẽ nhóm máu của người này thuộc dạng hiếm chăng?

– Cô nhóm máu gì?

– Dạ, là loại phổ thông, thưa bác sĩ.

– Vậy được rồi… Cô có muốn hiến máu liền luôn không?

– Con chưa có xét nghiệm gì hết á, bác sĩ.

– Thì… xét nghiệm xong rồi hiến máu liền luôn…

Thừa Tân búng ngón tay xuống mặt của một trong hai cái rương, ngầm ra hiệu cho con nhỏ cháu đừng có nghe theo lời ông bác sĩ kia. Nhưng ông kia đã lên giọng thuyết phục nó đủ điều, rằng nhỏ này cũng bằng tuổi cô nhưng bị suy thận nặng, giờ cần nguồn máu-mới mới có thể sống tiếp được. Do không rành về Y Khoa nên Quỳnh Như không biết những lời trên là đúng hay là sai, nó chỉ biết tặc lưỡi một cái rồi gật đầu đồng ý với lời ngỏ của ông bác sĩ.

– Xin lỗi, tôi phải đưa nó đi làm thủ tục nhập viện cho chị họ gấp, ông đợi được không?

Ông bác sĩ trầm ngâm tính toán, rồi thở dài thườn thượt mà biểu mình sẽ ngồi ở đây chờ.

Trong lúc lại quầy làm thủ tục nhập viện cho Yên Hồng, Thừa Tân vừa nhắn tin hỏi ông cảnh sát trưởng về chuyện có cho con gái hiến máu theo lời ngỏ của một ông bác sĩ không. Ổng nhờ anh chụp hình người đó giùm, rồi mới trả lời được.

– Như. Ba cô không tin cô đi với tôi mà nghĩ rằng cô đang cúp cua đi coi phim ở đâu đó. Cô đứng cho tôi chụp hình làm chứng cái coi.

Người nhân viên trực quầy phì cười. Ông bô thời nào cũng vậy, quản con chi mà chặt dữ.

Quỳnh Như phụng phịu. Rồi cũng chịu đứng cho ông chú ế vợ chụp hình.

– Đứng ở đây nè. Lùi về sau một chút. Rồi, rõ rồi. Chụp đây.

Thấy đã chụp xong, Quỳnh Như a lại và đòi coi hình. Nhưng Thừa Tân đã lanh tay chuyển vô “Thùng rác” và để trơ máy trống.

– Sao xóa chú?

– Cô làm tôi quýnh quá nên lỡ tay.

Quỳnh Như nguýt môi:

– Chắc chụp người ta thấy ghê nên phi tang chớ gì?

– Ờ, đúng đó.

Dẫu biết có thể khôi phục lại ảnh đã chụp, nhưng Quỳnh Như vì linh tính có chuyện chi đó nghiêm trọng nên không vạch trần ông chú. Nó đưa mắt ngó về phía ông bác sĩ mặt mày giảo hoạt như cha cận thần trong bộ phim “Aladdin”, tự nhiên nó hối hận vô cùng, đáng lý ra thấy cái sắc tướng này thì mình nên từ chối liền mới phải.

Thừa Tân trả bức hình về đơn vị cũ, rồi gởi cho ông cảnh sát trưởng coi. Trong khi đợi ông hồi âm, Thừa Tân dẫn Quỳnh Như xuống khu nhà vệ sinh; nó nhát cáy hà nên không dám đi một mình, anh phải trở thành cận vệ bất đắc dĩ của nó. Ông bác sĩ kia sốt ruột tới nỗi để lộ hết điều đó lên nét mặt lẫn hành vi của mình.

– Trời ơi, con nhỏ này, đau bụng thì nói là đau bụng, bày đặt giấu chi để mình đứng chờ như thằng biến thái vậy nè.

Một người phụ nữ bước ra từ nhà vệ sinh, nghe anh ca cẩm như vậy, bèn an ủi:

– Thôi, ở đằng đó có băng ghế đá đó cậu, ra ngồi đó chờ em đi, mắc công bị người ta đổ oan khổ lắm.

Thừa Tân chắp tay cảm ơn bà chị, rồi lắc đầu nguầy nguậy mà than trách số phận đụng tới đàn bà là khổ của mình.

Ước chừng nửa tiếng hơn, Thừa Tân mới thấy Quỳnh Như lò dò trở ra với sắc mặt tái mét như vừa bị Tào Tháo rượt. Anh vừa giận vừa thương con nhỏ, chắc hồi nãy ăn ba cái bắp nướng chan mỡ hành nên giờ bị chọt bụng, đã nói ăn một trái nho-nhỏ thôi – đằng này quất một phát ba trái bự tổ chảng với một tô mỡ hành đầy vun, biểu sao không đi ngoài cho được.

– Nhẹ bụng chưa?

Quỳnh Như im ru một lúc lâu, rồi hối chú mau về chỗ cũ đặng hiến máu cho lẹ-lẹ để lát nữa nó còn phải tới nhà bạn học nhóm nữa.

Thừa Tân bất bình quá nên đổ quạu:

– Để mốt tôi nói với ổng cho, bắt học gì mà học quá trời học vậy?

Quỳnh Như đáp nhỏ rí:

– Dạ thôi.

Trở về chỗ cũ, hai người không thấy bác sĩ ban nãy đâu, chỉ nghe nhân viên trực quầy nhắn rằng ổng đã xuống khu Xét Nghiệm chờ Quỳnh Như rồi.

Thừa Tân nghi hoặc hỏi:

– Làm gì mà cần dữ vậy?

Quỳnh Như đáp mà con mắt ngó trỏng lơ:

– Thôi kệ, tháng Bảy đi làm phước, chú.

Xong xuôi hết thảy thì cũng đã tới xế chiều, đội ngũ phụ trách ca hồi sức – cấp cứu và mổ bắt con cho Yên Hồng vẫn chưa thấy trở ra, Thừa Tân nóng ruột nên chạy lại khoa Sản mà hỏi thăm sự tình; con nhỏ kia đang nằm nghỉ trong phòng bịnh cho bớt chóng mặt vì bị mất một lượng máu khá nhiều.

Người nhân viên trực quầy hết sức bực mình vì hỏi có một câu đơn giản mà người đàn ông này không trả lời nổi nữa. Anh sẵng giọng hỏi lần chót:

– Là ai?

Thừa Tân trình giấy tờ giám hộ Yên Hồng mà rằng:

– Người giám hộ của Yên Hồng thôi.

Vừa coi xấp giấy tờ ấy, người nhân viên dàu dàu quở:

– Có giấy sao hổng trả lời ngay từ đầu đi cha? Có gì mờ ám đâu mà phải che đậy.

Ngồi đợi đâu khoảng nửa tiếng nữa, Thừa Tân mới thấy ê-kíp ca mổ của Yên Hồng đẩy nó ra. Nó vẫn còn đang hôn mê, tay cắm dây nhợ chằng chịt, bịch nước biển chắc vừa treo lên nên thấy hãy còn khá đầy.

Một bác sĩ nam tên Khoa thấy Thừa Tân đi theo băng-ca nên đã lên tiếng trấn an:

– Con nhỏ mất sức, mất máu nhiều quá nên bị lịm đi thôi; chừng sáng mơi là tỉnh lại hà… À, thay mặt anh – chị – em đồng nghiệp, cho tôi gởi lời cảm ơn con nhỏ tóc demi-garcon nghen? Mới có chút éc mà đã mang tâm từ bi rồi.

– Sao anh biết tôi hay vậy?

– Con nhỏ kia nói người giám hộ của nhỏ này mặc cái áo đen in chữ “Nike” trước ngực, bận cái quần như “Trần Minh khố chuối”, đi đôi giày “Bạc màu áo trận”, ngó thấy anh diện đủ bộ nên tôi tin anh là người giám hộ của nhỏ này.

– Trời ơi, cái quần hàng hiệu người ta mà nỡ lòng nào nói quần “Trần Minh”.

Bác sĩ Khoa bật cười mà bỡn rằng:

– Ai biểu vá chằng vá chịt làm chi?

Nói đến đây thì cũng đã tới trước cửa thang máy. Những bác sĩ khác không còn phận sự nữa nên không vào thang máy theo, ê-kíp lúc này chỉ còn đúng bốn người: Hai y-tá nam, bác sĩ Khoa và bác sĩ Nữ. Thừa Tân hỏi xong số phòng của Yên Hồng, liền chạy tốc xuống khu Xét Nghiệm để coi chừng Quỳnh Như.

Trước lúc vô phòng, Thừa Tân phải đi xả nước cứu thân cái đã. Nãy giờ cứng hết đì rồi mà vẫn phải ráng nhịn vì lo cho má con Yên Hồng.

Chừng lết trở ra, Thừa Tân lại gặp cha bác sĩ mặt mày hắc ám ban nãy, nhưng lần này ông ta lại chơi tình quờ mà đi huốt một đường tới thang máy.

– Anh là chú của con nhỏ tên Quỳnh Như phải không?

Thừa Tân gật đầu:

– Nó quíu nãy giờ trong kia kìa. Phải dỗ dành nó suốt nó mới bớt sợ được một chút.

– Nó con nít mà, tự nhiên bị đè ra lấy quá trời máu không sợ mới là lạ.

Quỳnh Như nằm mà nước mắt ngắn dài. Sợ mà sao chịu lấy máu chi vậy không biết?

Thừa Tân nói nhỏ:

– Bữa nay anh thư lắm, muốn ăn gì – tôi bao?

– Đứa nhỏ sao rồi chú?

– Yếu lắm. Hiện đang nằm trong lồng ấp.

– Được mấy ký chú?

– Có ký mấy hà.

– Thôi vậy con hổng dám dòm mặt nó đâu. Đỏ hỏn, nhỏ xíu, nhìn y như con chuột con.

– Vậy hai đứa mình kiếm quán nào ngồi ăn ha?

– Dạ.

Thể theo ý muốn của Quỳnh Như, Thừa Tân chở nó tới tiệm bánh “Dunkin’ Donuts”.

Quỳnh Như chọn cho mình vị “Hi Lychee”, “Jcoccino” và “Mona Pisa”. Riêng Thừa Tân thì lấy “Mr. Green Tea” và “Why Nut”.

– Còn khoái cái nào thì rinh luôn đi.

– Vậy con lấy cái bánh bông mai nhưn táo nghen chú?

– Có lấy cái ngũ cốc – trái cây không?

– Dạ mua cho là lấy liền hà.

– Mà ăn hết hôn?

– Dạ hết. Con về con chia với mấy đứa bạn, mỗi đứa ăn có một mẩu chút xíu nên đâu có bỏ mứa.

– Vậy gọi điện hỏi mấy cô đó thích ăn loại nào thì tôi mua cho mỗi cô một cái. Đang tuổi dậy thì nạp đường nhiều quá dễ lùn muôn niên lắm.

Sau một hồi hội ý với đám bạn, Quỳnh Như gọi một cái “Donut Chà-bông”, “Donut nhân kem phủ chocolate vàng”, “Birdland”, Taillight”, “Avocado Dicaprio”, “Forest Glam” và “Donut hình trái tim phủ chocolate đen”.

– Chọn thêm ba cái nữa đi, cho chẵn mười sáu.

– Tốn tiền chú quá.

– Coi như Tết năm sau cô hết có lì-xì.

– Dạ, vậy cũng được.

Quỳnh Như chọn tiếp “Donut hình hoa nhân dâu có lớp phủ là chocolate cùng loại”, “Cheese Me Up” và “Donut chocolate bạc hà phủ dừa bào”.

– Cô biết Yên Hồng thích ăn loại nào không?

– Dạ, con hổng biết.

– Vậy thôi để tôi chọn đại.

Không biết suy đi nghĩ lại ra răng mà Thừa Tân lại mua một cái “Donut vị chanh có nhân kem” và một cái “Earl Grey”.

Vì ông chú mở quán nước nên hai người trở về tiệm lấy uống cho tiết kiệm tiền, sẵn coi sóc quán luôn.

Giáo xứ St. Thánh Pio Năm Dấu vẫn yên bình như mọi ngày.

Cưỡng đang cùng hai thằng bạn gỡ tấm hoành phi xuống để đưa cho dượng Bảy lau chùi. Trong quán đang phát bài “Mùa hoa học trò” do song ca Phương Dung – Nhật Trường trình bày, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân.

Thừa Tân bước lại tủ kiếng. Sau một hồi ngắm nghía, chàng chủ quán cà-phê đã luống tứ tuần chọn món cá-cơm chiên giòn, thịt kho tàu kèm hột vịt và canh khổ qua dồn chả cá. Rồi cho hai tay vào túi quần mà thong thả ra bàn ngồi.

Đến chừng đồ ăn dọn lên, Thừa Tân thấy có dĩa cải rổ xào dầu hào nên cười khổ và nói lời từ chối vì anh đâu có gọi món này.

– Trời nóng ăn rau cho mát người. Món này tụi tôi mời chứ hổng có tính thêm tiền đâu. – Dượng Bảy vừa nói vừa ngắm bức hoành phi.

– Vậy cảm ơn nhiều nghen chú.

Y-Nhã Cường, Tê-Pha-Nô Đoàn, Ni-Cô-La Trực và hai cha con Giuse Thành ra trước quán ngồi ăn cơm; sẵn Giáo dân nào đi ngang thì phát thiệp mời đi dự Lễ Giải Tội.

Xong bữa cơm trưa, Ignacio Cường về phòng nghỉ trưa vì bị cảm mạo. Giờ Giáo Lý Hôn Nhân chiều nay sẽ do Nicolas Trực phụ trách và Louis Quế trợ giảng.

Đang lúc soạn thuốc uống, Viber của chàng Cha Cọp phát nhạc chuông, người gọi đến là Thanh Liên. Anh mừng rỡ mở Laptop lên để nói chuyện thoải mái hơn.

– Có chuyện này tôi muốn hỏi anh nè Liên.

– Chuyện hôm bữa hả?

– Phải.

– Tôi bên khoa Tâm Thần chớ đâu phải Phụ Sản mà dám ra tay?

– À…

Thanh Liên lắc đầu cười. Đoạn nói rõ hơn:

– Cái người mà giúp cho anh định hình chân trái là một bác sĩ Phẫu Thuật Tổng Quát và cũng đã có bằng cấp về Hồi Sức – Cấp Cứu nên mới đứng ra lo cho anh nhiều khâu được. Một ca mổ giống của anh cần khoảng tám bác sĩ, mỗi bác sĩ đảm nhiệm một khâu và khâu đó là chuyên ngành của họ.

– Anh liệt kê vài khoa được không?

– Gây Mê – Hồi Sức, Hồi Sức – Cấp Cứu, Chấn Thương – Chỉnh Hình,… Nếu tôi đoán không lầm thì trong kíp mổ hôm đó còn có bên Huyết Học tham gia nữa.

Bây giờ Y-Nhã Cường mới hiểu tại sao hôm ấy lại có nhiều bác sĩ đến thăm anh như vậy. Anh là ca khó nhứt mà họ tiếp nhận trong tháng đó, tỷ lệ tử vong cũng khá cao do mất máu quá nhiều và bị nhiễm trùng đường huyết nên họ mới đặc biệt quan tâm đến anh sau ca mổ.

Thanh Liên đang xoay lưng ra ngoài song cửa mà cho bầy sẻ nâu ăn những vụn nhỏ mà chàng xé ra từ cái bánh bao chay. Đàn sẻ nâu đậu kín các chấn song, con nào con nấy ú nù, tiếng kêu chiêm-chiếp nghe thật vui tai.

– Nghe đâu Mục sư Khiêm tu học bên Anh tới mười năm… – Ignacio Cường nói xong, vốc bụm thuốc tây bỏ vô miệng rồi uống nước cái ực để chúng trôi xuống.

Thanh Liên đính chính:

– Hình như là chín năm học tập và ba năm thực hành.

– Tính ra là cẩu mất mười hai năm mới chính thức bước vô nhà thương làm bác sĩ.

– Ừ. Học Y chứ đâu phải học tỉa cây kiểng mà dám rút ngắn quá trình học tập và thực hành.

– Nhưng mà rốt cuộc Mục sư Khiêm lại chọn chuyên khoa “Chấn Thương – Chỉnh Hình”.

– Biết sao không? Năm xưa cha của Mục sư Khiêm bị người ta dàn cảnh cán nát tay nên bây giờ cẩu muốn trả thù cho cha bằng cách giúp những người bị như ông được hồi phục mau chóng hoặc lành lặn nhứt có thể.

Đôi mắt của Y-Nhã Cường như bừng sáng. Anh cảm động hỏi thêm:

– Cha của Mục sư Khiêm làm nghề gì?

– Bác sĩ. Phẫu Thuật Tổng Quát. Nhưng phụ trách về mảng Tim Mạch.

– “Hổ phụ sanh Hổ tử”.

Thanh Liên rời khỏi chỗ ngồi. Anh lấy thêm những cái bánh bao chay bị ế của thím Huê mà bỏ ra ngoài song cửa. Những con chim bị hụt ăn ban nãy mừng đến nỗi quýnh đí* nhào xuống chõ mỏ rỉa. Nhiều con đã được no căng bụng vẫn ráng hết sức nhét thêm vô cái bao tử tí hon của mình. Chàng Cha Cọp còn thấy người bạn thiết cho chúng uống nước trong “máng”; cái máng này được làm từ cái vỏ chai nhựa cắt đôi, vừa khéo đút lọt qua chấn song cửa sổ, nước trong máng cũng là nước suối chứ không phải nước cặn.

Càng nhìn Thanh Liên, Ignacio Cường càng thương vô hạn. Không giống như An-Tôn Vũ quá mềm yếu, Thanh Liên luôn dứt khoát trong mọi chuyện. Không giống như Stephen Đoàn quá đa cảm, Thanh Liên thấu được khi nào mình cần vô tình. Không giống như JB Khải quá thủ thân, Thanh Liên không sợ bị ghét mà dám đứng ra nói thẳng. Không giống như anh quá nóng nảy, Thanh Liên biết dành cho người khác sự thông cảm và tha thứ. Nếu như Thanh Liên là một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, ắt hẳn thế gian này sẽ được đôi bàn tay ấy vun xới ngày một tốt đẹp hơn…

“Chíp…”

Một con chim chích bông lạc bầy nhảy vô phòng Y-Nhã Cường. Anh sợ nó bay đi mất nên rón rén lại tủ lạnh mà lấy ra ít chà-bông cá cho nó. Con chích bông mừng rơn ăn lấy ăn để. Nhân lúc nó đang ăn, anh rót đầy một chung nước mà cho nó giải khát.

– Tôi vẫn còn nhớ bài hát “Chim chích bông” của đôi tác giả Văn Dung và Nguyễn Viết Bình…

– Bài đó sao Liên?

Thanh Liên không hát, mà đọc lời:

– “Chim chích bông bé tẹo teo. Rất hay trèo từ cành na ra cành bưởi sang bụi chuối…”

– Tác giả là Bắc Kỳ?

– Ừ, hồi đó tôi không hiểu cành na là cành gì hết, sau mới biết là cây mãng cầu ta.

Y-Nhã Cường bùi ngùi nói:

– Tự nhiên tôi nhớ tới những năm tháng học Tiểu Học quá.

– Phải, thời đó sách giáo khoa có nhiều bài thơ và bài văn đáng để học hơn bây giờ.

Y-Nhã Cường sực nhớ đến một người nên vội vàng nói:

– Martin Cảnh giỏi vậy mà lại chọn nghề giảo-nghiệm tử thi.

– Cẩu cũng đã lách luật để cứu mạng anh. Cẩu làm pháp y chứ đâu phải bác sĩ mà lại tự ý sơ cứu vết thương.

Giờ Ignacio Cường mới biết được chuyện này. Nghĩ vì mình mà Martin Cảnh có thể rơi vào vòng lao lý, tự nhiên chàng Cha Sở buồn vô hạn.

– Ý là anh vô Đại Học sớm hơn người ta mà cũng phải mất hơn mười năm mới xong ngành Tâm Thần Học.

– Ờ. Ngành nào có thể rút ngắn giai đoạn thì tôi không biết, chớ ngành Y thì tôi chưa từng biết đến trường hợp nào. Có nước là gian lận bằng cách mua-bằng sớm hoặc bỏ tiền để được xác-nhận chứng chỉ giả.

– Vậy ra má anh nhớ lộn sao?

– Không phải là nhớ lầm, mà là bị lộn. Do tôi phải tham gia các chương trình thực tập thêm hai năm nữa mới chính thức ra trường.

– Anh có đi quân dịch không?

– Có. Tôi bên Quân Y Viện. Đó cũng là nơi tôi tham gia chương trình thực tập.

– Hèn chi mà anh lại rành rọt các bước sơ cứu và vệ sinh vết thương. Mà tại sao anh lại tham gia quân ngũ?

– Tôi muốn trả ơn nước Mỹ vì đã cho tôi cơ hội thành công.

– Trong thời gian làm việc ở dưỡng trí viện, anh có thấy trường hợp nào thương tâm không?

– Có một cô bé gốc Á bị mắc chứng “Muốn thử làm đau bản thân”. Cứ hễ nhìn thấy đồ vật sắc bén hoặc lửa hay khí hỏa lỏng là cô lại muốn dùng nó để gây thương tật cho mình. Đây không phải là “Seft-harm” mà là “ODC – Rối loạn ám ảnh cưỡng chế”, vì cổ không có dấu hiệu muốn tự sát mà chỉ muốn làm đau bản thân để thỏa mãn óc tò mò.

– Do đâu mà cổ muốn bị vậy?

– Do bộ não của cổ bị trục trặc và bị “chập mạch”. Giống như cái xe hơi bị lắp ráp sai cách nên khi chạy bị phát ra tiếng động bất thường.

Cổ rất sợ xuống bếp, vì cổ sẽ lấy những thứ đó mà làm đau mình. Song người nhà không chịu hiểu, còn chửi cổ lớn đầu mà còn làm biếng, kêu xuống bếp phụ một tay mà trốn miết trong phòng.

Cho tới chừng cổ lấy miểng của cái chén cắt ngang cần cổ của cổ thì người nhà mới tá hỏa ra cổ bị bịnh tâm thần rất nặng.

– Cổ được về nhà chưa?

– Tôi không biết nữa. Cổ đã ở đó được hai năm trước khi tôi vô làm, và sau khi tôi về đây thì cổ vẫn còn ở trong đó…

Y-Nhã Cường thở dài:

– Trẻ con có dấu hiệu bất thường mà cha – mẹ không dắt đi thăm khám mà lại tự ý áp đặt nhận định lên người nó…

– Phần đông cha – mẹ đều bị như vậy. Không giúp con thì thôi, đã vậy còn khiến con mình bị bịnh nặng hơn.

– Anh có thể chia sẻ một căn bịnh anh thường gặp không?

– Có nhiều người mắc chứng OCD nhẹ hơn nên không cần dùng thuốc hay đi điều trị, hay nói đúng hơn là người bịnh thường trốn lánh điều trị do tự cho rằng việc này không cần thiết.

– Nhẹ hơn ra sao?

– Thí dụ, họ rất ghét việc viết sai chánh tả, hễ thấy ai viết sai là họ phải lên tiếng bắt sửa cho bằng được. Hoặc là họ phải kiểm tra đi kiểm tra lại nhà cửa đúng theo số lần mà họ đã quy định thì họ mới an tâm rời khỏi nhà hoặc lên giường ngủ.

– Theo thiển ý của tôi thì cái này khỏi uống thuốc cũng được.

– Cũng có người bị mắc nặng hơn, vô nhà người ta là phải ăn trộm một món mới cảm thấy dễ chịu hoặc là phải phá cho bằng được một món gì đó…

– Cái này dễ bị đục lắm nè.

– Ừ, và họ phải đi uống thuốc, cũng như phải chịu sự giám sát của những người có chuyên môn một thời gian.

Con chim chích bông lạc bầy đã lấy lại được sức. Nó mạnh dạn tung cánh bay đi tìm đàn. Để lại cho ân nhân những tiếng kêu chiêm-chiếp thật dễ thương. Y-Nhã Cường ngó theo nó cho đến khi nó mất dạng sau những tán cây điệp rậm dày.

– Tôi còn nhớ có một đôi phụ huynh tới hỏi tôi sao con của họ lì lợm quá, ăn uống phải đúng theo ý nó thì nó mới chịu ăn. Sau một hồi làm kiểm tra, tôi mới biết nó bị rối loạn kiểm soát hành vi – cảm xúc và lãnh luôn chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế…

– Nghĩa là sao Thanh?

– Thí dụ, anh kêu một tô hủ tíu gà đùi, nhưng chủ quán làm lộn thành hủ tíu gà phao-câu… Với tình huống này, anh có thể ăn luôn mà không cần đổi, hoặc biện pháp thứ hai là biểu chủ quán làm lại cho mình tô khác. Anh có thể bực mình, tức giận và khó chịu; nhưng anh vẫn kiểm soát được hành vi và cơ mặt của mình mà đúng không?

Thì đứa bé này nó lại không thể. Bộ não của nó tự phóng đại sai sót này lên gấp cả ngàn lần, khiến cho nó cảm thấy bị tổn thương tâm lý nặng nề và bị xúc phạm nghiêm trọng. Nó biết chuyện này không đáng để làm mình làm mẩy hay phẫn nộ tột cùng, song nó không thể kiểm soát được hành vi và cơ mặt, thành ra mới có cái cảnh nó gào rú hay òa khóc ầm ĩ mỗi khi đồ ăn – thức uống không theo ý nó. Thay vì tìm hiểu nguyên nhân, đôi phụ huynh này lại khiến nó bị bịnh nặng thêm bằng những lời lẽ trách cứ và so sánh nó với những đứa trẻ đồng trang lứa nhưng lại kém may mắn hơn nó.

Đương nhiên, nó vẫn không khỏi bịnh hoàn toàn sau khi điều trị. Song nó đã học được cách kiểm soát hành vi và cơ mặt. Tôi khuyên đôi phụ huynh đó nên hỗ trợ điều trị bằng cách cung cấp đồ ăn – thức uống theo ý nó và hạn chế làm sai. Nó cũng không có đòi hỏi gì quá đáng đâu, chỉ xin ba má nó hãy nấu chín kỹ thịt – cá trước khi đưa nó ăn vì nó rất sợ mùi tanh và màu máu; ngoài ra, làm ơn mua đồ ăn – thức uống đúng theo lời dặn của nó. Chưa hết, mỗi bận đi ăn ở đâu, ba má của nó sẽ đưa ra ba phương án và nhiều địa điểm, để thần kinh của nó không bị phản ứng thái quá nếu như yêu cầu của nó không thể thực hiện; thí dụ như “Nếu quán đó đóng cửa thì con muốn ăn ở đâu?”, “Nếu quán đó không có bán món này thì con muốn ăn những món gì để thay thế?”, “Nếu mình phải về nhà gấp thì con muốn mua những món gì về ăn và mua ở đâu?”,…

– Vậy còn lì là sao?

– Dễ ụi hà. Tỷ như tôi là con anh chẳng hạn, tôi đòi ăn phao câu nướng, anh đi làm về mua cho tôi mấy xâu, tôi lại trở chứng nói, “Giờ con muốn ăn phá-lấu nướng hà.”

– Cái này dễ bị cây vô đí* lắm.

– Đó mới gọi là lì và bướng. Hay nói cách khác là đòi bậy.

Có tiếng của Trì Thương, nghe loáng thoáng thì anh ta đang hỏi Thanh Liên rằng cuốn tự điển Phật ngữ đâu? Và Thanh Liên đã bật cười đáp, “Có thể tự tìm sao lại phải mắc công nhờ tôi?” Nhưng rồi Thanh Liên cũng làm theo ý của Trì Thương. Hai thầy – trò lục khắp thơ phòng một đỗi mới thấy được cuốn tự điển ấy. Trong lúc chờ đợi, Đức Cường mở tủ lạnh và lấy chai trà Oolong ra uống.

– Trì Thương có Thiên Nhãn phải không?

– Phải.

– Vậy sao không tự tìm mà bắt anh kiếm giùm?

– Trì Thương không tìm sách ảnh muốn, mà đến đây giúp tôi tìm Tâm của tôi. Nãy giờ nó đã rời khỏi Bát Chánh Đạo và đi hoang theo miên trường hồi ức của tôi.

Y-Nhã Cường ngớ người ra.

– Tâm của một tu sĩ rất dễ đi lạc. Chỉ cần một lời nói phiến diện của thế gian là nó sẽ đi sau đuôi người phát ngôn liền. Chỉ cần một sự ủi an của ai đó là tức khắc đầu óc sẽ truy cầu hình bóng của người dễ thương ấy. Chỉ cần một chút cực nhọc và đau khổ là đường tu sẽ gãy đôi và Ma-Ba-Tuần sẽ nắm được chân của mình.

Trì Thương vốn đọc được Tâm người khác, nên như Tôn giả Mục Kiền Liên năm xưa, ảnh sẽ giúp người đi lạc về lại đúng đường.

Trì Thương lại trở vô phòng. Lần này anh ta không tìm sách mà mời Đại Trưởng Lão uống trà Thiết Quan Âm. Rồi lặng thinh đi ra.

Nhấp môi xong ngụm trà đã sắc, Thanh Liên mới cất giọng bình phẩm:

– Phần đông phụ huynh, không chỉ ở Việt Nam, mà hầu như ở đâu cũng vậy, không học qua một khóa Tâm Lý trước khi quyết định có con…

– Tôi đọc thấy rất nhiều người ở xứ mình ưa buông lời thóa mạ ác ý đối với những người mắc chứng thần kinh bất thường, “Đẻ nó ra chi? Bóp mũi nó chết cho rồi”, “Đẻ ra đau…”,…

– Tự kỷ, Rối loạn kiểm soát hành vi, Rối loạn ám ảnh cưỡng chế, Rối loạn lo âu,… Không phải tự khám online là biết được đâu. Mình phải đi tới đúng bác sĩ chuyên khoa, làm kiểm tra đàng hoàng rồi ngồi nói chuyện cả buổi với họ, mình mới chắc chắn mình có bịnh hay là không.

– Anh nghĩ cách điều trị nào mà anh cho là không hiệu quả, nhưng sẽ vấp phải sự phản đối của người trong ngành?

– Cho bịnh nhân bị trầm cảm uống thuốc an thần.

– Tại sao?

– Người bị trầm cảm không có yếu đuối bạc nhược như nhiều người lầm tưởng đâu. Thành ra, họ không muốn uống thuốc an thần để quên đi cuộc đời. Họ muốn được tỉnh táo để sống tiếp. Có người nằm ngủ riết mà đã xém tự sát vì quá chán nản với việc ngày nào cơ thể cũng rã rượi do buồn ngủ và thèm ăn liên miên; nhờ ngưng uống thuốc và chịu ra ngoài chơi mà bịnh tình của người này mới khá hơn trước, chứ còn nghe theo lời bác sĩ chắc gia đình đã ăn mấy cái đám giỗ rồi.

Tâm bịnh của loài người rất phong phú và phức tạp. Không thể lấy kiến thức Y Khoa mà bao hàm hết được đâu. Nên chăng cần cân nhắc kỹ đối với từng trường hợp chứ không nên điều trị theo kiểu đánh đồng và gom lại thành một bó.

– Cái chuyện mà Đoạn Trần kể với Ngọc Mỹ cũng của anh hả?

– Phải.

Y-Nhã Cường nhíu mày nghĩ ngợi.

– Rồi anh nghĩ sao nếu có một cô gái dám nói mình bị mắc bịnh “Rối loạn ám ảnh tình dục”?

– Thể nào cổ cũng bị quấy rối cho mà coi.

– Đó. Anh hiểu rồi phải không?

Y-Nhã Cường gật đầu.

– Người bịnh thì mắc cỡ nên giấu, người may mắn khỏe mạnh thì đem bịnh tình người ta ra diễu cợt tục tĩu hay thậm chí là còn kêu người ta chết đi cho đỡ chật đất…

Nicolas Trực vào phòng để mời con trai ăn miếng bánh kem. Bữa nay là ngày Thôi Nôi của một gia đình Giáo dân trong xứ, họ thương ai thì xẻ bánh kem mời người đó ăn. Cũng biết ông Cha Cọp không hảo ngọt nên họ chỉ cắt tượng trưng một miếng rất nhỏ; mấp môi vài lần là xong.

– Vị sư thầy này là ai vậy Cường?

– Đới Kỳ Thanh, pháp hiệu là “Thanh Liên”.

Xém chút nữa là Nicolas Trực đã nhìn lầm thành sư cô. Cũng may ông kịp nghĩ ra, rằng làm sao thằng con trai mình lại đi nói chuyện riêng với sư cô Đạo khác được.

Y-Nhã Cường mạn phép Thanh Liên để cho Cha anh ở lại phòng. Anh muốn Cha biện luận với người bạn mới quen. Cả đôi bên đều đồng ý với anh.

Thanh Liên tiếp tục:

– Tôi chịu hết nổi vì không thể cứu được ai hết nên mới phải bỏ nghề luôn…

Nicolas Trực chợt đổi đề tài:

– Trước khi về đây tôi có đi ngang qua một con đường, thấy đề như vầy: “Award-winning care cancer experts” và bên dưới chuyển ngữ như sau: “Các chuyên gia chăm sóc ung thư danh tiếng.”

“Care cancer” mà dịch thành “Chăm sóc”, đáng ra nguyên văn tiếng Việt phải viết như vầy “Các chuyên gia danh tiếng chuyên điều trị/chữa trị ung thư”. Không có chữ “Bịnh nhân” thì không nên dùng chữ “Chăm sóc” vì rất dễ khiến người nghe hiểu lầm nội dung. Hơn thế nữa, chữ “Danh tiếng” phải đứng sau từ “Các chuyên gia” mới đúng ngữ pháp tiếng Việt.

Y-Nhã Cường bật cười:

– Thấy xài chữ “Chuyên gia” vậy chắc Việt Nam mới qua, bạ đâu cũng xài chữ “Chuyên gia”.

Nicolas Trực ôn tồn nói:

– Con nói chưa đúng nghen Cường. “Chuyên gia” hay “Chuyên môn” gì cũng xài được hết. Chỉ khác ở chỗ thời xưa hay dùng chữ “Chuyên môn” và ít xài chữ “Chuyên gia” hơn. Thời nay thì bỏ phế chữ “Chuyên môn” và lạm dụng thái quá chữ “Chuyên gia”.

Đức Cường nghe vậy, liền “À” lên một tiếng.

Nicolas Trực tiếp:

– Câu gốc tiếng Anh viết được rồi, chỉ hiềm nỗi viết lại câu tiếng Việt lại lủng củng vô cùng.

– Tôi hiểu ý ông rồi, không phải dịch theo kiểu “Word-by-word”, tức là không nên dịch là “Care-cancer” là “Thông thạo chăm sóc” mà nên dịch theo nghĩa bóng là “Chuyên điều trị”, vừa ngắn gọn lại vừa dễ hiểu nữa.

Nicolas Trực thở dài:

– Thật ra, không cần dịch sát với phần lời của nội dung gốc, mà nên dịch đúng với ý nghĩa của nội dung gốc.

Thanh Liên phì cười:

– Cũng như chữ “Take care of” tùy theo ngữ cảnh mà nên dịch thành “Bảo trọng”, chứ không phải dịch lòng thòng kiểu “Lo bản thân cho tốt nghen?”. Rồi “Chance your mind” là “Đổi ý”, chứ không nên viết dông dài kiểu “Thay đổi suy nghĩ của bạn rồi hả?”.

Y-Nhã Cường nhếch môi nói:

– Cũng như ông nào dịch Thánh Cả – Giuse “Thợ” thành Giuse “Công Nhân”. Ở thời đó làm gì có giai cấp công nhân, không hiểu lúc đọc lại không thấy cấn hay sao á.

Ngoài song bầy sẻ đã bay đi mất, để lại hai cái máng hãy còn đầy. Gió lùa qua song cửa, đem theo hương thơm Sala tươi thắm. Nắng đang dịu xuống vì vầng dương đã bị một đám mây lớn cầm giữ, trong phòng cũng tối hẳn đi. Thanh Liên với tay kéo dây-kéo của cây đèn đứng để xua đi bóng tối đang hiện hữu.

– Vậy anh học Triết cho vui hả?

– Không, tôi học là để giúp kèm con gái ba – má nuôi. Cô này bị yếu khoản Anh ngữ nên diễn tả câu văn chưa hay và tròn trịa.

– À… Vậy anh có chỉ cổ cách viết luận văn không?

– Không, tôi không chỉ cổ cách viết luận văn. Tôi chỉ kèm cổ khoản ngữ vựng và cấu trúc câu thôi. Còn đề tài và sự trình bày tôi để cổ tự làm hết.

– Chứ anh mà viết giùm cổ là hai người coi như xong đời luôn.

– Phải. Nhiều nước Châu Á có thói quen “luyện gà”, tức là người nào có tiền sẽ đút lót cho giáo viên hướng dẫn để nhờ người này soạn đề và lên ý tưởng giùm, cũng như giúp thí sinh gọt giũa lại bài luận. Nếu bên Mỹ mà phát hiện thí sinh không tự thân viết luận là kể như không còn đời sinh viên nữa. Họ có thể du di cho một người dốt, nhưng không thể bỏ qua cho một kẻ cắp và gian lận.

– Bên mình có nhiều nơi như vậy lắm anh.

Thanh Liên gật đầu, đoạn đưa đề tài đi xa hơn:

– Họ thích một sinh viên có chính kiến, chứ không phải vuốt đuôi hay nịnh đầm. Mà nhiều sinh viên xứ mình qua tới Mỹ rồi mà vẫn còn sợ chánh trị, viết cà né – cà tránh, nên bài luận thiếu luận cứ và dẫn chứng rất nhiều, dẫn tới không đủ sức thuyết phục cho người ta chấm đậu.

Nicolas Trực góp lời:

– Hèn chi mà tôi thấy nhiều cô – cậu nhà giàu bên mình ưa chọn trường Nghệ Thuật hay thiên về giới giải trí nhiều hơn.

Thanh Liên gật đầu:

– Dễ đậu hơn rất nhiều. Anh vô những trường chuyên về Y-Dược, Khoa Học hay liên quan tới Chánh Trị, Pháp Luật và Thương Mại thì họ sẽ đòi hỏi trình độ học vấn và khả năng Anh ngữ của anh một cách hết sức gắt gao và nghiêm ngặt; không phải cứ có tiền đóng học phí nổi là vô được đâu.

Rồi chàng Tăng sĩ giải thích thêm:

– Cũng có nhiều trường tư hết sức dễ đậu, miễn học đủ chứng-chỉ và số tiết theo quy định là được cấp bằng. Đương nhiên học phí sẽ rất cao. Đây cũng là một dạng mua – bán bằng hợp pháp và công khai. Nên hậu quả để lại là sinh viên mấy trường đó tốt nghiệp xong không làm gì ra hồn hết, mặc dầu có mác tốt nghiệp Đại Học hoặc Cao Đẳng.

Cũng có trường hợp người ta giỏi tay nghề nhưng muốn có bằng cấp lận lưng để đi làm nên nộp tiền vô học mấy dạng trường này. Thường những người đó là y tá, điều dưỡng viên, thợ – thầy,… của những quốc gia mà Hoa Kỳ không công nhận bằng-cấp giáo dục ở nước của họ, thành thử khi qua đây họ phải bỏ thêm vài năm học tập để được nhận bằng-cấp của Hoa Kỳ đặng mà được phép đi hành nghề.

– À, giống như trường nghề bên mình. – Y-Nhã Cường bật cười.

– Còn bác sĩ là phải học lại từ đầu. Mà từ đầu là ít nhứt cũng phải bảy năm mới xong. Những khoa khó hơn phải kéo dài khoảng độ mười đến mười hai năm. Nên nhiều người bên mình qua đây phải bỏ nghề bác sĩ luôn là vậy.

Ignacio Cường cũng cảm thấy ngán ngẩm thay.

– Cho nên hễ ai khoe mình tốt nghiệp Đại Học hay Cao Đẳng bên nước ngoài cũng đừng khen vội.

– Ừ, hiểu rồi. Lầm chết.

Stephen Đoàn trở lại sau buổi Giải Tội. Anh vẫy tay chào Thanh Liên một cái rồi bỏ về phòng lấy thuốc uống. Nicolas Trực tính theo chân con trai, nhưng thấy nó còn mệt nên thôi.

– Có một cô gái bị mắc chứng “Cuồng-ăn giả”.

– Tức là sao?

– Tức là cổ lúc nào cũng cảm thấy thèm ăn và bị đói bụng, nhưng cứ hễ nhai được vài miếng là cổ bị no ngang nên phải bỏ mứa những gì còn lại. Chính vì vậy mà cổ đã phải uống thuốc giảm cân, không phải là vì sợ mập, mà là bởi cổ muốn nhờ thuốc này làm cho no lâu và giảm bớt cơn thèm. Nhưng vì hàm lượng caffeine có trong thuốc quá cao nên cổ đã bị mệt tim, tim của cổ vốn dĩ đã yếu nay lại còn yếu hơn, đã vậy móng chân cái còn hiện rõ một vệt xám kẻ sọc xuống – dấu hiệu báo rằng tim của cổ có vấn đề nghiêm trọng. Cổ nói cổ thà chết vì trụy tim còn hơn sống mà hành cha – báo mẹ, do gia cảnh của cổ khá khó khăn, phải chạy ăn từng bữa, vậy mà cổ cứ ăn hoài – ăn mãi thì ai mà nuôi cho nổi. Nhưng sự hiếu đễ của cổ thì người ngoài không thấy, họ chỉ biết trách cổ học không lo học – suốt ngày sợ mập rồi uống ba cái thuốc tào lao để giữ dáng.

Sau này, cổ tới dưỡng trí viện và phải uống thuốc đặc trị. Cũng may bịnh tình đã thuyên giảm rồi.

Muốn biết tại sao bịnh nhân lại trở nên như vậy thì mình phải đặt mình vào hoàn cảnh của bịnh nhân.

– Nhờ anh nói tôi mới biết những người bị bịnh tâm lý bị phán xét và hiểu lầm kinh khủng như thế nào.

– Stephen Đoàn cũng bị thần kinh nhẹ.

– Ảnh bị bịnh gì?

– Sợ làm mích lòng người khác. Đó là một dạng bịnh tự ti xuất phát từ việc bị bỏ rơi và coi thường trong quá khứ. Cho nên ảnh mới… vì người đó coi ảnh như một vị Thần.

– Tôi hiểu rồi.

– Ráng, đừng có nạt hay rầy rà ảnh, để từ từ ảnh làm; kẻo “Già néo đứt dây”.

Trì Thương trở vô phòng với một ly đá me mát lạnh. Anh chắp tay xá hai cha con Nicolas Trực một cái rồi cáo lui.

– Rất nhiều người sẵn sàng bỏ tiền cho con cái đi học thêm hay bồi dưỡng các môn năng-khiếu, nhưng lại không chịu dẫn con cái đi khám sức khỏe tâm lý. Thành ra đã làm mất rất nhiều cơ hội vàng để giúp con cái phát triển khỏe mạnh.

Bởi vì không có ai để chia sẻ nỗi lòng, những đứa trẻ đó tìm đến những người bạn lớn tuổi hoặc có vẻ chững chạc hơn mình. Mà người tốt thì ít, phường ác hại thì nhiều, hậu quả thì như hai người cũng đã biết rồi đó.

Nicolas Trực vỗ đùi cái đét:

– Đúng ha? Thay vì để xấp nhỏ tự tìm người nói chuyện, sao mình không để nó đi nói chuyện với bác sĩ Tâm Lý, vừa an toàn cho nó vừa yên tâm cho mình.

– Đừng khiến nó đi gặp bác sĩ Tâm Thần.

Nicolas Trực gật gù:

– Phải, nếu không muốn nó gặp khoa Tâm Thần thì nên thường xuyên đưa nó đến khoa Tâm Lý.

Về phần chàng chủ quán cà-phê “Sóng Nhạc”, chàng đang lang thang khắp xóm Đạo để tận hưởng bầu không khí miệt vườn hiếm có khó tìm nơi thành đô hoa lệ. Ở đây tạo cho chàng cảm giác lạc về thập niên Năm Mươi, thời điểm mà Sài Gòn còn nhiều kinh – rạch tự nhiên chưa có ai san lấp để xây nhà – dựng cửa; tứ bề chim muông thân thiện, cây cảnh xanh tốt, ngó đâu cũng thấy hoa thơm – cỏ lạ dễ yêu.

Thừa Tân trông thấy hai sở đáy đóng cạnh nhau, anh bèn lại đó ngồi chơi với hai ông chủ sở đáy. Hai ông là anh em ruột thịt, chuyên nghề bắt cá – tôm và các loài thủy sản khác; vợ của mỗi người đều có sạp bán ngoài chợ, nghe đâu bán cũng khá lắm và ghi nợ cho công nhân cũng nhiều.

Chia tay hai ông chủ sở đáy, Thừa Tân ghé thăm nhà nguyện cổ kính của xóm Đạo. Nhà nguyện nằm trong vòng tay của vườn hoa dân dã. Trước cổng dựng một bảng bằng sắt uốn vẽ cảnh ba nhà thông thái đi theo sự soi chiếu của vì sao Bethlehem, phía trên là biểu tượng Thánh-Tâm Chúa được cách điệu rất đẹp và uy nghiêm; theo con Tạo xoay vần, tấm bảng này đã được loài hồng leo chiếm ngự và che khuất mất đường viền. Rồi đời sống thay đổi, Giáo dân bèn lắp dây đèn cà-na vòng chung quanh tấm bảng; để rồi mỗi đêm đèn bật sáng, bước chân của con Chiên đang lạc loài sẽ tìm thấy được nơi tĩnh tâm và suy niệm. Cũng ngộ ở chỗ, ở đây chỉ có cổng, nhưng không có rào; thành thử rất khó để phân định diện tích của cuộc đất dành cho nhà nguyện là bao nhiêu. Dường như ở đây rất ít khi nào phát cỏ, bởi vì cỏ đã cao ngang đầu gối của anh, ở đâu cũng thấy những loài hoa dại và dễ sống như cỏ may, mười giờ, sao nháy,… Băng qua biển cỏ, anh đã tới được bậc tam cấp dẫn lên hành lang đi tới nhà nguyện. Phía trên đầu lan-can là tượng Thiên Thần thiếu nhi đang thổi kèn, loại kèn “tò-tí-te” của trẻ nhỏ, mỗi bức một tư thế khác nhau: Bức bên trái đưa lên miệng thổi nhưng đôi mắt ngó ra cổng, nửa thân trên cũng hơi quay về hướng đó. Bức bên phải chú tâm thổi đến nỗi đôi mắt châu lại lé-xẹ, hai bàn chân cũng hơi dạng ra như thể đang dồn hết tình cảm vào bản nhạc vậy. Anh thấy dễ thương quá nên làm dấu Thánh trước khi đưa tay vuốt đầu mỗi bức tượng và giơ máy lên chụp. Rồi cất bước đi tiếp. Hành lang dẫn tới cửa lớn nhà nguyện mỗi bên dựng một tượng Thánh Tử Đạo Việt-Nam; anh không biết ai trong số mười hai vị này, nhưng coi phần mô tả dưới chân mỗi bức tượng thì hay rằng các vị này đều là những Linh mục truyền Giáo tiên khởi của Giáo hội và bị bách hại cùng hoặc khác thời kỳ. Trước cửa lớn nhà nguyện dựng hai bức tượng: Một bên là Cha Cả – Bá-Đa-Lộc và một bên là Cha Đắc-Lộ; cả hai Ông đều có ơn rất lớn đối với xứ sở này. Anh thành tâm đứng trước mặt mỗi Ông mà cúi đầu xá ba cái. Rồi mới bước chân vô nhà nguyện. Đón tiếp anh là bức tượng Cha Phan-Sinh – Trương Bửu Diệp; để tưởng niệm Cha, Giáo dân ở đây yêu cầu thợ điêu khắc phải chạm sao mà trên tay Cha cầm một cái dĩa hột xoài thiệt lớn để bà con có thể đặt bông viếng, yêu cầu này dễ ụi nên giờ đây không khi nào bà con bổn Đạo gần xa để cho đôi tay của Cha được rảnh rang, anh đưa mắt coi thử thì thấy nào là bó hoa, nào là trái cây, nào là thơ tạ ơn Cha,… ôi thôi đủ cả. Vài Giáo dân trong và ngoài xứ đang im lặng mà nhắm mắt cầu nguyện, có người còn lần chuỗi Mân Côi nữa. Anh vốn là người ngoại Đạo nên không nán lại lâu, sau khi ngắm nghía toàn cảnh bên trong nhà thờ, anh bèn ra ngoài thông qua cửa hông, vì cửa hậu đã bị khoá lại rồi.

Có ai đó đang thổi Harmonica bài “Lời buồn Thánh” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tiếng cầm ấy đưa người nghe về một cõi uyên nguyên mà tay trần không thể với tới. Tình khúc này anh chỉ thấy ban “Sao Băng”, tam ca Thanh Vũ – Phượng Bằng – Hồng Phúc, song ca Duy Trác – Sĩ Phú hoặc đơn ca như Bạch Yến, Ngọc Lan, Lệ Thu, Khánh Ly,… là trình bày hay vì giọng hợp.

Lần theo con đường trải đá mi, Thừa Tân tìm thấy một khu vườn nhỏ có trồng rất nhiều cây sa-kê, sa-pô-chê và sồi. Ở đây như một công viên, với rất nhiều băng ghế đá đặt rải rác và đèn đường. Anh tìm thấy được người kia sau một lùm cây bùm-sụm, người đó đang ngồi bó gối mà thổi khẩu cầm. Sắc áo chùng thâm của người đó đã giúp anh nhận ra đây là một Linh mục.

– Cha chơi đàn hay quá.

Stephen Đoàn rũ mắt cười buồn.

– Sai lầm lớn nhất cuộc đời của tôi là biết thổi khẩu cầm và hát đúng nhịp.

– Đâu, Cha thử ca vài câu được không?

Stephen Đoàn thở dài, rồi khe khẽ hát:

– “Tôi xin năm ngón tay Em thiên thần. Trên vùng ăn năn, qua cơn hờn dỗi. Tôi xin năm ngón tay Em đưa vào cô đơn…”

Thừa Tân lắp bắp:

– Cái này ném về danh ca luôn, chứ đâu chỉ ở mức ca đúng nhịp thôi.

– Hết giờ ca hát, đi về liền cho tôi. – Y-Nhã Cường bước đến với sắc mặt hầm hầm. Theo sau lưng anh là ông Thầy Sáu.

Có lẽ ông Thầy Sáu chưa có ngoáy lỗ tai nên cố tình mở miệng chọc ông Cha Cọp:

– “Hàn Mặc Cảm lui về xứ cũ lánh thân nơi nhà tu…” Đau, đau, trời ơi, mày nhỏ tuổi hơn tao nhe Cường?

Thừa Tân biết người ta có ẩn tình khó xử nên biết điều đã xin phép cáo lui.

Yên Hồng đã tỉnh lại. Dĩ nhiên sức khỏe của nó vẫn chưa mạnh mấy, phải cần có người phụ một tay mới đi – đứng nổi.

– Chú đặt tên con gái của con là gì vậy chú?

– Yên Thảo.

Yên Hồng mỉm môi cười. Rồi thều thào bình phẩm:

– Tên đẹp quá, chú.

Thừa Tân khịt mũi:

– Không uổng công tôi đã coi đi coi lại không biết bao nhiêu bản nhạc Tiền Chiến.

Yên Hồng cười mà nước mắt chảy dài.

– Hôm qua có mua cho cô hai cái bánh Donut, nhưng nhỏ Như sợ thiu nên lủm giùm rồi.

Yên Hồng cong môi:

– Quỷ cái…

– Muốn ăn không? Tôi chạy đi mua cho mà ăn.

– Dạ, cho con mượn thực đơn đi chú.

Sau một lúc nhăn mặt đọc chữ, Yên Hồng chọn một cái bánh “Donut hình trái tim phủ chocolate dâu” và một cái bánh “Donut nhân kem Bavarian”.

Trước lúc chạy đi mua bánh cho hai đứa, Thừa Tân bắt Yên Hồng phải uống hết chén canh gà mà anh đã đặt ở tiệm “Hương Ký Mỳ Gia”. Nghe đâu món này giúp bà bầu mau lại sức và khí huyết dồi dào, mong rằng uống xong nhỏ con đó được hưởng miếng sữa của má chớ hổng phải sữa bột “vừa bú vừa run”.

– Chị Hồng.

– Ơi.

– Con chị được ba ký chưa?

– Trời đất ơi… Nó mới lọt lòng có hai ngày mà mày đòi ba ký, bộ Thánh Gióng hả con?

– Vậy thôi em hổng lại dòm đâu. Nhìn thấy ghê thấy mồ.

Yên Hồng liếc xéo nhỏ em, rồi cúi mặt hớp từng ngụm canh gà hãy còn âm ấm.

– Mày muốn dòm nó cũng không được đâu. Nó còn trong lồng ấp ngoài kia kìa. Chừng nào cứng rồi người ta mới giao lại cho tao.

– Vậy giờ nó bú sữa ngoài hả chị?

– Sau này cũng vậy luôn. Tao có sữa đâu mà cho nó bú.

Người bạn của Thừa Tân đến đây tìm anh, sẵn dịp thăm Yên Hồng luôn. Nghe hai đứa nhỏ nói anh đã chạy đi mua bánh đãi nó nên chị bèn ngồi chờ.

Một người phụ nữ giường bên hỏi:

– Chị có biết bài nào ru con không? Tôi mắc tiểu quá mà không dám đi, vì sợ người ta vô bắt cóc nó.

Chị bèn ca bài “Ru con” của nhạc sĩ Phạm Duy. Tiếng hát của chị không điệu đà, kiểu cách hay luyến láy; nó mang âm hưởng bình dị và êm mát như góc vườn sau hè nơi miền Tây quanh năm thắm đượm màu phù sa. Đứa nhỏ đã ngủ say trong vòng tay chị. “Ru con” trong “Ánh sáng miền Nam” của Mai Thảo; chào mừng con kế tục những bậc tiền nhân đã đổ xương – đổ máu để gầy dựng lên nơi này.

Yên Hồng tròn mắt hỏi:

– Sao chị không lên đài mà hát?

Người ca sĩ miệt vườn ấy vừa đung đưa đứa trẻ thay võng vừa cười nụ mà rằng:

– Đời người có giọng ca hay giống như con dế vậy. Ở ngoài chốn tự do mới tự tin cất cao tiếng gáy được, vô lầu son gác tía là bặt tiếng liền.

Người sản phụ kia đã quay lại và nhận lại con mình. Chị cảm ơn nho-nhỏ, rồi cúi xuống nâng mặt con lên mà hôn lấy hôn để. Đứa bé bị nhột nên bật cười. Tiếng cười của đứa nhỏ mới sanh vài ngày không quá lớn, nhưng cũng đủ làm rộn vang căn phòng hôi mùi ê-tê và thuốc men.

Do không có dư dả nên người bạn của Thừa Tân chỉ có thể tặng một lốc dầu gió Kim làm quà.

Yên Hồng chia cho người sản phụ hai chai xức lấy thảo. Chồng chị này làm nghề giao đồ mướn nên tới tối mịt mới ghé thăm, ba má chồng thì lo phụ anh rể của chị coi sóc tiệm cơm bình dân, còn ba má chị lại đau yếu nên không thể lên thăm nuôi được. Chị cũng không rên siếc một tiếng, cứ lầm lầm – lũi lũi mà dưỡng sức với con nhỏ.

Thừa Tân trở về thì người bạn của anh đã rời đi được nửa tiếng. Anh có mua cho người sản phụ giường bên một tô cháo lòng bỏ thêm một khoanh giò heo và huyết luộc và một hộp cơm gà – xá xíu kèm canh chua cho chồng cổ; anh cũng có tặng vợ chồng cổ hai lít nước mía và vài cái bánh ngọt.

Ở lại chơi với Yên Hồng thêm một tiếng nữa, Thừa Tân phải đưa Quỳnh Như tới Giáo xứ của nhỏ bạn nó để học nhóm. Nhờ có hai đứa này mà anh mới biết đủ thứ chuyện liên quan tới bầu bì, thành ra anh mới mua băng vệ sinh dư cho cả Yên Hồng và sản phụ giường bên. Cầu Trời – Phật che chở để anh không bị đánh ghen oan.

Giáo xứ chiều nay hiu hắt buồn vì mưa lâm râm suốt. Cảnh vật chìm trong gam màu xám ảm đạm. Cây cỏ nơi đây lưu lại những giọt nước trong veo như viên ngọc lưu ly thượng hạng trên thân mình. Những cơn gió lạnh mang theo hơi thở thanh mát của cây cối và cuốn những chiếc lá đi hoang.

Ngôi nhà của Bích Trâm có trồng cây cóc ở sân trước, đang độ vô mùa nên sum sê khôn cùng, dòm đâu cũng thấy từng chùm cóc chín lủng lẳng. Con nhỏ Trâm đang đứng ôm cái giỏ đệm mà “chỉ đạo” anh Hai nó hái cóc; sẵn cây sào trong tay, ông anh Hai lâu-lâu giả bộ lỡ tay mà khỏ xuống đầu nó một cái đau điếng, cho chừa cái tật hỗn với anh. Chưa vô tới nhà mà mùi mắm-ruốc xào đã bay tới mũi hai chú – cháu người dưng, khiến cho ai nấy nuốt nước miếng gần chết.

– Con Như kìa anh Hai.

– Rồi mày hổng phụ tao hả con quỷ?

– Tui ra đón bạn tui xíu. Đứng đó cho ông khỏ đầu nữa hay chi?

– Hồi nhỏ cái đầu mày méo, tao khỏ riết nó mới đều lại đó.

– Xí… Ông đưa đầu đây, tui chỉnh giùm cho… Anh gì mà hổng biết thương em…

Anh Hai của nhỏ Trâm không hái cóc nữa mà ra coi cái xe “Porsche”. Anh vốn thích chiếc xe này lắm nhưng không có tiền mua nên hễ thấy chiếc nào là lại ra ngắm cho đỡ ghiền.

– Anh Hai nhỏ Trâm đó chú.

Anh Hai nhỏ Trâm tự nhiên hiền queo, không còn “chưa thấy người mà đã nghe tiếng” như ban nãy nữa.

– Cậu thích chiếc xe này hả?

– À… Dạ thích…

– Leo lên đi. Tôi chở cho vài vòng.

Anh Hai nhỏ Trâm thế chỗ con nhỏ Quỳnh Như liền.

Bích Trâm vùng vằng:

– Rồi ai hái cóc cho tui?

– Mày biết leo cây mà…

– Má, anh Hai hổng hái cóc cho con kìa…

– Thôi anh ráng chờ em chút xíu nha. Con quỷ Cám đó nó mà thọt thẹp với má một hồi là tối nay em ngủ đứng luôn đó.

Thừa Tân bèn giúp thằng em hái cóc một tay. Mấy trái cóc xanh chấm mắm ruốc rất ngon, còn loại cóc già lửa thì nên chấm muối ớt; theo ý ăn của anh là vậy. Mấy trái càng ngon thì nó càng ở tuốt trên cao, có nước leo lên hái chứ vợt bằng sào khó lắm.

Hái đâu được một bội đầy vun, hai con nhỏ mới tạm tha mà thả cho hai người đi. Ba của Bích Trâm đánh tiếng rằng ở khu phía Nam đất trống còn nhiều lắm, nếu có dợt xe thì lại đó mà lái an toàn hơn. Anh Hai nhỏ Trâm không dám chồm-hôm, được ngồi xe ké là đã vui lắm rồi.

Ba của nhỏ Trâm trải giùm con gái cái chiếu và kê luôn cái bàn học cho nó. Lần nào bạn của nó đến cũng cỡ khoảng mười người, nên ông sẽ dọn hai tấm chiếu và hai cái bàn học. Sẵn bắt bóng đèn cho tụi nó thấy đường ôn bài luôn.

Độ chừng mười phút sau, những đứa bạn của Bích Trâm đã tề tựu đông đủ; có đứa đi chung xe đạp, có đứa đi riêng, lại có đứa nhờ người thân đưa đi giùm. Trước lúc ngồi vào bàn học, từng đứa bước lại mà khoanh tay thưa ba má nhỏ bạn, và được nhận về một chén mắm ruốc xào và xấp khăn giấy ướt.

Từ Dung đang ca bài “Mùa Thu mây ngàn” của người chồng cũ của cô, tức nhạc sĩ Từ Công Phụng; trong tình khúc này ông có góp giọng vài đoạn.

Nhật Thư vừa ăn chùm-ruột với muối ớt vừa nhăn mặt hỏi:

– Sao tự nhiên mày biết mấy bản này vậy Như?

– Ờ thì… Mà tụi bây nhiều chuyện quá.

Bích Trâm trổ tài thám tử:

– Mày với ông đó hổng có gì phải hôn?

Quỳnh Như chưng hửng:

– Sao có gì được?

Học được một tiếng, Nguyệt Thủy thu gom sách vở vô cặp rồi thông báo:

– Thôi, tới giờ tao phải vô lớp học Giáo lý rồi.

– Trời ơi!

Nguyệt Thủy ký đầu từng đứa một:

– Tụi mày cũng y chang hà. Đừng có mà làm quá lên như vậy.

Bích Trâm dẫn nhỏ bạn xuống nhà sau rửa mặt và súc miệng. Lớp học Giáo lý chia làm hai ca, thành ra bữa trước nó học rồi nên bữa nay nó được nghỉ.

Thiếu đi một đứa, cuộc vui cũng chẳng buồn đi. Những đứa còn lại xúm nhau ôn lại bảng tuần hoàn Hóa Học và công thức của các phương trình cùng căn bậc hai bên Toán Học. Học tới đâu, mặt đứa nào đứa nấy dại ra hết; tụi nó chỉ biết cái ca với cái ly chứ không biết Kali phải đánh số mấy và phản ứng ra sao hết.

– Ê, tụi bây… – Mỹ Huyền vỗ bàn.

Dù đang nhai trái cóc, Bích Trâm vẫn ráng nói:

– Gì mày?

– Sao tao thấy tụi mình càng học càng ngu ra hay sao đó… Bàn một hồi tao hổng hiểu gì hết trơn.

– Để lát anh Hai tao về, tao bắt ổng giảng bài cho tụi mình. Ông là dân chuyên Toán – Lý – Hóa mà.

Mỹ Huyền cười hỏi:

– Mày mua huyết cho ổng chưa?

– Chi vậy?

– Tao sợ ổng ói hết máu mà chết nên biểu mày cho ổng “bổ sung” trước.

Bích Trâm trề môi một khúc:

– Đía dữ.

Má của nhỏ Trâm ra dẹp bội cóc và nói:

– Thôi, ăn nhiêu đây đủ rồi. Ăn quá chọt bụng mắc công… Má con Tâm biểu chút nữa mấy đứa qua nhà bả ăn bánh đa cua kìa.

Cẩm Linh tròn mắt hỏi:

– Bánh đa cua bể là món gì cô?

– Là món nước của xứ Bắc Kỳ, nói rõ ràng hơn là của Hải Phòng. Qua nhà bả ăn cho biết với người ta. Bả hay nấu món quê bả cho nhà hàng nên chắc là ngon lắm.

Ước chừng mười một giờ hơn, đàn bướm trắng ấy đã bay tới nhà má của nhỏ Tâm. Thừa Tân và anh Hai nhỏ Trâm cũng được mời nữa. Còn nhỏ Thủy chốc nữa mới qua ăn chung được.

Trong ngôi nhà nho-nhỏ lợp ngói màu cam đã bạc màu, tiếng ca của ban “Hợp Ca Thăng Long” trong bài “Mưa Saigon – Mưa Hà Nội” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương vang lên khắp chốn. Mẹ của nhỏ Tâm là con gái của một tay giang hồ Hải Phòng, để thoát khỏi sự truy sát của phe đối địch, mẹ bà đã dẫn bà và mấy người anh em của bà xuôi dòng vô Nam, giờ đây bà sống kiểu Bắc nhưng nói tiếng trong này.

Sau giờ cơm trưa, đàn bướm trắng viếng thăm nhà thờ và nhà nguyện. Đương nhiên, trước khi đi, đứa nào đứa nấy đều súc miệng bằng nước “Listerine” hương “Bubble Blast” – đây là loại dành cho con nít lùn, chứ không phải con nít lỡ cỡ như mấy nhỏ này, song vì mùi này rất thơm nên tụi nó mới hùn nhau mua chai này mà về xài chung.

Thừa Tân sẵn đây giới thiệu cho xấp nhỏ quán cơm “Liên Thành”. Anh nói ở đó phát chè miễn phí và bán đồ chay rất ngon.

Trên đường về nhà thương, Quỳnh Như hỏi Thừa Tân:

– Chú có thấy bài nào hay mà bị hòa âm phối khí và giọng hát làm hư không?

– “Hẻm vắng” của ca – nhạc sĩ Sỹ Luân. Bài này mà để Thế Sơn, Don Hồ, Anh Tú, Lương Tùng Quang, Gia Huy,… biểu diễn rất hợp.

– Chú mở một bài nào chia buồn cho con đi chú.

Đôi mắt Thừa Tân mở bừng:

– Chia buồn vụ gì?

– Con sắp đi học lại rồi.

Thừa Tân thở hắt ra một hơi:

– Nghe thấy thương ghê ta ơi…

Tuy vậy, Thừa Tân vẫn mở nhạc theo yêu cầu của nó.

– Bản này tên gì chú?

– “Mắt Thu” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, người trình bày là Sơn Ca.

Chiếc xe Porsche dừng lại ở một cây xăng để tiếp thêm nhiên liệu. Ban nãy Thừa Tân bạo gan cho cậu trai kia lái thử, may phước ở đó là đất trống nên không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Biết bao nhiêu đời dân xứ này mới mua nổi cái xe của anh…

– Công nhận nhạc sĩ Lam Phương viết ra một bản để đời luôn hen.

– Bài gì để đời ông?

– “Thu đến bao giờ?”

– Ờ, đúng là để đời thiệt!

Hai nhân viên vừa đổ xăng cho khách vừa dòm nhau cười hỉ hả.

Vừa boa cho mỗi nhân viên, Thừa Tân vừa giới thiệu quán cơm chay của nữ cư sĩ Ly Ái.

Hai người đáng tuổi em Thừa Tân nghe vậy mừng rỡ vô cùng, ai nấy thảy đều chúc anh chủ quán những lời tốt đẹp.

Vừa tới cửa quán cơm từ tâm, đã thấy những người bán vé số xúm vô mời Thừa Tân mua. Anh mua cho mỗi người hai tờ rồi nắm tay dẫn nhỏ em đi lựa chè. Quỳnh Như ngoáy đầu lại nhìn, thấy trong đám người có vài đứa trạc-trạc tuổi mình, tự nhiên nó hết còn thèm ăn ngọt.

Bà Ái Liên đang nằm trên ghế-bố mà coi phim Ấn Độ. Chỉ cần bà chịu trang điểm một chút là mặt mày sẽ y hệt mới ba mươi. Nhưng buồn tình, rầu con riết đã khiến bà không muốn chưng diện nhiều, thành ra nhan sắc mới chóng tàn phai.

Quỳnh Như thấy diễn viên nữ nhảy hay quá nên lại gần hỏi dì chủ quán rằng có ai nhảy hơn cô này không.

Bà Ái Liên bèn mở cho nó coi video “Dance Music – Instrumental” mà nữ diễn viên Sridevi đã biểu diễn trong bộ phim “Chandni”.

Quỳnh Như trầm trồ:

– Nhảy còn giỏi hơn nhiều nữ ca sĩ K-Pop đình đám bây giờ.

– Bà không biết hát nên bà chỉ nhảy thôi. Và không ỷ mình có nhan sắc và biết khiêu vũ mà nhảy ra làm ca sĩ. Một nghệ sĩ Bollywood biết tự lượng sức mình và hết sức đáng quý, theo quan điểm cá nhân của dì.

Quỳnh Như hỏi:

– Tên của bà nghĩa là gì vậy dì?

– “Sridevi” có thể tạm hiểu là “Thiên Nữ”.

Thừa Tân công nhận bà diễn viên này chọn nghệ danh rất đúng.

– Bà là người ăn chay trường. Mà Saurabh cũng ăn chay trường luôn.

– Saurabh là ai nữa vậy dì?

Bà Ái Liên bèn cho con nhỏ tới lấy chè coi hình.

– Chú, chú,…

– Khoái rồi chớ gì?

Quỳnh Như bẽn lẽn cười.

Cũng nội trong ngày hôm đó, Thừa Tân ghé qua nhà thương thăm Yên Hồng và tặng cho hai sản phụ một phần quà. Quà này hơi tế nhị nhưng rất cần thiết với người mới sanh đang nằm ổ.

– Con cũng có quà nữa phải hôn chú?

– Ừ. Tôi không biết các vị thích mùi hương nào nên mua ba loại khác nhau.

Sản phụ giường bên che miệng cười khúc khích, rồi nhờ Quỳnh Như dịch giùm mấy chữ tiếng Anh trên mỗi chai để chị dễ chọn.

– Hết thảy đều là dòng sản phẩm lăn khử mùi “Dove: Ultimate – Water-Based”, nhưng có ba mùi hương khác nhau: Một là “Peony and Rose water”, tạm hiểu là tinh dầu Mẫu-đơn với Bông-hồng. Hai là “Gardenia and Aloe”, tạm hiểu là tinh dầu Dành-dành với Nha-đam. Ba là “Orchid and Blackberry”, tạm hiểu là tinh dầu Lan-hồ-điệp với Phúc-bồn-tử.

Yên Hồng được chọn trước, nhỏ chọn lan-hồ-điệp và phúc-bồn-tử. Sản phụ giường bên chọn hương mẫu-đơn và bông hồng. Và chai còn lại thuộc về bé con tóc de-mi garcon.

– Ngoài ra, tôi còn mua cho mỗi người một chai “Vaseline: Intensive Care – Soothing Hydration” mùi nha-đam dễ chịu lắm. Công nhận dòng sản phẩm của các vị sao giới thiệu dài dòng quá trời quá đất.

– Chứ ngắn quá sao dụ người ta mua được chú. – Quỳnh Như cong môi.

– Ừ. Ý là tôi đã lược bớt một khúc rồi đó.

Sản phụ giường bên chợt nhớ đã lâu mình chưa được xài mỹ phẩm phân-khúc trung lưu. Tiền ăn mỗi ngày mỗi khó kiếm nên chỉ khi nào đi đám tiệc chị mới dám lấy ra mua đồ chưng diện.

– Còn nữa, mỗi người được một chai xịt khử mùi hiệu “Dove Dry Spray: Go Fresh – Apple and White Tea”, tức là mùi Táo và Trà trắng. Tôi cũng đã lược bỏ một khúc rồi đó.

– Còn cho cái gì nữa hôn chú?

– Sao tự nhiên tôi có cảm tưởng đang tiếp thị sản phẩm quá vậy?

– Lỡ tiếp thị rồi thì tiếp thị luôn đi anh. – Sản phụ giường bên chúm chím cười.

Yên Hồng biết người đàn bà đáng tuổi chị mình đang sợ bị chồng bỏ nên muốn tìm cách cầm chân. Bỏ thì kệ mẹ nó. Mình sống với con mình còn khỏe thân hơn. Mắc giống đách gì phải quỳ lết một thằng không ra gì.

– Sữa tắm “Lover’s Care Goat’s Milk – Jelly and Honey”…

– Rau câu với Mật ong đó chị.

– Nghe thèm ăn chè quá. – Người đàn bà ấy cười rũ.

Yên Hồng nhếch miệng cười:

– Sữa dê hả chú?

– Hổng biết sữa gì nữa. Nghe nhỏ bán hàng dụ sao thì móc tiền ra mua vậy. Đắt xắt ra miếng luôn.

Yên Hồng hỏi:

– Còn dầu gội đầu đâu?

– Tôi có người đồng hương hay nấu bồ kết nên tôi nhờ người đó làm giùm sáu chai. Tuy không có thương hiệu gì sất, nhưng bảo đảm xài tốt hơn mấy loại có thương hiệu.

– Và xà-bông?

– Cũng của “Dove” luôn. Rồi. Hết giờ tiếp thị. Tôi phải về ngủ sớm cái đã. Sáng mai còn bán nước nữa.

oOo

Stephen Đoàn ra công viên ngồi ngắm lá me bay. Một mình.

Với bản “Diễm buồn” của Trịnh Công Sơn, anh ưng ý nhất là giọng hát của nam ca sĩ trước năm 75 Anh Khoa.

Phải, “Làm sao Em biết bia đá không đau?”

Và “Tuổi đá buồn” của ông này, anh vẫn giữ quan điểm như cũ.

– Chú ơi chú…

Stephen Đoàn gượng cười bắt chuyện với đứa nhỏ bán vé số. Anh còn đồng cắc nào đâu mà mua giùm nó.

– Có người nhờ con đưa chú cái này… Thôi, con đi nghen chú…

Gói quà ấy thơm hương bồ kết. Vẫn là cái mùi mà anh đã hằng thương-tưởng tự bao lần. Trong lớp vải bánh-ú là một hũ cao thuốc làm mờ thẹo, mau liền da và giảm ngứa ngáy; nét chữ trong bức thơ đã nhòe đi gần hết do ướt đẫm nước mắt.

Stephen Đoàn bưng mặt khóc.

“Chiều nay còn mưa sao Em không lại?

Nhớ mãi trong cơn đau vùi

Làm sao có nhau

Hằn lên nỗi đau

Bước chân Em xin về mau…”

Cũng nhờ xích-lô trở lại mà Kiều Xuân mới có thể thong dong dạo phố Sài Gòn một cách không bị gò bó trong bốn bức vách của xe hơi.

– Cô đi thử vai hả cô?

– Dạ không, thưa ông.

– Thấy cô bận áo dài, cổ đeo kiềng vàng, tưởng đâu cô đi thử vai chớ.

Kiều Xuân khẽ lắc đầu.

Chuyến hành trình ấy kết thúc ở cổng tu viện Dòng Nữ Chúa Cứu Thế. Kiều Xuân trả tiền gấp đôi cho người tài-xế đáng tuổi cha mình, rồi từ tốn bước xuống chiếc xích-lô.

Maria Hòa đã ngồi đợi nàng ở trên bậc tam cấp. Dù tuổi tác đã cao và đã hồi hưu, nhưng cụ vẫn ráng bận áo nhà tu, chừng nào mệt quá mới thay sang đồ thường.

Đáng ra hai má con đã vô phòng riêng mà ngồi nói chuyện, nhưng thấy bị để ý quá nên cả hai bèn rủ nhau đi ăn chè bên Quận Hai.

Trong lúc chờ taxi tới rước, Maria Hòa nắm tay cô gái cư sĩ mà rằng:

– Con là người mà thằng Mỹ thương hả?

Kiều Xuân rũ mắt cười buồn:

– Anh hổng có thương con đâu, chỉ là xao xuyến nhứt thời vì con quá giống má ruột của ảnh thôi.

Maria Hòa không muốn vạch trần tâm tư của thằng con xấu banh nhà lồng. Năm xưa, chỉ vì xao xuyến nhứt thời mà xém chút nữa bà đã làm ô danh Dòng mình.

“Tin…”

Kiều Xuân dìu Sơ Hòa lên băng sau. Thấy Má đã ngồi yên chỗ, nàng mới bước vô.

– Hai má con đi đâu đây?

Kiều Xuân đưa địa chỉ cho chàng tài-xế.

– Xa à nghen? Tiền cước cao lắm nghen người đẹp.

Kiều Xuân cười mà ánh mắt lạnh tanh:

– Tôi trả nổi mà anh.

Maria Hòa che miệng cười tủm tỉm. Hỡi ơi một đứa đẹp như nó sao lại ưng một đứa “Ngũ đại giai không” như thằng Mỹ?

Người tài-xế biết Kiều Xuân khó động vào nên thôi chòng ghẹo. Anh chú tâm lái xe. Con đường Sài Gòn những mùa cuối Hạ có mưa bụi làm mờ đường và tàn lửa của những chùm phượng vĩ thắm tươi. Ve đã bớt kêu râm ran. Nhưng nắng nóng hãy còn vây phủ chốn thành đô ngày một mất đi mảng xanh thiên nhiên.

Nhưng rồi có vẻ buồn tai, người tài-xế bèn mở bài “Phố vắng” của nhạc sĩ Châu Đình An do Ngọc Lan ca. Anh vừa bị bồ đá vì cái tội nghèo và không có gia sản. Giờ có cô đẹp gái này đây cũng chê anh mà giở giọng khinh khỉnh.

Đón tiếp hai má con vào quán chè lưa thưa khách là bản “Thu ca điệu ru đơn”, do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời theo ý từ bài thơ “Chanson d’automne” của thi sĩ Paul Verlaine, qua phần trình bày của Thái Thanh; phần hòa âm được ba cây đại thụ Tân Nhạc trước năm 75 đảm trách, gồm có Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi và Phạm Đình Chương. Bản nam có Anh Ngọc ca cũng hay.

Người tài-xế sẽ đi chở khách khác trong lúc chờ hai má con xong bữa. Vả lại ở đây cũng không có chỗ đậu xe, lạng quạng cúng thí uổng tiền lắm.

– Má ăn gì Má?

– Răng cỏ Má yếu lắm rồi… Chắc kêu một dĩa bánh flan bí rợ với ly cà-phê thôi con…

– Hồi xưa Đức Cha Trung đẹp trai lắm hả Má?

– Đẹp như tài tử màn bạc vậy con. Lúc nào cũng cười á… Ngay cả khi biết người ta mời mình ly cà-phê có độc…

– Má… Má biết?

– Ổng sợ Má bị thủ tiêu nên xin Má đừng tiết lộ cho ai hết. Ổng chết trong vòng tay của Má mà. Mối tình đầu của Má đã yên giấc ngàn thu trong lòng Má…

– Đã lâu Má mới uống lại cà-phê, Má cứ ám ảnh hoài…

– Má đã giúp C minh oan?

– Phải, im lặng đủ lâu rồi con. Má cũng muốn nhân cơ hội này bắt cho bằng được thằng chó đã giết người mà Má yêu…

Trời nuối thương mùa Hạ nên bất thần làm mưa. Chủ quán hối nhân viên mau thu dọn bàn ghế bày trên vỉa hè và kéo tấm bạt che dài thêm chút nữa để nước mưa không văng vô trong. Trên vỉa hè, những người bán vé số, sửa xe dạo, đánh giày và bán hàng rong thất thểu bước đi trong cái màn nước lạnh tanh ấy; lại thêm một ngày đói ăn nữa…

Kiều Xuân gọi một ly chè Thái và một ly trà xanh cho mình. Cô cũng mời Má ăn thêm bột báng bào sợi bảy màu.

– Cứ hễ Má nghe bài “Woman in Love” của đôi tác giả Barry Gibb – Robin Gibb là tự nhiên Má lại buồn. Má cũng gặp tình trạng này khi nghe bản Việt nữa: Nhạc sĩ Anh Bằng đã dịch thành “Khi Nàng yêu” và nhạc sĩ Phạm Duy đã soạn ra bản “Đi tìm Tình Yêu”. Bản Pháp ngữ thì tên là “Une femme amoureuse” của nhạc sĩ Eddy Marnay.

Kiều Xuân không ngờ một Mẹ Bề Trên như bà cũng có những phút giây xao lãng đường Đạo.

Chuyện trò đâu khoảng một tiếng hai má con mới chịu chia tay nhau. Người tài-xế cũng kiếm được hai cuộc khách trong lúc chờ họ.

Sẵn có xe, Sơ Maria Hòa tới thăm Giáo xứ của hai thằng con. Còn Kiều Xuân thì về nhà cư sĩ Ái Ly nào đó ở qua đêm.

Phần đông Giáo dân đều biết mặt cụ nên đi tới đâu cụ cũng đều được đón tiếp nồng hậu. Phó Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ là Bonifacio – Hiền đã cắt cử hai nhỏ gái trong Ca Đoàn đi theo hầu cụ.

– Chú Bô-Ni-Phát hả Má?

– Ờ…

Đứa nhỏ lúc lắc hai cái bín tóc:

– Chú với cố quản xứ mấy mươi năm rồi. Năm đó chú mới ra trường mà bà con đã tín nhiệm chú làm Phó Chủ Tịch rồi.

Đứa nhỏ cột tóc đuôi gà cười khoe hàm trên trống hết mấy cái:

– Tính ra năm đó chú mới hai mươi sáu hà.

Hai đứa nhỏ mặc dù đã được Bô-Ni-Phát Hiền cấp cho mỗi tên một cái xe cút-kít nhưng vì quà của Giáo dân nhiều quá nên hai đứa đẩy đi rất mệt. Maria Hòa bèn ghé tai hỏi hai đứa nhỏ trong xứ nhà ai khó khăn nhứt, chúng liền trả lời những hộ sống ở tuốt trong xóm Đạo rất nghèo. Cụ dặn lát nữa giúp cụ chia số quà này cho họ. Dẫu sao ký nhi viện đã có rất nhiều Mạnh Thường Quân, lương cũng như Giáo, bảo bọc, nên số quà này nên nhường cho những con Chiên khốn cùng thì tốt hơn.

Sau một hồi cùng hai đứa nhỏ chia quà cho những Giáo dân nghèo, Maria Hòa chia tay hai đứa mà một mình viếng thăm nhà nguyện. Nơi đây, hồi còn sống, Vincent Trung hay ra ngồi tĩnh tâm và soạn bài giảng. Đôi lúc qua giúp xứ, cụ thường thấy người ấy ngồi duỗi chân trên lan-can của hàng hiên phía sau nhà nguyện mà hát nho-nhỏ những bài Thánh Vịnh bằng tiếng Latin; không khi nào đôi môi của người ấy cất lên “Diễm Tình Ca” hay những tình khúc thế gian. Thỉnh thoảng, cụ trộm nghĩ, phải chăng người ấy đã giấu đôi cánh Thiên Thần vào phòng kín để thế gian dễ bề đến gần người ấy hơn?

Bước chân già nua của Maria Hòa đưa cụ đến gần miền ký ức hơn. Hương thơm man mác buồn của bông dành-dành gợi cho cụ nhớ lại tuổi thanh xuân đã tàn lụi. Và rồi trên gương mặt giăng đầy vết thời gian ấy, những giọt nước mắt thi nhau rơi lã chã. Trái tim vốn tưởng ngủ ngoan sau lớp áo Dòng lại rung lên những hồi chuông Tình Đầu như năm cũ. “Trả lại người yêu Tôi đây. Người yêu dấu. Người hào hoa, phong nhã như tơ trời…” Những câu hát trong bài “Yêu tinh tình nữ” của nhạc sĩ Phạm Duy lại âm vang trong tâm khảm cụ.

Dòng hồi tưởng đã cuốn người Sơ sắp trăm tuổi đến công viên mới xây của xóm Đạo. Cụ dừng lại bên một gốc cây vì nghe thấy giai điệu một bản nhạc…

Đó là tình khúc “Si tu m’aimes tant que ca” do song ca Nana Mouskouri và Charles Aznavour trình bày…

Đại ý của bài hát nói về lời nhắn nhủ của hai người thương nhau mà không dám nói, rằng kiếp nhân sinh hết sức ngắn ngủi, tuổi xanh như dòng nước chảy qua kẽ tay, nên nếu có yêu nhau xin đừng hứa hẹn hay chần chừ thêm một giờ – một phút nào nữa mà hãy đến bên nhau thật mau trước khi ngày tàn – đời cạn. Đây là bản Pháp ngữ của René Rouzaud, soạn theo nội dung của tình khúc Ý-Đại-Lợi “Quando, Quando, Quando” của đôi tác giả Tony Renis và Alberto Testa; thành ra về mặt nội dung thì tương đồng, còn giai điệu thì không.

“Nếu yêu Tôi nhiều như lời Người nói

Thì xin hãy đến bên cạnh Tôi ngay đi

Vì tuổi xuân như dòng nước chảy qua kẽ tay

Và Tình Yêu thì mỏng manh, mà lòng người lại biến hóa khó lường…”

Biết rằng người khảy khúc nhạc ấy là ai nên Maria Hòa quyết định không làm phiền người ấy. Cụ ngồi dưới gốc cây mà ôm mặt khóc. Tình đầu giống như boomerang, một khi nó quay lại sẽ cứa nát trái tim người quăng đi.

Chợt có người lay vai Maria Hòa thật khẽ. Ngẩng nhìn lên, cụ thấy đó là đứa con nuôi của anh Trung – Giuse-Blanc Cao Nhật Thành.

Hai má con lặng lẽ trở vô nhà nguyện. Tiếng khẩu cầm kia hãy còn chưa dứt, người chơi đàn như đã quên hết mọi thứ, mà phó mặc hết cho cây Harmonica của mình.

Ngoài trời mưa rả rích rơi, trong nhà nguyện ấm cúng đang có những linh hồn đang phó thác xác thân mình cho Thiên Chúa Toàn Năng.

“Chuông nhà thờ đổ lạnh

Tượng Chúa gầy hơn xưa

Chúa bây giờ có lẽ

Xuống trần gian trong mưa…”

Người ấy đang thổi khẩu cầm bài “Hai năm tình lận đận” của nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, mà giọng hát thư sinh của Duy Quang đã làm lời ca trở nên thơ mộng bội phần.

Joseph Thành ngừng cầu nguyện mà mở cửa hậu đi ra. Ông đứng đó mà khoanh tay ngóng về phía công viên mới xây, thằng Mỹ vẫn ngồi ngoài đấy mà chơi đàn, tiếng Harmonica đang hòa với nước mưa hay nước mắt của nó mà sao nghe thống thiết nhường vậy. Ông dành trọn đời mình cho tha nhân và một lòng dành trọn tin yêu cho Thiên Chúa, nên không biết đường đâu mà nói đôi lời khuyên giải con trai đang nhiễm độc Eva.

Khi trời đã ngừng mưa thì trời cũng đã xẩm tối. Giáo dân trong xứ tề tựu về hội trường theo lời mời của cố Phêrô Toàn.

Đợi mọi người ổn định chỗ ngồi hết rồi, Simon Tử mới mở máy chiếu để cho bà con xem một thước phim.

Đó là thước phim hiếm hoi ghi lại cảnh Đức Cha Vinh-Sơn – Cao Nhật Trung vừa đàn vừa hát bài “Once upon a time”, mà những danh ca ít còn ai nhớ tới như Perry Como, Bobby Darin, Frank Sinatra, Percy Faith, Andy Williams… đã từng trình diễn thật hay.

Khỏi phải nói, Maria Hòa đã bưng mặt khóc nức nở. Giọng nói dấu yêu đó đã mấy mươi năm rồi cụ mới được nghe lại; nó vẫn hay và nồng ấm như ngày nào.

Sau lưng Vincent Trung, là Benedict Diệu. Cha Giám Đốc thuở ấy đang lăng xăng sai đám con trang hoàng sân khấu, còn người bạn thiết của Đức Cha Biển-Đức thì ngồi vắt tréo chân mà đàn hát say sưa. Đôi lúc, Đức Cha Vinh-Sơn quay lại ngó thằng bạn thân mà cười nụ, để lộ hai cái lúm đồng tiền mỗi bên mặt.

Kết thúc màn trình diễn, Vincent Trung ngồi tề chỉnh trên ghế, cây guitar nằm vắt ngang đùi Cha; đoạn Cha húng hắng giọng trình bày:

“Hỡi các Giáo dân xấu số của tôi. Hy vọng các vị bỏ qua cho sự hèn kém, bất tài, tắc trách và phiến diện của tôi trong tương lai. Và hy vọng các vị sẽ giúp tôi được nên Thánh, vì Chúa và vì tha nhân, cũng như dạy cho tôi cách trở thành một Mục tử được nhứt…”

Tới đây thì Vincent Trung ngưng nói, vì bị Benedict Diệu chê bôi rằng mày phát biểu dở ẹt hà. Và thước phim cũng kết thúc tại đó. Không còn gì nữa. Chỉ còn “Lời hẹn xưa” mà thôi.

Cũng trong buổi tối đó, bà con trong xứ được coi bộ phim Pháp ngữ “The Milky Way” phát hành vào năm 1968; nội dung phim nói về cuộc hành hương của hai người bạn khác tuổi đang mất lòng tin vào Chúa. Trên hành trình đến Tây-Ban-Nha để viếng thăm lăng mộ của Thánh John de Compostello, hai người đã tìm lại được niềm tin đã đánh mất. Trong phim có nhiều cảnh bán khỏa thân và phô bày sự làm tình, nên là Simon Tử đã chèn hiệu ứng che đậy cho những phân đoạn này.

Đây có lẽ là lần đầu tiên Giáo dân biết đến một bộ phim bổn Đạo có cách sắp xếp bối cảnh và tình huống ít đụng hàng. Tuy kết thúc bị bỏ ngỏ, nhưng hầu như ai cũng đoán được số phận các nhân vật trong phim ra sao.

Trước lúc cùng Giáo dân thảo luận nội dung bộ phim, các Thừa Tác Viên của xứ đi phát quà lót dạ cho bà con. Ai cũng được một cái bánh tráng – kẹo chỉ-hồng và một ly trà bạc hà.

Ignacio Cường phát biểu trước tiên:

– Có một chi tiết trong phim rất hay, ấy là người trẻ tuổi đã hỏi Satan rằng, “Làm cách nào mà anh đến được đây?” Và Satan đã trả lời rằng, “Tôi đến bên cạnh anh được bởi vì tâm trí anh khởi lên điều bất thiện.”

Tức là khi tâm trí chúng ta nghĩ đến những điều bất thiện thì đó chính là lúc chúng ta mở cửa cho Satan thâm nhập vào linh hồn mình.

Một người Giáo dân có râu quai nón nêu ý kiến:

– Nên chúng ta phải gìn giữ phần hồn cho thiệt kỹ phải hôn Cha?

– Dạ đúng, thưa chú.

Một nữ Giáo dân bận đồ bà-ba giơ tay lên hỏi:

– Sao tui hổng hiểu gì hết trơn vậy Cha?

Ignacio Cường ôn tồn giải thích:

– Bộ phim này thuộc thể loại đa vũ trụ. Người ở thời kỳ “Giáo sĩ trị” xuyên đến hiện đại và ngược về quá khứ mà gặp được Mẹ Maria. Người ở thời kỳ hiện đại ngược về quá khứ và được Chúa Jesus chữa lành. Người ở thời kỳ hiện đại ngược về thời kỳ “Giáo sĩ trị” và cứu được những người muốn chấn hưng Giáo hội; ở thời kỳ này còn có những kẻ tuy thuộc hàng phẩm trật cao trong Giáo hội nhưng lại thờ phượng Satan và che đậy bằng cách đội lốt thờ phượng Chúa, từ đó dẫn dụ con Chiên lầm đường lạc lối và trở nên sa đọa, cuồng tín, mông muội.

– À, hèn gì thấy rối quá trời… Ba cái phim khoa học – viễn tưởng này tui ít coi nên không hiểu mau được.

Bonifacio Hiền đứng lên trình bày cảm nhận:

– Phim này tôi ưng ở chỗ đạo diễn tạo dựng hình tượng Chúa Jesus rất dễ thương. Tức là sao? Tức là như vầy nè: Chúa cười đùa và giỡn hớt với các Thánh Tông Đồ, cũng như nói chuyện với Mẹ Maria hết sức gần gũi và tự nhiên. Không như nhiều phim khác, đạo diễn lẫn diễn viên đã gầy dựng sai cách hình tượng Ngài, nên đã khiến khán giả cảm thấy Ngài rất xa cách và khó chịu.

Ignacio Cường nhớ tới bộ phim mà Thanh Liên kể hôm bữa nên che miệng tủm tỉm cười. Đợi cho cơn mắc cười lắng xuống, anh mới thuật lại cho Giáo dân hay:

– Có lần tôi coi một bộ phim, chắc là đạo diễn yêu cầu diễn viên thể hiện Ngài là người trầm mặc và ưa thích tĩnh lặng. Không hiểu bằng cách nào diễn viên đó diễn thành một người bị tự kỷ luôn.

Bấy giờ Bô-Ni-Phát Hiền mới thôi giận lẫy ông Cha Sở. Chú xẽn-lẽn gãi đầu cười mủm mỉm và tự trách mình “ăn cơm hớt”.

Ignacio Cường lại nói:

– Phim đó là cái phim mà có nữ diễn viên đóng vai Mẹ Maria một cách trớt quớt. Mẹ Maria vốn là mẹ ruột của Ngài, mà cô này diễn sao ai cũng tưởng bà diễn viên đóng vai Thánh Nữ Maria Magdalena mới là mẹ ruột của Ngài!

Rồi thêm một cái nữa, diễn viên phụ không nhập tâm. Phân đoạn Chúa Jesus trừ quỷ cho một người thanh niên, đáng lý ra các diễn viên phụ nên hòa theo không khí đó, thì những người đó lại cười thành tiếng vì cảm thấy mắc cười trước diễn xuất của người đóng vai bị quỷ nhập, thành ra đã khiến cho đoạn phim đó trở nên gượng gạo và kỳ cục vô cùng.

Ông nhiếp ảnh gia hôm bữa ngứa nghề nên hỏi:

– Vậy Cha có thấy phim nào mà diễn viên chính – phụ gì cũng diễn nhập tâm hết không?

– Phân cảnh “Wondrous Boat Ride” trong bộ phim “Willy Wonka and The Chocolate Factory”. Diễn viên chánh – phụ gì cũng diễn hết sức nhập tâm.

Ông nhiếp ảnh gia lại hỏi:

– Còn ai đóng phim đó mà tròn vai hả Cha? Cái phim bên Đạo á.

– Nguyên một dàn “phản diện” và chống Chúa. Còn bên theo Ngài tôi thấy chỉ có mỗi ông đóng vai John “Tẩy Giả” là tròn vai, còn bà đóng vai Thánh Nữ Mai-Đề-Liên thì diễn hơi quá phận nên dòm vô coi rất kỳ.

Ngó thấy ngoài trời hãy còn sớm bửng, Ignacio Cường mời Giáo dân ở lại thêm một tiếng rưỡi nữa để cùng coi một bộ phim bổn Đạo.

Nghĩ về nhà cũng vậy, thôi thì ở lại đây vui hơn, nên bà con hết thảy đều đồng ý.

Bộ phim thứ hai tên là “John of the Cross”, kể về cuộc đời của Thánh John “Thánh Giá”; nhóm bách hại Ông đầu tiên lại chính là Bề Trên và các anh em thuộc Dòng Cát-Minh, chỉ vì Ông không “nghe lời”, “hòa đồng” và sống theo ý của họ.

Có nhiều Giáo dân đã rớt nước mắt khi coi xong, không chỉ vì ngưỡng mộ cuộc đời của Thánh John “Thánh Giá”, mà còn bởi đã thấu hiểu tại căn cớ nào Cha Sở lại mời họ coi phim này.

Và quả nhiên, đúng như nhóm thiểu số ấy đã nghĩ, Ignacio Cường bước lên bục và thông báo rằng:

– Rất có thể, tôi sẽ gặp cảnh huống như Thánh John “Thánh Giá” và không chỉ bị bách hại bởi một phía mà còn có thể rất nhiều phía nữa. Nếu điều đó xảy ra, xin bà con hãy thiệt bình tĩnh, đừng vì lòng hiếu Đạo mà bị dây họa tới thân. Tôi đến với Dòng Chúa Cứu Thế một mình, vì gia đình tôi toàn là theo Phật Giáo hoặc sống theo tín ngưỡng Tam Giáo, nên khi ra đi tôi cũng sẽ đi một mình, không muốn phiền lụy đến ai đâu.

Nói rồi, Y-Nhã Cường đi cà-nhắc xuống bục giảng. Stephen Đoàn dìu anh về lại ghế; nếu có đi, thì anh nguyện xin Thiên Chúa cho mình được cõng Thánh Giá cùng người bạn đồng Dòng.

Sau giờ phim ảnh, Giáo dân lần lượt ra về. Sáng mai Joseph Thành phải đi chạy thận nên không thể nán lại phụ hai đứa con dọp dẹp hội trường.

– Anh về nghỉ trước đi Cường. Hai chân tôi còn lành lặn nên làm việc mau hơn anh.

Ignacio Cường ngần ngừ.

Stephen Đoàn đưa cho Cha Sở một món đồ:

– Nè, điện thoại của tôi nè.

Ignacio Cường mới chịu về trước.

Sau hơn một tiếng mấy dọn dẹp, Stephen Đoàn tới nhà nguyện đặng lần chuỗi và đọc Kinh.

Nhà nguyện về khuya quạnh vắng khôn cùng. Stephen Đoàn lần tay bật công-tắc để mở đèn.

– Ui!

Longiuns Kiến đã ngồi đó tự bao giờ. Ông ngừng lần chuỗi mà đứng dậy làm dấu Thánh trước lúc lại gần Ngọc Mỹ mà mời nó ngồi nói chuyện chơi với mình. Dù tới đây lúc tối trời mà ông vẫn mặc áo Dòng đường hoàng và mang giày da sạch sẽ.

Dầu mưa đã làm ướt những mặt ghế nhưng hai thầy trò vẫn ra đây ngồi. Họ chọn ngồi dưới một cây đèn đường nằm trước bụi bùm-sụm đang trổ bông rực rỡ, bốn bề dế và loài lưỡng cư kêu inh tai.

– Thầy có coi một bộ phim Đại Hàn về đề tài Linh mục tên là “Love, so divine”; bộ phi này thuộc thể loại “Lãng mạn” và “Hài hước”, nhưng Thầy thấy đôi lúc đạo diễn xây dựng tình tiết gây cười hơi quá trớn và bất nhã…

Trước lúc trình bày tiếp, Longiuns Kiến mời con trai uống trà Đài Loan hiệu “Chin Chin” loại “Green Tea – Honey”. Riêng ông thì uống “Fruit Tea: Tropical Fruit”.

– Phim đó có một đặc điểm mà Thầy phải lưu tâm: Đó là ban đầu nam chánh là một Thầy Phó Tế rất mực ngoan Đạo và tác phong tốt, nhưng tiếp xúc với người bạn vô kỷ luật và ưa bày trò riết tâm tánh cậu ta đã thay đổi theo chiều hướng xấu lúc nào không hay, để rồi mới dẫn đến kết cục đáng tiếc ở cuối phim…

– Ý của Thầy là…

Nhưng Longiuns Kiến không muốn giải thích cặn kẽ cho con trai hay, ông muốn tự nó coi phim này xong rồi hẵng đưa ra ý kiến.

oOo

– Ông Cường trúng số thiệt rồi.

– Trúng độc đắc. Sáng mơi đi lãnh tiền.

Ignacio Cường vỗ vai Cha Phó:

– Tôi với anh chia đôi, sau này bà con trong xứ khỏi phải đóng tiền Lễ.

– Sáu Quới không có phần hả?

– Tôi cho ổng nguyên một tờ rồi, còn đòi hỏi gì nữa.

– Vậy ra anh trúng tới hai tờ.

Louis Quới chia số tiền trúng làm hai: Phân nửa cho nhà mình và nửa kia cho bốn gia đình nghèo trong xứ. Chú chỉ cần phân nửa để gởi ngân hàng lấy lời đặng trả tiền nợ cho Andrew Hồ.

Qua ngày hôm sau, Khắc Xương và Thanh Tân cùng nhóm Công Giáo đi lãnh thưởng. Họ là luật sư nên sẽ biết cách đóng thuế đúng luật, thành ra họ phải có mặt ở địa điểm nhận giải.

– Tụi tôi được cho tiền mà cũng phải đóng thuế sao?

Khắc Xương khoát tay:

– Thôi, tụi tôi lấy tiền túi ra trả tiền thuế giùm cho.

Louis Quế ái ngại nói:

– Tự nhiên bắt mấy anh làm không công rồi còn phải mất tiền…

Thanh Tân vỗ vai ông Sáu mà cười rộ lên:

– Vậy bao bữa cơm đi, ông Hội Đồng.

– Được thôi.

Do bữa trước thấy quán “Hai Hòn” của chú Ba bán đồ ăn vừa rẻ mà lại ngon nên hai chàng Cha xứ và ông Thầy Sáu bèn đưa Khắc Xương và Thanh Tân đến đó.

Mấy đứa nhỏ bán vé số vừa nhác thấy mọi người xuống xe liền ào lại mời mua. Sẵn đang rủng rỉnh tiền nên Đức Cường đãi tụi nó một bữa, và mua giùm cho mỗi đứa mười tờ.

– Sao… – Khắc Xương mấp máy môi.

Ignacio Cường vừa bật hộp quẹt đốt xấp vé số mới mua vừa nghiêm giọng nói:

– Đừng để bản thân ham cờ bạc… Khoản tiền đó có thể là bởi Chúa thương hay Satan dụ…

Khắc Xương bật cười:

– Anh nói tôi mới nhớ ở bên Mỹ có nhiều người trúng giải lớn xong tự nhiên đâm ra khoái bài bạc và ăn xài thả ga, mặc dầu trước đây không hề rớ đến hai khoản này.

Người mời cơm là Y-Nhã Cường và Tê-Pha-Nô Mỹ, ông Sáu còn phải nuôi vợ con nên được miễn vụ này.

– Độ rày anh ăn nhiều hay ít vậy Xương? – Thanh Tân sợ hai ông mới “thoát nghèo” tốn tiền quá nên cất giọng nhắc khéo.

– Ông Phạm Duy có bài “Tôi còn yêu Tôi cứ yêu”, còn tôi có bài “Tôi còn răng Tôi cứ ăn”.

Miệng thì nói vậy, song Khắc Xương đã hiểu ý người bạn đồng nghiệp nên chỉ gọi một tô hủ-tíu sa-tế nai cỡ lớn, một tô xí-quách có khô-mực và cải luộc cùng một ly nước tăng lực “Rip It” loại “Citrus X”.

Sáu Quới biết đàn con của mình sính món Tây hơn món Á nên chỉ mua cho mỗi mình vợ chú mà thôi. Sẵn có xe đây, lát nữa chú sẽ nhờ Khắc Xương chở tới quán “Popeyes” và “Pizza Hut”; có gì chú sẽ hùn trả tiền xăng.

Trong bữa ăn, những thực khách ấy cùng ông chủ quán thảo luận về vụ án phi tang xác con-tin hôm bữa và thảm án “Hai Mươi”. Con trai ông chủ và những thực khách khác thấy vui-vui nên cũng xúm lại tranh cãi. Đứng ở ngoài đường dòm vô chắc tưởng lầm ở đây đang có chém lộn hay xảy ra chuyện đòi nợ mướn.

Ước độ gần mười giờ, nhóm bạn của chàng Luật gia Khắc Xương mới rời đi.

Mua xong mấy món ăn ở hai địa điểm yêu thích của xấp nhỏ, nhóm anh em Công Giáo đặt xe Uber ra về để thôi làm phiền hai chàng Luật gia hảo tâm.

Đứng đợi chừng khoảng nửa tiếng, mới thấy tăm hơi chiếc xe năm chỗ hiệu “Nissan – Rogue” màu đen đã đặt. Sáu Quới lên ngồi cùng tài-xế, còn hai ông Cha quản xứ thì ngồi cách nhau một cái ghế – Ngọc Mỹ bên tả, còn Đức Cường bên hữu.

– Đi đâu vậy quý khách?

Huỳnh Quới trả lời:

– Quán cà-phê “Sóng Nhạc”.

– Xa à nghen…

Đức Cường hỏi:

– Bộ tới đó hoài hay sao mà biết hả anh?

– Ờ. Quán đó nổi tiếng lắm. Khách của tôi thường đến đó chơi nên tôi quen đường lắm.

Quán cà-phê “Sóng Nhạc” trưa nay thưa khách. Ông chủ quầy cà-phê vợt và trà-sao đang nằm nghỉ lưng trên ghế bố mà đọc báo trên máy-tính bảng. Cái này ông được một người khách giàu-có chê cũ nên cho ông; mặc dầu đời đã cũ nhưng pin bọng hãy còn tốt lắm, sạc mấy tiếng là dư sức coi được nửa ngày, màn hình và âm thanh cũng rõ nét nữa.

– “Phượng yêu” của nhạc sĩ Phạm Duy sẽ do Anh Khoa ca. Xem thử Anh Khoa hay Thái Thanh ca bài này hợp hơn nghen?

Dù bị chia khách với ông lão tứ cố vô thân, nhưng Thừa Tân không hề để tâm xíu nào. Thay vì đi chùa nuôi mập Ma Tăng, thì lấy khoản đó phụng sự chúng sanh, ấy mới là cách cúng dường Tam Bảo đúng đắn nhứt trong thời buổi nhiễu nhương “quỷ phá nhà chay” này.

Louis Quế chắp tay mà nói:

– Thứ lỗi nghen chủ quán, bữa nay tụi tôi muốn uống thử cà-phê vợt.

Thừa Tân nhún vai, kèm theo một nụ cười tươi trên môi.

Trong lúc chờ ông lão pha cà-phê xong, nguyên nhóm lại cái bàn đối diện với quầy hàng của ông lão mà an tọa. Thừa Tân đang đi làm đá viên.

– Tôi không hiểu ai đã sáng tạo ra khái niệm hát bằng giọng Bắc. – Thừa Tân vừa nói vừa luôn tay lau-máy.

Người khách cổ-cồn trắng cười hỏi:

– Vậy chứ anh nghĩ sao?

– Tôi nghĩ nên nói là hát theo kiểu phát âm miền Bắc mới đúng.

– Tại sao?

– Giọng của các ca sĩ bây giờ ba miền như một mà nghĩ sao đi nói là hát giọng Bắc.

– Nói rõ hơn được không?

– Thái Thanh, Thái Hằng, Duy Trác, Anh Ngọc, Ngọc Long, Trần Ngọc, Vũ Thành An, Tuyết Mai, Hồng Vân,… cất lên một cái là biết Bắc Kỳ liền. Cũng tương tự vậy, Duy Khánh, Hà Thanh, Thanh Thúy, Mỹ Thể, vợ chồng Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết,… rành rành xứ Trung Kỳ. Và Hùng Cường, Hoàng Oanh, Thảo Ly, Huệ Phương,… ca là nghe mùi Nam Kỳ ngay tắp-lự.

– À há!

– Còn bây giờ đa số phải coi tiểu sử mới biết nguyên quán của ca sĩ đó là ở đâu. Vậy mà dám lạm-xưng hát toàn giọng Bắc. Giọng “ba miền vô một” mà dám nói một miền.

– Vậy Nhật Trường thuộc miền nào?

– Lai luôn ba miền: Hơi hám miền Trung, nhả chữ miền Nam và luyến láy miền Bắc.

Một cụ ông vừa cười vừa bình luận:

– Thời xưa phần đông ca sĩ chỉ cần cất giọng là biết được nguyên quán, không bị “mất gốc” nhiều như bây giờ.

Thừa Tân gật đầu:

– Nhiều ca sĩ hải ngoại lẫn thành danh từ trước 75 cũng có giọng “ba miền vô một”, không thể biết được nguyên quán. Một trong số đó là Sĩ Phú.

Cụ ông hất hàm nói:

– Có bài nào là-lạ phát nghe chơi coi bây?

Thừa Tân bèn chọn bài “Hãy vui lên Bạn ơi” của nhạc sĩ Lê Hựu Hà, không hiểu sao người phát hành băng nhạc lại đề là “K. R. T”, do Mỹ Thể trình bày.

Nghe đâu được vài câu, cụ ông xua tay:

– Bản này hòa âm phối khí dở quá, mất đi nét “Rock” tươi vui vốn có của “Phượng Hoàng band”, đổi giùm bài khác đi cậu.

– Ông thích nghe thể loại nào thì con mới kiếm mau được.

– Nhạc Lính. Ít đụng hàng.

– Đợi con nửa tiếng.

Thừa Tân mở cuốn sổ tay rồi dò từng trang một.

Để ông cụ vui, chàng chủ quán mở bài “Thương quá Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ do song ca Xuân An – Đặng Lan biểu diễn; đây là hai trong số rất nhiều ca sĩ trước năm 75 đã rơi vào quên lãng. Màn trình diễn này cũng là một trong những bản trình bày đầy đủ lời bài hát nhứt, rất nhiều màn trình diễn sau năm 75 đã lược bớt đoạn sau.

Ông cụ thấy Sáu Quới ngó mình thì vội lau nước mắt.

Sáu Quới thấy anh chủ quán trở ra, liền hỏi:

– Chế Linh có ca bài nào của Vũ Thành An không anh?

– Hay quá nên tôi ít dám phát.

– Bài nào?

– “Bài không tên cuối cùng”.

Nghe đâu được vài câu, Louis Quế hỏi:

– Nãy giờ ông Linh đang ca cái gì vậy anh?

Thừa Tân nhún vai. Rồi mau chóng tắt nhạc. Đoạn, anh nói:

– Vẫn chưa trớt-quớt bằng bài “Tôi đi giữa hoàng hôn” của nhạc sĩ Văn Phụng.

– Thôi chưa có bài nhạc Lính nào thì cho tui bài nhạc nào mà có sự kết hợp còn kinh thiên động địa hơn nãy giờ đi.

– “Mùa Thu cho Em” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, sẽ do Hùng Cường ca.

Ông cụ tính sửa soạn ra về, đã nghe Thừa Tân mời ở lại đặng nghe thử một bản nhạc mà theo anh là ít phổ-biến.

– “Từ miền xa Người nghĩ về” do Duy Khánh trình bày, người sáng tác là nhạc sĩ Hoài An.

– Bài này cũng thuộc dạng phổ-biến rồi…

– “Ngàn năm mây bay” của đôi nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và Mạnh Phát, ca sĩ biểu diễn là Hùng Cường…

– Phải vậy chứ! – Ông cụ không để cho đứa trai đáng tuổi cháu mình giới thiệu hết đã nhảy vô họng nó luôn. Hình như ông cụ không bận tâm có rằn-ri hay không có rằn-ri, mà chỉ muốn tìm nghe một bản nhạc ít đụng hàng mà thôi.

– Bài này trùng với một ca khúc của nhạc sĩ Nguyễn Hiền. Và hầu như người ta chỉ biết đến bài của ông Hiền và không biết đến bài của hai ông Thanh và Phát.

– Nhắc tới mây bay mới nhớ… – Y-Nhã Cường vừa kéo ghế đứng dậy vừa nói. – Tự nhiên tôi muốn xuống An Giang chơi quá.

– Có rồi nè ông.

– Bài gì?

– “Hôm nào Anh đi” của nhạc sĩ Lê Dinh do Dạ Hương ca.

Rồi vừa cho đá lạnh vào máy bào, Thừa Tân vừa kể:

– Duy Khánh có bài “Chiều một mình qua phố” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nếu như con nhớ không lầm thì đây là lần đầu và cũng là lần cuối ông Khánh hát nhạc Trịnh. Nghe người ta đồn cụ Sơn chê ông Khánh ca bài này như bò rống; nếu tin này đúng là sự thật thì cụ Sơn rất bạc tình với ông Khánh, vì hồi đó cụ Sơn mới vô nghề chưa có ai hay biết tên tuổi mà được một người lão làng như ông Khánh đây chiếu cố chọn hát tác phẩm đầu tay thì phải…

Ông lão ngắt ngang:

– Thôi, bỏ qua đi con…

– Dạ.

Quỳnh Như đã đi mua đồ dùng văn-phòng-phẩm xong. Nó vừa dắt chiếc xe “Mobylette” vừa thở hơi lên mà réo tên ông chú già:

– Chú ơi chú, xe con bị cán đinh, chú.

– Tôi đâu có biết vá xe này…

– Hông, con nhờ chú kiếm giùm người vá xe kìa.

Cũng may trong quán có một người chuyên sưu tầm cổ vật nên rất rành trong việc sửa các loại xe xưa lắc – xưa lơ. Thừa Tân bèn chở Quỳnh Như về nhà của người này để coi chừng xe; đương nhiên anh sẽ ở lại luôn và báo cho ba của nó biết một cách đầy đủ chi tiết. Rồi bận về còn phải ghé nhà thương “hầu” má con Yên Hồng nữa.

oOo

– Tui thường ghé “Chợ Tam Biên” ở đường Brookhurst ăn lót dạ mỗi khi không kịp ghé đâu ăn uống đàng hoàng. Ở đó có món tóp mỡ với da heo chiên giòn ngon lắm, có năm – sáu đồng một hũ hà, tui hay mua về nhắm rượu lắm.

– Già đầu mà còn ăn ba cái đó nữa.

– Đâu, hên lắm mới có mà ăn, ở đây đâu có bán thường mà bà sợ tui đi bán muối sớm.

Bữa nay Vệ Thu bị cảm mạo nên giao hết việc công-ty cho hai thằng con trai giải quyết. Về phần mình, ông lên sân thượng mà nằm ườn trên cái võng xếp “Duy Lợi” và sưởi nắng. Thời tiết ở California khá thất thường, có ngày nắng như chảo dầu chiên thịt người, có lúc lại lạnh quéo râu – đi ra đường mà tưởng xác ướp Ai Cập. Thành ra thân già như ông không kham nổi chuyện “bốn mùa trong một ngày”.

– Có chả ốc cũng ngon. Bò lá lốt ăn cũng được mà giá chỉ có mười đồng.

– Mà ông kiếm ở đâu ra cái võng xếp “Duy Lợi” vậy?

– Có người tặng tui làm quà. Thấy xài ngon quá nên tui khiêng lên đây mà để dành nằm chơi.

Mợ Hai thấy nhỏ Hải Lam đi xuống, sực nhớ nãy giờ nó chưa có gì bỏ bụng nên bà liền chạy đi bật bếp hâm đồ ăn cho nó. Con nhỏ đang trải qua kỳ kinh đầu tiên trong đời nên còn sượng sùng và lóng ngóng lắm, đứng lên – ngồi xuống toàn sợ bị bết ra ngoài. Nó làm cho bà nhớ tới cái hồi bà còn đi bán rong ngoài chợ, mới có hai mươi mấy tuổi đầu mà đã đã có hai mặt con, thân mình chưa có yên đã phải để mắt tới người khác.

– Con thay được chưa mợ?

– Đi tắm và thay đi… rồi… xuống đây ngồi ăn với mợ. Con tự làm được mà phải hôn?

Hải Lam đáp nhỏ rí:

– Dạ.

– Lát nữa thấy cái gì thì nói cho mợ nghe cái đó. Đặng mợ coi có cái chi bất thường thì mợ đưa con tới bác sĩ chuyên khoa liền.

– Dạ.

Vệ Thu thấy tội nghiệp cho con nhỏ Hải Lam. Cha thì vướng án trốn thuế, còn mẹ thì bỏ mặc nó. Tuổi này phải cần có má ruột để sẻ chia tâm tình, người dưng, dẫu thấu hiểu mấy, cũng không thể thay thế được máu mủ tình thâm.

– Bà biết làm tré Bình Định không?

– Món của xứ người ta, tui dân trong này sao biết? Chỉ biết làm nem Lai Vung hà. Mà ông già đầu rồi còn ăn ba cái đồ nhậu…

– Kệ tui. “Em ơi có bao nhiêu, sáu mươi…” À, mà thôi, tui mới có sáu mấy, ca bản này như trù ẻo vậy.

– Ở bên bển có bán gạo Sóc Trăng không ông?

– “Gạo Sóc Trăng” hả? Thím Bảy…

Thím Bảy đang bày tộ ếch kho tiêu và âu cháo trắng, nghe vậy liền trả lời với vô máy:

– Tui hay mua gạo ở “Tiệm gà vịt sống”, nằm cùng khu với nhà hàng “1,99”. Trên bao bì thấy đề là “Đặc sản Sóc Trăng”, hổng biết thiệt hay mạo danh, nhưng theo cảm nhận riêng của gia đình tui thì gạo ở đây ăn ngon hơn mấy thương hiệu khác rất nhiều.

Vệ Thu mời thím Bảy lui. Thím Bảy tủm tỉm cười, bà thừa hiểu ông chủ hết đề tài để nói với bà ghệ nên ngày nào nói chuyện cũng loanh quanh ba cái vụ hết uống rồi ăn với sắm đồ, y hệt như cái nết của cục-nợ đang đeo theo bà mấy chục năm nay.

– Ông kiếm tương con gà ở đâu hay vậy?

– Bữa đó buồn tình đi chợ “Thuận Phát” trên đường Beach hên sao dòm thấy nên ẵm liền hai thùng.

– Giờ còn bán không?

– Hết trơn rồi. Chỉ còn mấy loại “ăn theo” thôi. Tương con gà của ổng thiết kế nắp màu xanh lá cây đậm và vẽ hình gà trống nên dễ nhận biết lắm… À, hình như dưới chợ “ABC” còn bán…

Mợ Hai đi pha cho đứa cháu người dưng một ly trà chanh, mật ong và gừng để nó đỡ ể người.

Vệ Thu có cuộc gọi quan trọng nên ông ngừng nói chuyện với bà ghệ và nhờ thím Bảy lại giữ máy giùm. Cái máy tính này, luôn cả số điện thoại này, đều là để giải trí, thành ra có mất hay bị đột nhập ông chẳng quan tâm.

Thím Bảy kể:

– Tui có chuyện riêng nên không thể tới làm bồi thẩm đoàn theo yêu cầu của tòa án được, nên đã nhờ con trai tui gởi thơ hồi giùm. Chị tin hôn? Nó gởi thơ hồi bảy giờ sáng mà tới bốn giờ chiều cùng ngày đã được chấp thuận rồi; mặc dầu trong thơ trước họ nói mình phải đợi trong vòng mười ngày mới có hồi âm…

– Vậy ra họ nói lơi để mình khỏi trông?

– Dạ. Mà lên trang đó gởi thơ hồi dễ ụi hà. Họ có sẵn biểu mẫu, mình chỉ việc điền vô mấy chỗ có đánh dấu hoa thị màu đỏ là được, còn mấy chỗ kia không muốn điền thì thôi. Làm xong hết rồi á, nó dẫn mình qua một cái trang, nếu mình muốn tham dự thì thôi khỏi làm gì nữa, còn nếu không thì nó có sẵn cái ô để mình nhấn vô mà gởi thơ hồi. Mình hổng biết tiếng Anh cũng viết được lý do nữa chị, bởi nó đề sẵn bốn trường hợp để mình chọn, thông thường thì mình chọn dòng “Không hội đủ điều kiện để trở thành bồi thẩm đoàn”; sau đó nó lại dẫn mình qua một trang khác nữa, ở đây có nguyên một bảng lý do để mình chọn, mình chọn xong thì bấm xác nhận là hoàn thành.

– Vậy ra một đứa dốt trất như tui chắc tự làm cũng được?

Thím Bảy tủm tỉm cười.

Mợ Hai tặc lưỡi:

– Bên đây mà gởi thơ chắc ca hoài bản “Sao chưa thấy hồi âm”?

Hải Lam thưa thím Bảy một tiếng trước khi kéo ghế ngồi vô bàn. Bữa cơm này là do chú Thương đứng bếp, với các món như sau: Canh chua bông-súng nấu với tép-mòng, sườn xào chua-cay, sườn chiên rưới sốt trứng, cá-thu kho khóm, mực xào dưa-leo và hành-tây, tôm chấy dừa, rau-dền luộc và bầu hấp. Nấu nhiều như vậy vì phải chiều theo ý ăn của từng người.

Thím Bảy trầm trồ khen con trai của bà bạn khéo tay quá. Thằng con của bà lai Mỹ rồi nên giờ đây không còn ăn cơm chung với bà nữa. Hồi mới qua Mỹ nó đâu có vậy đâu? Thiệt tình…

– Bà có gởi đồ về hôn bà?

– Gởi đồ dìa á hả?

Mợ Hai gật đầu. Rồi ngó sang con Hải Lam, nó đang và cơm với trứng cá-thu và một miếng khóm, nó ưa món này dữ lắm.

– Gởi thùng nào mất đồ thùng nấy. Nó lấy vài món, mà mỗi món bằng phân nửa tổng số mình mua, thí dụ như mua hai cây kẹo thì nó mổ lấy một cây.

– Mấy cái thứ đó bên đây cũng có bán đầy thì lấy làm chi cho tổn đức?

– Ai mà biết. Bởi ta nói, đi làm chết cha – chết mẹ, cắc ca cắc củm gởi được chút quà mọn về cho con cháu lấy thảo, mà cô hồn sống nó hưởng bớt rồi.

– Chê – chửi dữ lắm mà cũng lấy hàng Mỹ về xài hả?

– Ờ, ngộ dữ lắm.

Mợ Hai giúp Hải Lam cột lại mái tóc rối bù. Bên kia đại dương, thím Bảy nói mà như đang khóc:

– Thí dụ, mình gởi thuốc hay những thứ có hình dạng giống thuốc, người ta nghi ngờ lấy bớt vài viên, vài vỉ hay vài chai để xét nghiệm coi có phải là bạch phiến hay không thì tui đâu có tức dữ vầy, đằng này toàn là kiếng mát, bánh – kẹo, kem đánh răng,… xoàng-xoàng bậc trung không hà, vậy mà cũng ráng chôm nữa…

Nói đến đây, đôi mắt của thím Bảy đã ướt rượt. Muốn nói nữa cho hả cơn tức nhưng tự dưng thím lại nghẹn họng. Đời thuở nào người con xa xứ lại phải đề phòng chính đồng bào của mình từng li từng tí.

Vì đã được ông bồ dặn trước rằng bên bển không thích bị hỏi lương bổng hay nghề nghiệp nên mợ Hai hỏi câu khác:

– Làm ở đây chị thấy sao?

Vừa lấy ống tay áo lau lệ, thím Bảy vừa trả lời:

– Cũng may gia chủ rất hiền và dễ tánh nên tui đỡ khổ. Hễ làm xong việc là mình được về phòng nghỉ, không có bị sai vặt như mấy chỗ khác. Với lại ở đây gia chủ đi vắng thường lắm, năm thuở mười thì mới thấy mặt, nên tui vừa làm vừa chơi không hà.

– Người Việt với nhau mà, chèn ép nhau chi.

– Tại ông chủ “lai” Tiên – Phật nên mới dễ thương dữ vậy. Hồi trước tui đi làm nhà hàng, trời ơi nó đì mình y như nô lệ thời Trung Cổ, đi tiểu có mấy phút mà nó cũng huýt háy thấy mà ghê.

– Bên bển có thiếu việc làm không chị?

– Thiếu đâu, nhóc luôn. Con nhỏ cháu tui đã ghi danh ở “Anaheim Convention Center”, giờ đang làm công việc đóng gói quần áo dưới Santa Ana trong lúc đợi họ kêu đi phỏng vấn. Nghe xếp quần áo tưởng đâu lương ít, ai mà ngờ đâu một giờ tới 17 Mỹ kim, làm nguyên ngày là sống khỏe rồi.

– Xếp quần áo không mà 17 đồng, bên đây làm nguyên ngày không biết có được 10 đồng không.

Vệ Kích sẵn thấy thím Bảy nên nhờ thím làm cho anh một tô cháo ếch. Anh sẽ ăn ở đây với ba.

– Ủa? Kích hả con?

– Dạ. Bữa nay ba con tiếp thị tới đâu rồi?

Mợ Hai khúc khích cười:

– Ờ, ổng làm như ổng đi tiếp thị sản phẩm vậy.

Vệ Kích lắc đầu cười:

– Nói chuyện với thím, nói lộn thì mơi mốt nói lại được. Còn nói chuyện với bạn bè – mối mang, mình nói hớ một tiếng là người ta để bụng liền, nên mệt đầu lắm.

– Mà ổng cũng có chuyện gì để nói với thím đâu…

Vệ Thu quay trở lại. Ông ngoắc Vệ Kích lại và nói nho-nhỏ vô tai. Chừng nói hết rồi, ông mới ngồi xuống ghế mà ăn cháo đặng có sức uống thuốc chữa bịnh.

– Ở bển có chỗ nào bán heo quay ngon không ông?

– Có. “Yummy Bakery”, nằm trên đường Westminster. Còn vịt quay, gà hấp xì-dầu hay gà hấp muối, tôi ưa mua ở “Bolsa B.B.Q”. Còn mấy chỗ mắc tiền hơn, tôi ít ăn lắm, vì không thuận đường.

– Hết đề tài để nói rồi phải không? Vậy giờ ông kể cho tui nghe hành trình vượt biển của ông được không.

Sẵn Vệ Cung có ở nhà, Vệ Thu bèn kêu Vệ Kích đưa nó lên đây để ông kể luôn một thể. Và bà ghệ của ông cũng lên lầu mà gọi Vệ Thương xuống.

Đêm hôm đó cũng là đêm mà ba đứa con trai của Vệ Thu đã trải lòng với ông rất nhiều. Để biến các con trở thành người thuộc tầng lớp thượng lưu, ông đã phải đổ máu, nước mắt và mồ hôi hằng bao nhiêu năm trên xứ lạ – mà nay xứ này đã trở thành Quê Hương thứ Hai của ông.

oOo

Hai cô tiếp tân của khách sạn mời chàng đạo diễn và bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” trình căn cước cho hai cô coi để hai cô xác minh danh tính từng người và làm thủ tục nhận phòng.

Chừng khoảng mười phút sau, nguyên đám mới hoàn thành xong thủ tục. Dẫn đường cho họ là một cậu bồi phòng chừng khoảng hai mươi, hai mươi tốt tuổi, mặt hãy còn búng ra sữa, và nước da trắng nõn như bông bưởi, từ dáng đi đến ngữ điệu đều làm cho người đối diện cảm thấy khó quên.

Đức Trọng ở phòng riêng, giường đơn, nên sẽ ở khu phòng bên kia, thành ra phải đi thêm một đoạn nữa. Còn bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” ở phòng có hai cái giường đôi nên sẽ dừng bước tại đây. Trước khi chia tay, cậu bồi phòng xin chữ ký và chụp hình chung với Đức Trọng và Đức Hoàng; chàng đạo diễn và chàng diễn viên điều vui vẻ nhận lời, Đức Hoàng còn boa cho cậu bồi một trăm phòng.

Sau buổi nhận phòng, Đức Hoàng rủ ân nhân và bạn bè về nhà ăn bữa cơm “Chăm – Việt giao thoa”. Nhờ liên tiếp nhận được quảng cáo mà giờ đây gia đình của gã trai con lai được sống trong một ngôi nhà sàn bề thế và đẹp đẽ. Hắn còn mua luôn hai ngôi nhà của hàng xóm để làm sân bên hông nhà và thêm đất cho sau hè.

Má của Đức Hoàng diện bộ đầm sát nách – cổ tròn cách điệu theo họa tiết sắc tộc Chăm. Còn ba của Đức Hoàng thì bận bộ bà ba phi bóng mát mẻ. Mấy đứa em của Đức Hoàng cũng được ăn mặc thật đẹp, nào còn cái vẻ lam lũ và đói khổ ngày xưa.

Đức Trọng nghe nói ba má Đức Hoàng bây giờ là chủ một vựa ve-chai khá lớn; do trước đây có kinh nghiệm bán ve-chai, lại không có chuyên môn về những ngành khác, nên chú – thím quyết định sống bằng cái nghề này luôn. Ngoài ra, chú – thím còn đầu tư cổ phiếu vào một công-ty tái chế rác thải trên Sài Gòn và mua trái phiếu dài hạn của nhà máy chế biến rác thải do chánh phủ lập ra. Tựu trung, nghề nghiệp hiện thời của đôi vợ chồng Chăm – Việt liên quan tới ve-chai và rác thải. Hèn chi, hội tẩy chay Đức Hoàng mới “phong” cho nhà anh ta là “Gia đình phế thải”.

– Chị tuy đã cải sang Phật Giáo nhưng vẫn giữ nguyên việc kiêng thịt heo. Còn ổng cũng nghe theo lời Đức Thầy nên rất hạn chế ăn thịt bò. Song, chị vẫn sẽ nấu món thịt bò và thịt heo cho em và tụi nhỏ ăn.

– Rồi chị với ảnh ăn gì?

– Ăn đồ biển và thịt gà.

Bữa cơm trưa có những món Chăm như sau: Ga-Pội (tương tự như cà-ri bò), canh bội và cơm Nị – Cà-púa; kế là món Việt: Gà đốt Ô-Thum, bò bảy món núi Sam và gỏi bồn-bồn chua cay; tiếp nữa là món Miên: Lẩu mắm bò-hóc và cá cuốn lá chuối nướng; và sau rốt là món Hoa: Thịt kho Tô Đông Pha, khoai-tây chiên sơ đem xào với thịt heo xắt-sợi và gỏi lòng-heo trộn sốt cay kiểu Tứ Xuyên. Đương nhiên, để nấu được bao nhiêu đó món, thím Ba đã cần đến rất nhiều đầu bếp giỏi có sắc tộc khác nhau; chứ một mình thím sao kham nổi, mà đừng nói tới chuyện kham nổi, thím làm sao mà nấu ngon bằng đầu bếp lành nghề.

Do không quen ăn món của người Chăm và người Miên, cũng như sợ dầu mỡ trong món ăn của người Hoa, trong suốt bữa ăn Đức Trọng chỉ ăn nhiều món của bà con Bảy Núi. Lâu thật lâu anh mới gắp vài đũa mấy món của sắc tộc khác.

Chú Ba cười biểu:

– Mang tiếng là món Việt chứ kỳ thực mấy món này đều có gốc Miên hay gốc Chàm hết. Gọi món Việt vì mình đã nêm nếm lại cho hạp với khẩu vị của mình mà thôi.

Đức Trọng nhoẻn miệng cười:

– Dạ, nhiều món trong này là “con lai”. Tôi thích “con lai” hơn “con ruột”, tại “con ruột” lạ miệng quá ăn không quen.

Chú Ba bật cười khúc khích. Đoạn chỉ vào dĩa đựng con cá bống mú bọc lá chuối mà mời:

– Nè, “con ruột” nhưng mà dễ ăn lắm. Không có nhiều gia vị là-lạ đâu.

Vậy là Đức Trọng bèn làm vài cuốn bánh tráng. Mắm nêm này cũng được pha theo kiểu gốc Việt nên rất dễ ăn đối với anh.

Mấy anh em Đức Hoàng và hai thằng bạn Nam Kỳ đã ăn xong nồi lẩu mắm bò hóc. Riêng Khán Bình thì hảo món thịt kho Tô Đông Pha và cơm Nị – Cà-Púa hơn; chỉ có vài món mắm hắn ăn được, còn lại thì không bao giờ đụng đến.

Sau giờ cơm, Đức Trọng xin phép mượn nhà vệ sinh một lát để súc miệng. Anh bị mắc cái tật phải làm sạch răng mỗi khi ăn cái gì đó chứa quá nhiều gia vị, hương liệu và nặng mùi; thành ra lúc nào trong người anh cũng luôn có chai “Listerine: Ultraclean – Arctic Mint” không cồn.

Nhà tắm – cầu tiêu của khách nằm ở tuốt sau hè, tứ bề được bồn bông ôm vòng lấy, trên mái che của bậc tam cấp lắp một giàn bông giấy đơn sắc rực rỡ. Trong đây được trang bị theo quy chuẩn nhà vệ sinh Nhựt Bổn, tức là cái gì cũng tự động và tân tiến hết, thành ra vô đây không nghe mùi hôi hay thấy sàn nhà bị dơ.

– Mình lên núi Cô Tô chơi nghen anh? – Đức Hoàng ngỏ ý trước lúc để cho người đạo diễn vô nhà vệ sinh.

– Được thôi. Tôi cũng đang đi kiếm ngoại cảnh cho mấy tập phim sắp tới.

Trước lúc khởi hành, Đức Trọng lì-xì cho mỗi đứa em của diễn viên Hoàng một phong bao màu xanh nước biển mong-mỏng.

Đức Trọng mạn phép lên băng trước ngồi. Những người bạn của Tống Ngạn ở băng giữa; chiếc xe này được cái có thể di chuyển ghế ngồi theo ý mình, nên hễ cần là họ sẽ biến băng giữa thành ba hay hai chỗ ngồi. Chiếc xe “GMC – Yukon” bảy chỗ mau chóng lăn bánh.

Thất Sơn vào mùa mưa trông hư ảo vô cùng. Trên cao là mây mờ hơi nước, núi như hòa lẫn vào nền cây, rừng xanh cũng nhuốm màu ảm đạm theo màu mây neo đậu quanh viền núi, chim chóc túa nhau bay về tổ, vầng dương cũng đượm buồn lây. Hai bên đường, khi là những xóm diềng có những ngôi nhà nép sau cổng rào đơm hương cây lá, khi lại là những ruộng lúa đã mạ xanh và nước đã ngấp-nghé bờ. Những đứa trẻ đi lùa bò vẫn thấy bóng dáng đen nhẻm, đầu tóc hôi mùi nắng cháy của chúng diễu đầy phố; không cần hỏi, Đức Trọng vẫn biết từng đứa trẻ một chưa hề biết cây chocolate là gì, chứ đừng nói chi là đã nếm qua. Con lộ hẹp, chiếc xe lớn, bò lại đông, phải ráng hết sức Tống Ngạn mới không trở thành dũng sĩ đấu bò bất đắc dĩ.

Đến được chân Phụng Hoàng Sơn thì trời cũng đã xế trưa. Trời đã hửng nắng sau màn mưa lê thê ban nãy. Cầu vồng đôi chầm-chậm hiện lên ở đằng Nam. Gió mát mang theo mùi cây rừng và đất ẩm ngai-ngái. Những chuyến xe ôm lại dập dìu lên – xuống con đường mòn nhỏ.

Đợi cho không còn chiếc xe ôm nào nữa, Tống Ngạn mới lái xe lên trên núi. Cũng may lúc bấy giờ chỉ có vài khách bộ hành nên màng nhĩ của gã trai đô thành không bị thủng.

Đi được một đỗi, chiếc xe ngừng lại dưới một cội cây da sà, vì Đức Trọng muốn đi thăm xóm nhỏ và những chùa – chiền quanh đây. Vốn đã quá quen thuộc với nơi này nên bộ tứ tỏ ý không muốn đi theo, thành ra chàng đạo diễn ngoạn cảnh một mình và dặn chừng nào mình muốn về sẽ nhờ họ tới rước, bộ tứ gật đầu ưng thuận.

Tịnh thất vẫn không có một bóng khách hành hương. Tăng đoàn đón mùa An Cư Kiết Hạ trong sự bình yên dễ chịu. Mỗi ngày đều có người lên cúng dường cho họ nên họ không lo bị đói, chỉ hiềm một đỗi tội nghiệp cho những người hảo tâm đó phải vượt qua một chặng đường dài và rất nguy hiểm.

Rước họ vào tịnh thất là cư sĩ Pháp Thân. Ông bận đồ màu trắng. Dáng người dong dỏng cao, mắt sáng hữu thần, tóc muối tiêu búi tó, lại còn hàm râu bạc phơ; trông tiên phong đạo cốt dữ thần.

– Có khách hả cư sĩ?

– Dạ, Thầy Liên.

– Mời vô… nhà sau. Nhà trước mắc đóng cửa để huynh đệ hành Thiền rồi.

Vậy là bộ tứ phải đi vòng ra cửa sau. Sẵn có vật liệu, Tăng đoàn xây thêm hành lang mỗi bên hông nhà để những người khách phương xa khỏi phải lội sình lầy mà dơ chân; mỗi bên hành lang rộng độ ba mét, trên có mái che là những miếng nhựa giả ngói xếp thành, ở đây mắc bốn cái đèn chụp bóng-tròn có phần lồng bện từ xơ-dừa, và dọc theo hành lang là bồn bông trồng toàn những loài cây dân dã hoặc chỉ mọc được trên núi.

– Lan-can này đặt mua ở đâu mà đẹp quá vậy ông? – Ernest Nguyễn trầm trồ hỏi.

– Tre này là của nhóm thợ làm đồ mỹ nghệ, mấy khúc này họ chê họ bỏ nên mấy Thầy mới xin về rồi ra công gọt đẽo lại thành lan-can.

Rồi Pháp Thân che miệng cười, để tránh làm phiền đến những Tăng sĩ và Sa-di, mà rằng:

– Thầy Liên, Thầy Tâm, Thầy Diệu với cậu Duy Hảo mà ra tay là mấy ông thợ này mất khách hết.

Thanh Liên đã ngồi đợi họ trên bộ ngựa. Xung quanh anh là những chồng kinh điển Theravada, tự điển Phật ngữ và sách của các thiền sư chuyên tu lẫn thích dây dưa với đường đời. Anh ngồi đó mà như một pho tượng, bởi trên mặt không thể hiện cảm xúc gì ngoài một nét cười rất nhạt trên môi.

– Tôi có thể làm gì cho các Thầy được không? – Đức Hoàng chắp tay mà hỏi.

– Miễn đừng liên quan đến kim tiền – tài vật, thọ mạng của chúng sanh hay khiến người ngoài nhìn vào mà hiểu lầm Pháp Phật.

Đức Hoàng sáng dạ nên hiểu liền:

– Vậy mai tôi sẽ mời Tăng đoàn một bữa cơm.

Thanh Liên làm ấn thủ chấp nhận thay cho một lời nói.

Ngồi đọc sách chừng đâu nửa tiếng hơn, buổi hành Thiền chấm dứt; Tăng đoàn chưa kịp sửa soạn đứng dậy đã nghe thấy tiếng kèn xe hơi vang lên không quá lớn, dường như người nhấn cũng ngại nhưng vì bất đắc dĩ nên mới phải đụng đến nó.

– Pháp Thân.

– Dạ?

– Nhóm anh em Công Giáo lên đây thăm Tăng đoàn. Hai trong số đó là Cha xứ của xóm Đạo mà chú đang ở.

– Ủa? À… Vậy tốt quá rồi…

Lần này người mở cửa rước nhóm anh em Công Giáo vào là Chân Tâm.

– Vợ của Thầy Sáu hả Cường?

Maria Bích gật đầu xác nhận. Đoạn nhìn kỹ gương mặt của Chân Tâm. Xin lỗi ông già nghen, mèn đét ơi, người ta đẹp trai không thua gì tài tử Hồng Kông hết.

Chân Tâm đưa mắt ngó chỗ khác. Rồi nhờ Duy Hảo dẫn đường cho họ đến lữ-điếm mà ông Sáu Diên mới cất thêm.

– “Lữ-điếm”? – Maria Bích ngạc nhiên tới nỗi tròn mắt. – Sao gọi là “Lữ-điếm” vậy các vị?

Thanh Liên ôn tồn giải thích:

– “Lữ-điếm” là dịch từ chữ “Homestay”. “Lữ” trong “Lữ khách”, “Điếm” trong “Nhà có tính cách công cộng”; ghép lại thành “Nhà trọ cho khách du lịch”.

– A, mình sính tiếng Anh riết quên luôn rất nhiều chữ Hán-Việt và chữ Nôm.

Sáu Quới cười ồ lên:

– Vậy chớ nhiều đứa sẽ nói mình sính Tàu đó Liên.

– Sadhu.

Sáu Quới lại nói:

– Chẳng qua bây giờ bụng dạ bất minh nhiều quá nên hễ nghe tới chữ “Điếm” là tự động nhột mà la lên phản đối thôi.

Thanh Liên bật cười:

– Chứ bây giờ mà chú hỏi tụi nhỏ câu “Cầu sương điếm cỏ” được bao nhiêu đứa biết mà viết đúng chánh tả, chứ đừng nói chi tới hiểu đúng điển tích này.

– Chớ mà hỏi tụi nó thần tượng của tụi nó mọc nốt ruồi ở đâu là tụi nó giải thích vanh vách liền.

Maria Bích hỏi:

– Vậy chớ mấy trạm dừng chân cho khách nghỉ ngơi và vô đổ xăng thì kêu là gì các vị?

Thanh Liên trả lời:

– “Lữ quán”.

Maria Bích cười rộ lên:

– Tiếng Việt ngày xưa thật đẹp và diễn giải đúng với hàm ý mà người ta muốn nói.

Đức Trọng nhờ đi quá giang xe của nhóm Công Giáo mà khỏi phiền lụy tới bạn bè của diễn viên Hoàng. Gặp chiếc xe này lại là “Mitsubishi – Adventure GLS Sport” mười chỗ hiếm gặp nên anh bỗng cảm thấy không thoải mái cho lắm; xe này ngộ ở chỗ hai băng ghế nằm ở thân trước có thiết kế như bình thường, còn phía sau lại chia thành hai băng ghế nằm đối diện nhau như kiểu băng ghế trên xe lam vậy – mỗi băng đủ cho ba người ngồi. Xe này hình như chỉ thông dụng bên Phi-Luật-Tân chứ ở đây anh ít thấy ai chạy.

Louis Quế sực nhớ tới Vườn Lan nên ngỏ ý muốn được dẫn bà-xã tới đó chơi. Vậy là Trì Thương đứng ra đảm nhận việc đó. Hai ông Cha xứ, chàng đạo diễn và bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” cũng lục-tục nối gót theo.

Đi được chừng đâu vài trăm mét, Trì Thương dừng lại mà hỏi:

– Có ai muốn đi vệ sinh không?

Sáu Quới hiểu ý vợ nên đứng ra nhận.

– Đằng đẵng kìa.

Đôi vợ chồng “Già nhân ngãi” ấy nắm tay dắt nhau đi.

Trên đường trở về, Maria Bích day sang càm-ràm ông chồng già:

– Sao thấy ông sư hồi nãy hổng ưa tôi đó mình.

Trì Thương đứng cách đó một khoảng mà nói vọng tới:

– Giới Luật nhà Phật cấm các Tỳ-Kheo nhìn thẳng vô mặt nữ giới hoặc nhìn họ quá lâu. Chứ không phải ghét bỏ gì cô hết. Thậm chí, không được nói chuyện lâu luôn.

– Ông này thính tai thiệt chứ!

Sáu Quới không muốn nói cho vợ biết chuyện còn đáng ngạc nhiên hơn ở người này.

Đến hang động mà Thanh Liên và Đoạn Trần ẩn tu vào mùa nắng, Trì Thương mời những lữ khách đô thành tự nhiên xuống nhà sau thưởng lan. Chú còn một bài Kinh chưa tụng nên phải ở lại Chánh Điện một lát.

Vườn Lan chỉ có hơn phân nửa là trổ bông, còn lại đang trong kỳ “ngủ đông” vì hết mùa.

Maria Bích ngẩn người đi giáp vòng Vườn Lan. Khung cảnh này chị chỉ từng thấy qua những thước phim của Walt Disney, Dream World, Ghibli Studio hay Pixar, mà giờ đây nó đã hiện hữu trước mắt chị và còn đẹp hơn thế nữa. Càng dấn sâu hơn, đôi dòng lệ nhòa trên gương mặt chị càng thêm nhiều.

– Sao vợ tôi khóc vậy cậu Thảo?

– Hồi xưa, chỉ từng mong muốn gặp được bạch mã hoàng tử trong khung cảnh này. Năm tháng dần trôi, thực tế khắc nghiệt đã giết chết mộng mơ thuở nhỏ. Bây giờ chỉ thấy khung cảnh này nên nhớ lại giấc mơ năm xưa ấy mà.

Sáu Quới nhếch miệng cười khan:

– Tôi là “Bậc mã ôn” chứ đâu có phải “Hoàng tử” hay “Đức vua”.

– Thầy của chú chưa lên hả?

– À… Còn đi thăm viếng chùa chiền và ngoạn cảnh ở dưới. Mấy ổng nói lát nữa tự lội lên, không lội nổi thì bơi, khỏi cần phải lo cho ổng.

Ước khoảng một giờ trưa, Trì Thương mới tụng kinh xong. Anh thổi tắt hai ngọn đèn bảo-liên-đăng, rồi từ tốn sửa y trước khi đứng dậy. Lát nữa thể nào cũng có tranh luận giữa bên anh và bên người ta.

Y-Nhã Cường cười hỏi:

– Đi đâu vậy Thảo?

– Đi vệ sinh.

Stephen Đoàn bước lại gian Chánh Điện mà ngắm bức tranh vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và hai đại đệ tử Đại Ca-Diếp và Ananda. Lòng ngưỡng vọng quá lớn đã làm cho sức người có thể “dệt” lên nền đá một bức tranh điêu khắc tuyệt mỹ. Bên anh cũng có nhiều Thánh tích như vậy, và thật may vẫn còn giữ được nguyên vẹn như thuở ban đầu hay được tu-bổ đúng cách nên vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy.

Đức Trọng cũng bước ra ngắm bức tranh. Trước khi đưa máy lên chụp, anh thành tâm chắp tay đảnh Lễ, “Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa…”

Longiuns Kiến, Matthias Hoàn, Augustino Dương, Thomas Tường và hai cha – con Joseph Thành đứng thở một hồi mới biết mình còn sống khi lên tới trên đỉnh núi. Đứa nào đứa nấy đã ngoài lục tuần mà còn bày đặt “làm phách”, nên giờ mới oải chè đậu như vầy.

Đợi nhóm Công Giáo cao niên khỏe hơn, Duy Hảo mới dẫn họ tới lữ-điếm của ông Sáu Diên mà sắp xếp phòng-ốc. Lữ-điếm này có những sáu phòng ngủ nên phải cất tới hai lầu để phòng nào cũng được rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Vợ chồng Sáu Quới đã xí cái phòng ở trên lầu Hai có ban-công trổ ra hướng đối diện với ngọn núi ở dãy khác, phòng này có luôn cầu-tiêu và nhà tắm riêng nên Maria Bích khỏi mắc cỡ.

– Cậu là chủng sinh hả? – Thomas Tường cười hỏi.

– Dạ, bên tôi gọi là Sa-di, thưa Cha. Người đời thường gọi là “Chú Tiểu”, đây là cách gọi xuất xứ từ Đại Thặng – Bắc Tông. Còn Nguyên Thủy Phật Pháp gọi là “Sa-di”.

Tự biết sức mình không tốt nên Mạc-Thi-Ơ Hoàn, Âu-Cơ-Tinh Dương và Giusê Thành chọn ở tầng trệt; Simon Tử thích ngắm cảnh nên bỏ Bố mà lên lầu Hai ngủ. Longiuns Kiến và Thomas Tường ở chung một phòng ở lầu Một; phòng này là giường-đôi nên đứa này không sợ ngủ mê quá mà đạp đứa kia xuống dưới đất, lại có cầu-tiêu và nhà tắm trong phòng nên khỏi phải đi đâu xa lơ xa lắc.

– Máy giặt, máy sấy nằm ở đây nè. – Duy Hảo chỉ tay vô cái cầu thang dẫn xuống tầng hầm.

Augustino Dương hỏi:

– Cậu bao nhiêu tuổi?

– Mới hai mươi hai hà Cha.

– Có đi quân dịch không?

– Dạ không, tôi bị bịnh tim nên được miễn.

– Bịnh tim mà sống tuốt ở trên đây chịu sao thấu?

– Đã mổ rồi, thưa Cha. Không nhờ Thầy Liên bỏ tiền ra cứu độ chắc là năm nay nhà tôi đã ăn đám giỗ lần thứ bảy của tôi.

– À, mổ rồi, nhưng bác sĩ không cho hoạt động thân thể quá sức chịu đựng phải không?

– Dạ.

Buổi chiều hôm đó, đạo diễn Đức Trọng rủ bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” và nhóm Công Giáo đi ăn buffet. Thanh Liên gởi tiền cho Đức Cường mà nhờ người bạn thiết mua giùm món gì ngon-ngon cho Pháp Thân, Chánh Tâm và bộ đôi Chí – Hòa. Vậy là Đức Cường bèn mời Pháp Thân, Chánh Tâm và luôn cả thím Huê đi ăn chung.

Chí – Hòa đều đã bị ông chủ nắm thóp nên không dám liên lạc với ai cả. Suốt ngày hai thằng chỉ có thể quanh quẩn trong xó rừng – góc núi và mở máy coi chương trình. Tiền bạc trong túi ngày càng eo hẹp, đường về cố hương ngày một xa vời, bạn bè thì trở mặt ngày một đông…

– Lành thay.

Hòa cười buồn mà mời Thanh Liên ngồi xuống chơi. Chí vẫn lo hút thuốc, ̣điếu thuốc rê vấn không khéo nên hút chả ngon tí nào.

Thanh Liên xòe lòng bàn tay, đoạn hỏi:

– Nếu như được nắm cái gì thì hai anh sẽ nắm cái gì?

Chí bật cười:

– Đương nhiên là vàng bạc, châu báu rồi…

Thanh Liên vừa sửa y vừa cười mà rằng:

– Quyết định nắm cái gì là ý của hai anh, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh xung quanh. Do vậy, nắm Nghiệp Thiện hay Nghiệp Ác cũng là ở hai anh, đừng lấy người thân ra làm cái cớ biện minh. Trong bộ phim “Avaatar”, người con nuôi đã bán máu hai lần trong cùng một ngày để lấy tiền mua cho cha nuôi một bộ đồ nghề sửa xe đặng hai cha con lập nghiệp lại từ đầu, chứ không phải đem đi cờ bạc hết rồi đổ cho Ông Trời – Ông Đất đã khiến cho đời mình khổ sở.

Mà mấy năm nay mấy anh có đem được đồng cắc nào về cho người thân đâu mà bày đặt đem họ ra làm cái cớ chống chế cho chuyện đời mình?

Hòa nổi xung:

– Anh thì biết cái gì chớ?

– Chính vì biết cho nên tôi mới đi tu.

Chí xua tay, ra vẻ không muốn bị thằng nào quấy rầy hết.

– Có một chuyện xảy ra ở bên Mỹ mà khiến cho tôi nhớ hoài, chuyện rằng: Cậu học sinh này bị một băng ̣đảng Mễ Tây Cơ bắt cóc trên đường từ trường về nhà. Sau nhiều ngày giam cầm, chúng bắt cậu phải rút súng bắn chết một con tin mà chúng chỉ định thì chúng mới thả cậu về. Và cậu đã quay mũi súng về phía cậu mà bóp cò…

Chí – Hòa thẫn thờ nghe tiếp.

– Cậu là người Công Giáo. Sau khi cảnh sát truy bắt được băng đảng đó, thì họ đã tìm thấy đoạn băng ghi hình này và cũng nhờ vậy mà kiếm được xác của cậu – Xác của cậu bị chúng vục xuống một con dốc gần hang ổ của chúng.

Chí – Hòa đủ khôn để hiểu ẩn ý của Thanh Liên.

– Ngồi đây cũng chán, theo tôi vô hẻm núi coi đom đóm không?

Chí – Hòa lắc đầu từ chối.

Thanh Liên bèn rời đi.

Đi được mấy mươi mét, Thanh Liên đã nghe tiếng Chân Tâm gọi mình:

– Thanh.

– Hửm?

– Mệt thì đừng có tiếp ai nữa.

– Tiếp chuyện thôi mà.

– Đôi lúc tôi thấy Tôn giả A-Na-Luật bị mù cũng hay, không phải thấy sự hỗn độn ở cõi mà ông đang sống.

– Tôi còn nhớ Bùi Giáng có hai câu thơ như vầy, dựa theo thể lẩy Kiều:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chúng mình như thể bóng ma lạc loài

Ma này không hiểu ma kia…”

Chân Tâm bật cười:

– Nhưng bắt học trò phân tích tác phẩm của Bùi Giáng chắc rớt hết ráo.

– Có nhớ L.A không?

– Vui quá nhớ sao nổi.

Thanh Liên kể:

– “Kẻ ác giả vờ hoàn lương chẳng khác nào một cái giếng khô phủ đầy cỏ trên bề mặt.”

Chân Tâm gật gù:

– Cuốn sách “Mahabharat” quả là một kho tri thức đáng quý.

– Lành thay.

Người tài-xế xe ôm hôm bữa tới cúng dường cho Tăng đoàn một bữa cơm chay do má và vợ anh ta tự làm. Mỗi phần gồm có canh chua bông điên điển, gỏi bồn-bồn, đậu hủ muối sả chiên, bông cải chiên bột và rau xào thập cẩm.

– Cái thằng cha bữa hổm là Linh mục thiệt hả mấy Thầy?

Thanh Liên bật cười:

– Thiệt. “Họa hổ, họa bì, nan họa cốt. Tri nhân, tri diện, bất tri tâm.”

Sau giờ Thọ Thực, nhóm Công Giáo tìm đến Vườn Lan để nói chuyện với Tăng đoàn.

Pháp Thân đang lăng-xăng trải chiếu và dọn bàn. Bữa nay trời không nóng mấy nên buổi đàm luận sẽ ở cạnh Vườn Lan.

Trên bàn ăn có món chà-là khô, trái cây theo mùa đã gọt vỏ và cắt miếng vừa ăn kèm chén muối ớt với muối tôm Tây Ninh, mứt dừa ngũ-sắc, bánh-ít lá-gai và bánh-ú tro. Thức uống là trà khuynh diệp giải cảm và phòng bịnh.

Thomas Tường khởi xướng:

– Tôi để ý một điều…

Mọi người lóng tai nghe.

– Những người tu hành thực thụ không bao giờ màu mè hay trọng hình thức, và càng tuyệt đối né tránh những thứ liên quan tới Sắc – Dục thế gian.

Đoạn Trần đố Thomas Tường:

– Anh có biết ngoài Đạo Khoa Học ra, thời nay còn có Đạo gì không?

Thomas Tường lắc đầu.

– Đạo Thần Tượng. Hễ mà thích ai là họ sẽ binh lấy binh để và dám lấy luôn cái mạng ra để bảo vệ người đó. Thường những người này về sau đều bị gánh lấy cái Quả thất vọng ê chề vì thần tượng của họ không hoàn mỹ hay thiện lương tuyệt đối như những gì họ nghĩ.

Maria Bích góp lời:

– Bên Tàu có Trịnh Sảng, ngày xưa nhiều người dân xứ mình tôn thờ cô này lắm và hễ ai nói đụng tới cô này là liền biên bài đáp trả. Sau mới phát hiện cô này sống giống hệt như những gì người ta đồn thổi, thế là nín khe hết.

Đoạn Trần chắp tay mà nói, “Sadhu” trước khi trình bày tiếp:

– Trên đời này, theo cách nhìn của bên Đạo tôi, thì chỉ có A-La-Hán, những người tu hạnh Bồ-Tát hay các bậc Thánh Văn Giác là thiện lương trọn vẹn mà thôi; và hình tướng của họ chưa chắc gì đã cao sang, dễ coi chứ đừng nói chi là hoàn mỹ.

Augustino Dương cười hỏi:

– Đạo Khoa Học là sao?

Đoạn Trần trả lời rằng:

– Tức là hễ khoa học nói cái gì thì tin theo răm rắp mà không cần suy xét điều đó đúng hay là sai và có phù hợp với thể-chất của mình hay là không. Thí dụ như hồi xưa một số ông bác-vật lên tuyên truyền bài trừ mỡ động vật, sau này nhiều ông đồng ngành với mấy ông này lên tuyên bố sử dụng mỡ động vật trong chiên xào tốt hơn là dầu-ăn. Rồi nhiều ông lên ca ngợi lợi ích của chế-phẩm sữa dành cho sức khỏe; sau này nhiều ông cùng ngành lên phản bác chuyện này, thậm chí có người còn tuyên bố đã phát hiện ảnh hưởng độc hại của chế-phẩm sữa lên ADN loài người.

Rồi theo anh tôi nên tin ai?

Thomas Tường hỏi:

– Anh có chuyện gì liên quan tới tâm linh mà khoa học sẽ tìm cách lấp liếm và phủ quyết không?

– Còn nhớ cái năm tôi bị điều đi đánh Khmer Đỏ, trong số chiến hữu của tôi có một đứa mặt mày non choẹt, hỏi ra mới biết nó bị ép đi lính, tức là thằng cha cán-bộ độn cho nó thêm vài tuổi để bắt nó nhập ngũ, thành ra năm nay nó mới mười sáu hà. Bữa đó, tự nhiên mặt mày nó buồn hiu, lại cứ bịn ngực hoài, ai cũng tưởng nó bị cảm mạo nên ra vô hỏi han đủ điều; Út mà, sao không thương cho được. Nó nói như vầy, “Tự nhiên tui cảm thấy ở nhà xảy ra chuyện. Mà không biết xảy ra chuyện gì. Đâu, mấy anh coi bữa nay là ngày gì ghi lại giùm tui đi.”

Mấy năm sau, nó được trả tự do. Khi nó về thì mộ ông cố của nó đã xanh cỏ… Nó hỏi ông cố mất ngày nào, má nó mới nói cho nó nghe; nó đưa tờ giấy lịch năm đó cho má nó coi, hai dữ kiện y chang nhau. Thì ra cớ sự là như vầy: Sau nhiều tháng rầu lo cho thằng cháu, ông cố nó đã đổ bịnh nặng. Cái ngày hôm đó, dầu đã hấp hối, nhưng ông cố nó vẫn ráng nghểnh cổ ngóng về Cao Miên mà trông đợi thằng cháu; còn thằng cháu ở bên xứ người cũng thẫn thờ xây mặt về Việt Nam mà ngóng về nhà. Nghe má nó kể, ông cố nó đã nằm trong tư thế nghểnh cổ như vậy suốt nửa ngày trời cho tới khi tắt thở mà gục xuống chết. Và hãy nghe tôi kể, nguyên một ngày hôm đó, bên xứ lạ, nó như người mất hồn, mặt mày ngơ ngác, đụng đâu trật vuột đó tùm lum.

Rồi khoa học chứng minh hiện tượng này là gì? Bịa ra một triệu chứng để phủ quyết sự tâm linh tương thông giữa máu mủ tình thâm hả?

Cả bên Phật lẫn bên Chúa đều lặng thinh. Có người còn khóc nữa.

– Nó kể, sanh thời ông cố rất cưng chiều nó. Nó đi phá làng – phá xóm cỡ nào ông cố cũng đều ra dàn xếp và năn nỉ người ta tha cho nó. Có lần nó đi trộm con vịt của người ta mà nấu cháo ăn với mấy thằng bạn, ông cố nó ra ngoài mương thấy lông vũ đầy, ông mới ra dạy nó, “Con giấu vậy người ta biết hết. Lại đây cố chỉ con cách giấu nè…” Quậy thì quậy chứ nó thương ông cố nó lắm, hễ đi mò cua – bắt ốc mà được cái gì ngon là nó đem dìa mời cố nó hết; ngay cả vụ con vịt hồi nãy nó cũng chia phần cho cố nó luôn.

Tới tận bây giờ, mỗi lần lên thăm tôi, nó nói nó đều nằm mơ thấy hồi còn sống với ông cố.

Longiuns Kiến chuyển đề tài để thay đổi bầu không khí tang thương:

– Anh nghĩ sao về mấy vụ lùm xùm đón rước Tăng – Ni rùm beng mấy bữa nay?

Đoạn Trần nhường cho Châu Lợi trả lời. Và đồ đệ của ông trả lời rằng:

– Cái trò đón rước Tăng – Ni là cái trò của đời nay. Nếu đọc hết Phật sử, sẽ thấy Đấng Thế Tôn tự thân dẫn Tăng đoàn đi vào và khi ấy những nhà cầm quyền vùng lãnh thổ đó hoặc gia chủ sẽ đứng ra tiếp rước, còn hai bên bá quan văn – võ hoặc thân nhân và nô dịch sẽ chắp tay mà cúi đầu đợi.

Augustino Dương giơ tay:

– Tức là Đức Phật vô rồi thì nhà cầm quyền mới bước lại tiếp rước, chứ không có dẫn Đức Phật vô trong điện của mình ngay từ đầu?

– Ừ. Theo Đạo Phật mà không chịu đọc Phật sử thì xin đừng nói bản thân là Phật tử, mà nên nói mình là “Chùa tử”…

Matthias Hoàn bật cười hỏi:

– Tại sao?

– Tại cái chùa nào dạy sao thì tin răm rắp như vậy. Vô minh nhường ấy mà nỡ lòng nào nhận là Phật tử sao?

Thanh Liên xen vô:

– Những gì tôi nói anh cũng chẳng nên tin…

– … mà nên đi kiểm chứng, thực hành và tự mình cảm nghiệm thành công rồi mới quyết định tin hay là không tin. – Y-Nhã Cường nói giùm khúc sau.

Ai nấy thảy đều cười khúc khích.

Thanh Liên nhếch môi cười:

– Anh thuộc rồi đó.

Joseph Thành hỏi:

– Lễ Quy Y Tam Bảo bên các vị có giống Lễ Truyền Chức Linh mục và Phó Tế bên tôi không?

Trì Thương mỉm miệng cười:

– Có chỗ giống, có chỗ không. Giống: Đều cử hành nghi thức dâng trọn xác thân và tâm thức cho Đức Bổn Sư. Khác: Bên ông nằm rạp xuống, còn bên tôi thì quỳ lạy.

– Tôi vẫn chưa hiểu lắm.

Trì Thương giới thiệu:

– “Pabbajja – Novice ordination for Simon/Sihacitto”. Đây mới đúng là Quy Y Tam Bảo để xuất gia theo Nguyên Thủy Phật Pháp.

Chân Tâm chống cằm tư lự:

– Mỗi bận tôi nhìn người xin xuất gia này, tôi lại nhớ tới Tôn giả Ananda, năm đó Ông cũng trạc tuổi cậu này.

Simon Tử lên tiếng hỏi:

– Cậu này là người nước nào thế?

Chân Tâm trả lời:

– Nhật-Nhĩ-Man.

Simon Tử gật gù:

– Ra là người Đức.

Louis Quế hỏi:

– Cũng đang ở nước Slovenia hả?

Thầy và sư huynh trong Tăng đoàn đều gật đầu xác nhận.

Thomas Tường ái ngại trình bày:

– Nước này đa số theo Đạo tôi, sao các vị này sống nổi hay vậy?

Chân Tâm gật đầu đồng tình:

– Trước đây họ đã từng tu tập bên Tích Lan, có lẽ muốn hoằng dương Phật Pháp nên mới chuyển tới đây… Bên Tích Lan, Nepal, Bhutan, Tây Tạng, Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Miến Điện và Cao Miên dẫu sao cũng dễ chịu hơn là ở những nước theo nền văn hóa phương Tây hay Phi Châu.

Joseph Thành hỏi:

– Có ai đi tu mà gần giống với hoàn cảnh của Đức Phật không?

Trì Thương trả lời:

– “English Buddhist Monk”.

Thomas Tường đặt câu hỏi:

– Điều kiện để trở thành tu sĩ bên các vị ra sao?

Chân Tâm đáp:

– Muốn trở thành Tỳ-Kheo bên tôi, phải nắm được tiếng Pali ở mức cơ bản, và sẽ càng tốt hơn nếu biết thêm Phạn ngữ và Anh văn. Một điểm bắt buộc nữa là trước đó phải là một Sa-di không vi phạm “Sa-di giới” và vượt qua được hết mọi nhu cầu và thú giải trí của bản thân, thí dụ như từ bỏ coi phim, từ bỏ ca hát – nhún nhảy, từ bỏ ăn phi thời, từ bỏ xài tiền, từ bỏ trang điểm – chải chuốt,…

Longiuns Kiến hỏi:

– Anh nghĩ Việt Nam có ai giỏi Phật Pháp không?

Đoạn Trần trả lời:

– Thích Minh Châu. Kinh Phật Theravada hầu hết là do ông biên dịch, ông thường viết lại bằng giọng miền Nam nhiều hơn là giọng cố hương hay miền Bắc.

Châu Lợi tự nhiên lắc đầu cười. Một đỗi sau, ông mới tỏ rõ nguyên nhân:

– Nếu nói xứ mình không có Minh Sư, cũng như anh nói ở dưới biển không có loài cá có thể sống trong cả nước mặn lẫn nước ngọt vậy.

Thanh Liên bổ sung:

– Những bậc Minh Sư thường rất kiệm lời và lầm lũi tu niệm. Họ không đi phản bác, cũng chẳng lên tiếng chứng minh, hết thảy mọi sát-na xung quanh họ không thể làm tâm họ động mà khởi lên một tà kiến hay dị nghiệp nào.

Trì Thương kể:

– Năm xưa, cái hồi Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, những tu sĩ ngoại Đạo thường kiếm chuyện để khiến bên Phật Giáo mở miệng tranh luận. Phần đông nghe theo lời Như Lai, tức là không đi biện giải chi sất, ai muốn nói gì thì nói – ai muốn nghĩ sao thì nghĩ, thậm chí bị những người đó coi thường cũng được.

Ngày nay, đa số bị ảnh hưởng nền duy lý – duy vật Tây Phương nên hễ bên nào im lặng là bị vu cho cái danh “Thua cuộc”, “Nói không lại nên làm thinh”, “Không biết nên không dám nói”,…

Anh thử đến những làng nghề đi. Họ làm thành thạo hơn anh rất nhiều, nhưng họ dạy anh làm theo không được, bởi vì công thức đó đã ăn sâu vào tâm khảm họ nên hễ đụng việc là họ làm thôi. Còn những kẻ làm không được thì lại viết công thức rất hay và tỉ mỉ.

Simon Tử vỗ đùi cái đét:

– Tôi hiểu ý anh rồi. Trả lời không được hay chọn cách im lặng chưa chắc chứng minh được người đó vụng tu, còn người khéo miệng chưa chắc chứng minh được ấy là bậc Minh Sư đáng kính trọng.

Phú Lâm góp lời:

– Người giỏi, thường không nói. Người nói, thường không giỏi.

Thủy Diệu cũng nêu thí dụ:

– “The Man who knew Infinity”, đây là một câu chuyện dựa trên cuộc đời một thiên tài Toán Học Ấn Độ tên là Srinivasa Ramanujan Aiyangar, ban đầu anh ta đã bị coi thường vì không có bằng cấp chuyên ngành, để rồi sau này chính những người có bằng cấp chuyên ngành phải học lại các định-lý Toán Học do anh ta nghĩ ra, cũng như phải dày công nghiên cứu những định-lý này.

Có một chi tiết làm tôi nhớ hoài, Giáo sư người Anh bắt bẻ anh ta phải chứng minh cho bằng được những các định-lý mà anh ta thuyết trình đến từ đâu, anh ta đáp rằng nó nằm sẵn trong đầu anh ta cho nên anh ta chỉ việc viết ra hoặc thuật lại thôi, thành thử anh ta chứng minh không được. Ông Giáo sư này hết sức tức giận vì cho là anh ta đang làm phách.

Sau này, anh ta đáp rằng đó là do Nữ Thần Namagiri truyền vào đầu anh ta nên anh ta mới biết. Chi tiết này gợi cho tôi nhớ Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã chứng đắc quả vị đầu tiên ngay sau khi bạn Ông, là Tôn giả Mục-Kiền-Liên, đã thuật cho Ông nghe bài Kinh mà bạn Ông đã tình cờ nghe được trên đường. Xin nói thêm, Nữ Thần là biến thân của Nữ Thần Lakshmi – Vợ của Chúa Vishnu.

Augustino Dương phản bác:

– Trên – dưới đâu có giống nhau, sao đem ra làm thí dụ được?

Thủy Diệu bình tĩnh biện bác:

– Ý ở đây là, một người có sẵn căn tu chỉ cần một lời khẩu truyền cũng có thể đạt Đạo. Còn một người không có căn tu dẫu cận kề bậc Minh Sư cũng như “muỗng với vị canh”. Thiên tài Toán Học này “thông minh vốn đã tính trời”, nên chỉ cần một sự truyền khẩu của một Nữ Thần là có thể đi xa hơn trên con đường học thuật.

Đó là sự khác biệt giữa người đã ngộ Đạo và người đang học Đạo.

Thanh Liên trình bày:

– Những người bạn đồng tu sống ở ngoại quốc của tôi đều có chung một đặc điểm đáng kính: Đó là cái gì xuất phát từ tư tưởng của mình thì nói là của mình, không lấy danh nghĩa Đức Bổn Sư ra bảo chứng. Họ giảng pháp rất đàng hoàng, luôn tránh việc đem tôn giáo của Đạo khác vô bài thuyết, và chủ đề hôm đó ra sao thì đặt thí dụ thích hợp – không mượn thí dụ làm nơi bài xích hay bộc lộ tình cảm cá nhân.

Augustino Dương bật cười:

– Vậy là mấy ông sư ở xứ này chắc tu trăm năm nữa mới theo kịp các bạn của anh?

– Tại vì một bên là tu thiệt và một bên là mượn chốn Phật Môn để kiếm tiền. Xuất phát điểm vốn như thế nào thì quá trình và kết quả sẽ ra như thế đó.

– Vậy anh có tích truyện nào chứng minh điều anh nói không?

– Kinh Pháp Cú số Mười Chín và Hai Mươi. Ngoài ra còn có Kinh Pháp Cú số 259.

– Còn người nói ít có trường hợp ngoại lệ nào mà kinh điển ghi lại không anh?

– Kinh Pháp Cú số 268 và 269.

Simon Tử hỏi:

– Anh nghĩ sao về việc không tự lực học Đạo mà lại nương nhờ vào người khác?

Trì Thương nhận phần trả lời:

– Có một người chuyên đi xào bài của người ta rồi không để nguồn rõ ràng, lâu dần người này sẽ trở nên ngu độn thôi.

– Tại sao vậy?

– Họ không chịu động não để đưa ra lập luận của mình, mà lại nương nhờ vào lập luận của người khác, từ đó bộ não sẽ trở thành cái máy sao in và mất dần khả năng tự phân tích vấn đề. Dù đúng hay sai, chính kiến riêng của anh đều đáng quý hết.

Thí dụ, anh chỉ cách chiên trứng sai, sau này anh mới nhận ra và nhờ vậy anh học được một bài học, thậm chí từ đó có thể nghĩ ra cách chiên trứng ngon và mới lạ hơn nữa.

Học Đạo cũng vậy. Có người cảm thấy bài Kinh đó đúng là vì người đó đã chứng thực thành công nên người đó mới dốc lòng tin theo; mình đã không có trải qua, cũng chẳng có tìm hiểu, ai nói sao nghe vậy thì làm sao mà có tiến bộ trên con đường học Đạo.

Longiuns Kiến hỏi:

– Các vị nghĩ sao về việc Đức Phật không trải qua sự phục sinh hay tái sinh?

Chân Tâm cười hỏi:

– Tại sao Đức Phật phải tái sanh? Mục đích tu tập của Ngài là để thoát khỏi luân hồi mà?

Thanh Liên thêm:

– Bao nhiêu cái vỏ rồi? Bao nhiêu cái bể khổ phải trầm luân rồi? Bao nhiêu hoan lạc miên trường đã vỡ tan thành hư vô rồi? Bao nhiêu lời thế thốt đã cất lên trong muôn vạn ngàn kiếp rồi? Bao nhiêu nước mắt đã đổ tràn xuống thế gian rồi? Đã thoát được sự ràng buộc rồi, đã “Ananda” rồi, thì Ngài sẽ đi luôn thôi.

Y-Nhã Cường nhíu mày:

– Ý anh là…

– Tất Đạt Đa Cồ-Đàm là cái vỏ cuối cùng của Đức Phật. Ngài đã rũ bỏ tấm áo da dính mắc bao nhiêu Kết Sanh Thức để về với Niết-Bàn. Vậy Đức Phật phải tái sanh để chứng tỏ cái gì nữa?

Ngài đã nói hoài, nói mãi, nói suốt trong kinh điển rằng đây là kiếp cuối cùng của Ngài và Ngài sẽ không quay lại nữa. Đời tiếp theo sẽ là Di-Lặc Tôn Phật.

Phá Vân trầm ngâm:

– Tôi còn nhớ thi sĩ Du Tử Lê có một tập thơ mang tựa đề giác ngộ như vầy: “Chấm dứt luân hồi, Em bước ra.”

Trì Thương hỏi trỏng không:

– Bây giờ anh trả xong nợ rồi, anh có muốn mắc nợ một lần nữa không?

Nhóm Công Giáo không bày tỏ thái độ nào.

– Đức Phật đã đoạn trừ hết mọi lậu hoặc và Duyên – Nghiệp – Nhân – Quả dẫn đến tái sanh, như một người đã trút bỏ được khoản nợ đã cõng trên vai bao nhiêu A-Tăng-Tỳ-Kiếp, thì Ngài ấy bước ra thôi.

Augustino Dương hỏi:

– Vậy bây giờ Ngài ấy đang ở đâu?

– Ở trong trí nhớ của mỗi người và hình dung qua kinh sách.

Châu Lợi bổ sung:

– Ngài đã “biến mất” về hình tướng rồi.

Augustino Dương hỏi:

– Đức Phật có phép lạ không?

Chân Tâm đáp:

– Có.

– Nói cụ thể hơn đi.

Sau khi uống hết một chung trà, chàng Tỳ-Kheo Long An thuật:

– Chuyện kể rằng: Tỳ-Kheo Ni Subhà vì một vài chuyện bất đắc ý nên về thành Ca-Tỳ-La-Vệ khá trễ, lúc đó trời đã nhá nhem tối, khách bộ hành cũng không còn mấy ai ra ngoài thành nữa. Còn cách tòa thành một khoảng rừng, Bà bị một tên lưu manh chặng đường chòng ghẹo. Và Bà đã chống cự quyết liệt. Tên đó liền đổi chước ngợi khen đôi mắt Bà thật đẹp, và một lần nữa hắn lại tưởng đâu Bà sẽ thích nghe như hồi xưa, dè đâu Bà liền móc một con mắt của mình cho tên đó. Tên đó hoảng hồn hoảng vía co giò chạy. Còn Bà, Bà về lại tịnh xá bạch Như Lai hết sự tình trên. Vừa thấy tôn nhan của Ngài, con mắt mù lòa của Bà đã sáng trở lại.

Câu chuyện này nằm trong “Tiểu Bộ: Trưởng Lão Ni Kệ, Kinh 71: Subhà”. Tôi chỉ tóm lược lại thôi nên còn thiếu sót rất nhiều chi tiết.

Nói ra lại gây tranh cãi nữa, nhưng tôi phải nói, bên nhà Phật quan niệm rằng phải trả hết Nghiệp thì mới có thể Niết-Bàn, do đó Ngài không giúp Bà ấy ngay trong thời điểm đó. Cho nên, trong “Kinh Sa-Môn Quả”, Đức Phật mới khuyên Tăng sĩ không được làm nghề tà mạng như Y – Dược, tức là nghề nghiệp can thiệp tới sanh mạng và Nghiệp – Quả của chúng sanh.

Augustino Dương bất bình phản biện:

– Rồi hổng cứu người luôn sao?

Chân Tâm gạt ngang:

– Cứu người không phải làm cái nghề. Cứu người là bộc phát, cái nghề là chủ đích. Ông đã hiểu chưa?

Matthias Hoàn chắp tay xá đôi bên. Đoạn hỏi:

– Mấy cái Thánh tích cậu nghĩ sao hả Tâm?

– Cái vụ xây bảo tháp thờ xá-lợi Phật, tôi không nghĩ Đấng Thế Tôn dặn làm vậy đâu.

– Tại sao?

– Xuyên suốt quá trình gầy dựng Đạo, Ngài chưa từng yêu cầu thứ chi xa hoa hay công trình bề thế để vinh danh mình, thì căn cớ gì sau khi Ngài ra đi hai điều này lại xuất hiện?

Thành thử, tụi tôi không xây tượng hay treo hình Ngài ở Chánh Điện.

Maria Bích tay ngắn quá với không tới khay mứt dừa nên Hoàng Kỳ thuận tay đẩy lại giùm.

Thanh Liên nói với người bạn tu sĩ:

– Nếu như tôi nói câu này ra anh sẽ rất giận tôi…

– Nói đi.

– Có một nữ thí chủ đã từng nằm mơ như vầy: Cổ nói có người nói vào bên tai cổ rằng “Kinh Thánh không phải do Chúa viết…”

“Rầm.”

– Bình tĩnh.

Nhóm Công Giáo cũng ráng hết sức dằn xuống cơn tức giận.

– Tôi hỏi cổ vì căn cớ nào mà giấc mơ này lại hiện ra trong đầu cổ. Cổ nói cổ không biết. Trước giờ cứ hễ cầm cuốn Kinh Thánh lên đọc là cổ lại bị nhức đầu và muốn ói nên cổ không có để tâm đến đức tin của anh, chứ đừng nói chi là nghiên cứu nó.

Vậy là tôi đã hiểu ra nguyên do.

Tôi nói với cổ là đừng để tâm tới giấc mơ này. Cổ nói cổ không có để tâm, chỉ cảm thấy vô cùng kỳ khôi vì cổ cho rằng cổ không phải là một người tín hữu thì “kẻ kia” cố thuyết phục cổ như vầy để làm gì. Cổ cũng từng nằm mộng thấy có người nhạo báng Đức Phật, lần đó cổ lao vào cấu xé “kẻ đó” luôn…

Cho nên trong Kinh Kalama, Đấng Thế Tôn mới nói đừng vội tin rằng những gì mình thấy là sự khai thị. Rất có thể chỉ là sự huyễn hoặc do bộ nhớ của mình và lòng cuồng đắm gây ra mà thôi.

Augustino Dương sốt ruột hỏi:

– Nhưng mà anh vẫn không hiểu tại sao cổ không thể đọc được Kinh Thánh phải không?

– Dạ, cứ hễ cầm cuốn Kinh Thánh lên là cổ ngáp ngắn ngáp dài, chảy nước mắt sống luôn mới ghê. Vậy mà vừa mở Kinh Phật lên là cô tỉnh rụi như thường. Nên giờ cổ phải vừa đọc vừa nghe Kinh Phật mới khỏe được.

Thomas Tường la lên:

– Trời ơi, gì mà lộn tùng phèo vậy chèn?

Đoạn Trần cười khổ:

– Cho nên ai mà thấy cổ trong tình huống đó đều nói y chang anh vậy.

Augustino Dương sẵn đây tỏ rõ sự bất bình về việc Ma Tăng lăng mạ Đạo ông.

Trì Thương bình thản đáp:

– Người khởi xướng phong trào viết luận bài bác tôn giáo khác là bên Đại Thặng.

Simon Tử tròn mắt hỏi:

– Anh có bằng chứng không mà dám nói thế?

– “Lược sử Phật Giáo Ấn Độ” do Thích Thanh Kiểm biên soạn.

Chân Tâm tiếp lời đồ đệ:

– Có một điểm mà tôi không hài lòng ở cuốn sách này là hạ thấp Nguyên Thủy Phật Pháp, mà họ cố tình đánh tráo khái niệm bằng cách đặt cho cội nguồn Phật Giáo cái tên Tiểu Thặng. Họ biểu Đại Thặng cao hơn và vì chúng sanh hơn, còn Tiểu Thặng thấp hơn và ích kỷ chỉ biết lo thân mình.

Đại Thặng là do các tổ sư truyền Đạo chế tác ra, còn Tiểu Thặng là dựa trên khẩu quyết của Đấng Thế Tôn mà biên soạn thành. Vậy mà họ dám tự cho mình “khôn hơn” Như Lai mà đi hạ thấp Theravada của Ngài; một trong số đó còn có “Kinh Duy Ma Cật” tự biên tự diễn ra câu chuyện Tôn giả Xá-Lợi-Phất không giỏi bằng tổ sư truyền Đạo của họ!

Augustino Dương cười biểu:

– Bên đây cũng bị vậy, nên mới có Martin Luther và Tin Lành.

– Bên tôi có Long Thụ và Đại Thặng.

Duy Hảo mạn phép trình bày:

– Chỉ trừ khi nào bị khích bác thì các Tôn giả mới “phản công”, cho nên trong kinh điển có những tích truyện ca ngợi tài hùng biện của Tôn giả Phú-Lâu-Na, Ca-Chiên-Diên, Xá-Lợi-Phất,… nhưng phần đông chỉ là đôi dòng tán thán, không đi sâu quá mà tạo thành tích truyện rõ ràng.

Cũng trong sách này, tác giả đã giúp tôi khẳng định điều tôi nói là đúng, rằng các vương quốc thuộc Ấn Độ cổ đại theo chính thể Cộng Hòa, nhưng tới đời mà Đấng Thế Tôn tại thế thì phần đông đã nghiêng về Quân Chủ Lập Hiến và Quân Chủ Chuyên Chế nhiều hơn.

Điều này là một trong những điều mà Ma Tăng không dám nói cho chúng sanh biết. Sự thật vẫn là sự thật, che đậy và lấp liếm cỡ nào đi chăng nữa nó vẫn là sự thật.

Longiuns Kiến cười nửa miệng:

– Không dám nói về bối cảnh chánh trị thì làm sao giúp tín đồ hiểu rõ tôn giáo.

Maria Bích bấy giờ mới lên tiếng:

– Phật Giáo có phải bắt nguồn từ Ấn Độ Giáo không?

Thanh Liên lắc đầu:

– Phật Giáo không bắt nguồn từ Ấn Độ Giáo. Cả hai cùng chung điểm xuất phát là hệ tư tưởng “Sanatana Dharma”; song cách định nghĩa và diễn giải của hai bên khác nhau rất nhiều, thí dụ như một đằng tin vào sự phù trợ và ban phước của Thần Thánh nếu gieo nhiều Quả Thiện và một đằng phủ nhận điều đó. Xin nói thêm, hệ tư tưởng này cũng ảnh hưởng lên nhiều tôn giáo trước hoặc trong thời kỳ Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế.

– Còn thí dụ nào khác không?

– Trong tám biến thân trước của Ngài Narayana, đều thành hình nhờ vào lời cầu nguyện thành kính và sự đổ máu của một hoặc nhiều tín đồ; song, riêng Đức Phật thì không phải vậy, Ngài đạt Đạo là do nỗ lực của chính Ngài, chớ không phải nhờ tha lực do cầu nguyện hoặc sự hành xác của tín đồ nào hết. Ngài cũng đã tuyên bố Ngài không phải Thần – Thánh hay Thượng Đế, và càng không làm ra chuyện ban phước hay giáng họa cho bất kỳ ai; chứ đừng nói đến việc thực hiện một phép màu nào, đi trả thù hay nguyền rủa cho người này theo lời khẩn cầu của người kia hết, mà vụ này thì đầy dẫy trong sách truyện Ấn Độ Giáo. Tức là việc thị hiện thần thông là ở Ngài chứ không phải dựa trên sự cầu khẩn hay ý muốn của ai hết.

Tiếp nữa…

Longiuns Kiến chau mày:

– Sao hổng nói nữa?

Châu Lợi xen vô:

– Chuyện này đụng chạm bên Đạo anh.

Longiuns Kiến tặc lưỡi:

– Rồi, nói đi.

Thanh Liên ôn tồn giải thích:

– Các vị Chúa – Thánh – Thần trong văn hóa Ấn Độ Giáo có một số vị có khả năng giải tội cho tín đồ, điển hình như con trai Ngài Mahadev là Thần Voi Ganesha. Đức Phật không có khả năng này, vì Nghiệp – Quả đi theo anh như cái bóng của anh vậy, có thể trong bóng đêm nó được che đậy, nhưng tới lúc sáng trời nó sẽ lòi đuôi ra thôi, thành thử việc nhờ người khác đoạn trừ Nghiệp – Quả cũng giống như việc nhờ người khác cắt bóng cho mình vậy…

Ngoài ra, Đức Phật không bị lời nguyền rủa tác động mà chịu ảnh hưởng từ nó; còn các vị Chúa – Thánh – Thần trong văn hóa Ấn Độ Giáo thì mắc phải vụ này. Nếu như Ngài thực sự là biến thân của Ngài Narayan thì Ngài đã chết từ khi còn rất trẻ rồi, do bị rất nhiều Bà-La-Môn nguyền rủa vì lý do báng bổ các vị Thần Linh mà họ tôn kính; trong khi đó, biến thân Chiến Thần Krishna của Ngài Narayan vì bị lời nguyền rủa của Gandhari mà bị thợ-săn bắn tên tẩm-độc chết, ở đây xin dừng lại để kể luôn cho rõ ngọn ngành: Ông thợ săn Jara đi săn nai, nhưng vì mãnh lực của lời nguyền nên ông ta bị sượt tay, mũi tên không bắn trúng con nai mà găm trúng gót chân của Krishna – Lúc ấy Chiến Thần đang nằm ngả lưng trên chạc cây gần đó.

Chân Tâm bổ sung:

– Nói thẳng ra, mấy anh giận thì chịu, chứ Đức Phật không tin vào việc giải tội, có thể kiểm chứng lời tôi nói ở “Kinh Jatila”.

Longiuns Kiến chép miệng:

– Được rồi, tôi công nhận rồi.

Augustino Dương hỏi:

– Anh có bằng chứng nào cho thấy Ấn Giáo muốn gán ghép Đức Phật thành một phần của họ không?

Chân Tâm trả lời:

– “Sita sings the blues”, tạm dịch “Sita cất lên những điệu buồn”, ở phút 24:14 trong bộ phim này có sự xuất hiện của Như Lai. Đây là phim kể về chuyện tình của Rama và Sita. Xin nói thêm, Rama là biến thân thứ Bảy của Chúa Vishnu.

Maria Bích nói rằng muốn nghe thần thoại Ấn Độ. Và Chân Tâm nhận phần kể chuyện:

– Krishna có một đứa con tên là “Samba”, người này có thể biến thành một vị Thần mang hình dạng nửa nam – nửa nữ và có thể biến từ nam sang nữ. Đứa con này thành hình nhờ sự khẩn cầu giúp đỡ của Ông tới Chúa Shiva; để được Ngài Mahadev ban cho điều ấy, Ông đã cất công thiền định và duy trì tư thế Yoga đứng trên mũi chân suốt sáu tháng liền vào mỗi buổi sáng, thuở đầu Ông uống nước cầm hơi và về sau Ông tuyệt thực luôn.

Sau này, Samba trở thành học trò của Dũng tướng Arjuna. Ngoài ra còn được sự hậu thuẫn và che chở của Balarama.

Và cũng như bao nhân vật khác trong Ấn Độ Giáo, Ông cũng bị nguyền rủa nặng nề nhưng được chữa lành nhờ lòng thành tâm với Thần Mặt Trời – Surya. Hiện nay, ở một số ngôi đền bên bển sẽ có bức tranh Samba chở Thần Surya trên cỗ xe lục-mã.

Chân Tâm ngừng lại để sư đồ nói tiếp. Về phần mình, anh uống cạn hai chung trà ấm.

Duy Hảo vừa sửa y vừa hắng giọng kể:

– Sau đó, Samba lại bị nguyền rủa nữa do cải trang thành bà bầu và giả bộ kêu mọi người đoán coi giới tính thai nhi. Vui quá mất vui, một tu sĩ Rishi nhận ra Samba và nguyền rủa Ông sẽ đẻ ra một cây chùy hủy diệt toàn bộ cơ nghiệp của Ông. Cái này là Ông Cộng-Nghiệp với cha của Ông, do cha của Ông đã bị Grandhari nguyền rủa rằng những thứ gì do Chiến Thần tôn tạo nên sẽ hóa thành tro bụi hết. Bây giờ là lúc lời nguyền ứng nghiệm.

Matthias Hoàn cười hỏi:

– Rồi hai cha con ông đó “Song Long hợp bích” phá banh một vương triều luôn?

Duy Hảo gật đầu.

Augustino Dương hỏi:

– Mà sao Krishna bị nguyền rủa vậy?

– Do Chiến Thần đã giúp Pandavas thắng trận và lấy đi sanh mạng của một trăm người con của Grandhari.

Hoàng Kỳ góp lời:

– Cũng mắc cười ở chỗ, một mảnh của cây chùy rơi vào tay của thợ săn Jara và ông này đã biến nó thành phần đầu của mũi tên. Mũi tên này chính là mũi tên mà ông đã bắn chết Krishna.

Thủy Diệu bình phẩm:

– Và đó là Karma – Nghiệp và Quả.

Phú Lâm kể:

– Theo truyền thuyết Ấn Giáo thì đền thờ trái tim của Krishna được xây cất hoàn toàn bằng cây, vì trái tim của Chiến Thần phát ra luồng điện nên sẽ khiến cho mọi người bị điện giựt nếu sử dụng những vật liệu kích ứng với dòng điện. Những ai viếng đền cũng được khuyên không nên mang theo đồ kim loại và vải vóc có khả năng tĩnh điện.

Một cơn gió mát thổi qua, đem theo hương lan xuân-sắc và mùi cỏ cây thanh mát. Thấy trà đã nguội, Pháp Thân xin phép pha trà mới; rồi không để ai nói năng chi, ông đã bưng khay trà đi vô.

Thomas Tường hỏi:

– Có điểm nào giúp các vị chứng minh Đức Phật không phải là biến thân của Chúa Vishnu không?

Châu Lợi trả lời:

– Đức Phật sau nhiều năm nhịn ăn hành xác mà không chứng được Đạo Mầu nên đã dẹp luôn việc này và quyết định thay đổi phương cách tu tập. Ngài quyết định chỉ ăn một buổi và trước Chánh Ngọ; cũng như ra công thiền định.

Đây cũng là một trong những điểm chứng tỏ Ngài không phải là biến thân của Chúa Vishnu, vì Ngài bác bỏ rất nhiều điều mà một số biến thân của Ngài Narayana đã công nhận và thực hành.

Không đợi bên Công Giáo mở miệng hỏi, Trì Thương nói luôn:

– Ấn Độ Giáo luôn gán ghép Như Lai là một phần của Chúa Vishnu. Một trong số đó nhằm để ngăn trở sự bành trướng của Phật Giáo trong thời kỳ mà Ngài tại thế và những năm sau này…

Simon Tử hỏi:

– Nhưng tôi không hiểu tại sao họ lại thành công?

– Theo thiển ý của tôi, rất có thể là để đoàn kết đánh đuổi quân xâm lược. Họ cần một tôn giáo nội sanh và thành hình sớm nhứt để dễ bề quy tụ lực lượng và kích động lòng yêu cội nguồn của nhân dân; và Ấn Độ Giáo là một sự lựa chọn hoàn hảo.

Việc này cũng xảy ra tương tự ở Tích Lan, họ đã chọn Phật Giáo làm tôn giáo chánh và lấy đó làm nền tảng để cùng nhau đứng lên đánh đuổi quân xâm lược.

Joseph Thành lắc đầu cười:

– Ai mà ngờ sau đó các nước thuộc địa đều “bất chiến tự nhiên thành”.

Trì Thương gật đầu:

– Phải, các nước thực dân phần đông đã trao trả lại toàn vẹn lãnh thổ cho các nước đã chiếm cứ, và hầu như đều rút quân trong tình trạng vô điều kiện.

Longiuns Kiến nhíu mày nói:

– Vậy các vị nghĩ sao về bước ngoặc trớ trêu này?

– Tôi thấy mừng cho dân Ấn Độ vì đã thống nhứt được thành một khối. – Thanh Liên vừa nói vừa bẻ vụn bánh cho mấy con sẻ con ăn. – Ấn – Hồi đã chịu ngồi xuống với nhau, Phật Giáo cũng được yên bình tu tập.

Augustino Dương cười khổ:

– Vậy tại sao bên tôi lại bị truy sát và đốt nhà thờ?

Tăng đoàn im ru.

Thomas Tường sốt ruột hỏi lại:

– Anh nghĩ tại sao Phật Giáo không bị tấn công nhiều bên đất Ấn như Công Giáo?

Chân Tâm đành phải trả lời:

– Vì Ấn Độ Giáo phần đông chấp nhận giả thuyết Đấng Thế Tôn là biến thân thứ Chín của Vishnu, nên ai tu theo Đạo Ngài cũng tức là đang theo Pháp của Ngài Narayana. Do đó Tăng – Ni hiếm khi bị bách hại.

Trong Ấn Độ Giáo, không có một Đấng Cứu Thế, Cứu Chuộc hay Cứu Độ chi sất. Rất nhiều vị Thần và con cái của họ đảm nhận vai trò đó. Bên anh thì khác…

Joseph Thành cau mày hỏi:

– Vậy ai thường xuyên đảm nhận vai trò đó?

– Chúa Vishnu, thường được tín đồ tôn xưng là “Govinda”.

Thanh Liên bổ sung:

– Thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, Ngài chỉ đề cập tới Brahma – Phạm Thiên, Indra – Đế Thích Thiên, Deva – Chư Thiên Nam, Devi – Chư Thiên Nữ và Asura – Phi Thiên. Ngài không có nói tới những vị khác trong Ấn Độ Giáo. Thành thử mức độ xung đột không bị đẩy lên một cách dữ dội và nổ ra chiến tranh tôn giáo.

Một đàn sẻ-nâu sà xuống làm cuộc nói chuyện bị gián đoạn. Có lẽ chúng có tánh linh nên không tự tiện bươi đồ ăn trên bàn, mà đợi các Tăng sĩ chia phần. Hoàng Kỳ và Thủy Diệu đi rót nước cho chúng uống giải khát.

Trì Thương nói mà đôi mắt ngó xuống bầy sẻ:

– Ấn Độ Giáo không phải có hằng hà sa số các vị Thần đâu. Mỗi một vị Thần có rất nhiều biến thân, trong các biến thân lại có một số biến thân sanh con đẻ cái dưới trần thế, và những người con của biến thân đó lại có nhiều biến thân khác và một số biến thân khác lại thành gia lập thất, rồi lại…

– Rồi, rồi, hiểu rồi. Y như vòng lặp vô tận vậy. – Augustino Dương chắp tay xá.

Trì Thương lại tiếp:

– Do đó, tính ra số Thần gốc chắc không tới một ngàn đâu.

– Vậy họ có bài tán dương nào về “Govinda” của họ không? – Thomas Tường hỏi.

– Nhiều nữa là đằng khác. Và còn có nhiều bài xài chung một mẫu câu, thí dụ như “Shri Krishna Govinda Hare Murari.” – Đoạn Trần trả lời.

Augustino Dương hỏi:

– Còn cách sắp xếp các vị Thần Tối Cao bên họ ra sao?

Chân Tâm trả lời:

– “Mahabharat”, tập 211. Coi từ nửa khúc sau sẽ thấy.

Thanh Liên tiếp:

– Thường thì hễ họ gặp khó khăn mà được ra tay tương trợ, họ sẽ chấp tay mà cảm ơn rằng, “Cảm ơn Chúa Vishnu đã đến cứu con trong hình dạng của…” Và, xin nói thêm, Narayana có nghĩa là “Na-La-Tiên”.

Nhân đây, Phá Vân xin mạn phép kể một câu chuyện vui:

– Bên Ấn Độ mới có thêm một vị Thần nữa, tên là Thần Donald Trump, chủ ngôi đền thờ tên là Krishna ngày nào cũng thực hiện nghi lễ tế tự cho ông, cũng như đọc kinh tụng…

Chưa nói hết câu mà nhóm Công Giáo và những người khách phương xa đã cười ngã nghiêng ngã ngửa.

– Tin này hình như chỉ có mấy trang tiếng Anh mới đăng. Donald Trump mà ông chủ đền làm như biến thân Venkateshwara của Chúa Vishnu vậy, và chính ông Krishna tự coi mình trở thành Rama – Tức Thần Giữ Đền Tirupati luôn.

Ignacio Cường hỏi:

– Đến hồi tận thế, ai sẽ xuất hiện?

Thanh Liên trả lời:

– Là Chiến Thần Kalki, chừng nào đến hồi tận thế Ông mới xuất hiện để trừ yêu – diệt quỷ cho nhân loại. Ông là biến thân cuối cùng trên Địa Cầu của Chúa Vishnu, Ông đứng thứ mười và sau Đấng Thế Tôn.

Phú Lâm góp tiếng:

– Có một điều rất thú vị là hầu hết Đấng Cứu Thế của các tôn giáo hồi tận thế đều có cái tên bắt đầu bằng chữ “M”.

Longiuns Kiến nhếch miệng cười:

– Người đó chỉ có thể là Một và Duy Nhất.

Đoạn Trần nói đôi bên nên nghỉ xả hơi hai tiếng rồi hẵng quay lại vấn – đáp.

Thanh Liên trở gót về tịnh thất lấy thuốc-cảm uống. Bữa nay anh hành Thiền không nổi vì bị cảm mạo nên chỉ đi kinh hành vòng quanh tịnh thất. Có lẽ lát nữa anh sẽ không tham gia cuộc đàm luận quá-xá là một chiều.

Đứng ở trên núi cao còn xanh màu rừng rậm, Đức Trọng bỗng nhớ tới ca khúc “Hận Đồ Bàn” của nhạc sĩ Xuân Tiên, mà anh đã từng nghe qua giọng của Chế Linh và Việt Ấn, lòng tự nhiên đâm ra mang-mang buồn. Dưới chân núi, những cánh đồng sắp vào mùa gặt thơ-thới khoe mình trong ánh nắng chiều tàn héo hon. Dưới chân anh, rất nhiều bông cỏ may vàng-hoe và cỏ đuôi-chồn; và trên đầu anh là mây ngàn trắng xóa che mờ vòm trời xanh ngọc bích. Vài con hoẵng còn sót lại ngơ ngác giẫm lên thảm cỏ xanh mượt như nhung, đôi mắt đen lay láy nhìn anh đầy dè dặt, rồi chừng như hoảng sợ mà đột nhiên lao vút về rừng.

Lối khoảng sáu giờ chiều, nhóm Công Giáo trở lại Vườn Lan. Ai nấy đều đã tắm rửa và thay sang đồ mới; cũng như đã xong giờ Kinh Chiều. Chỉ có điều chưa ăn cơm tối mà thôi.

– Không phiền nếu như tụi tôi vừa ăn vừa nói chớ? – Augustino Dương cười hỏi.

– Sadhu. – Đoạn Trần chắp tay mà rằng.

Pháp Thân cũng được mời ăn. Mỗi người một ổ bánh mì thập-cẩm và một ly nước uống; và cùng nhau ăn chung món giò-heo phá-lấu. Riêng Chí – Hòa thì nhờ mua giùm hai gói xôi thập-cẩm cỡ lớn, hai tên này cũng ăn giò-heo nữa.

Bàn ăn được đặt cách Vườn Lan khoảng đâu vài trăm mét, phía trên không có tán cây nào nên có thể ngắm bầu trời đêm huyền ảo xoay vần theo dòng thời gian bất tận.

Đức Trọng xin phép chọn đề tài. Chừng nhận được sự đồng ý của mọi người, anh chàng mới trình bày:

– Tôi nhớ có một người viết bài giới thiệu phim Ấn Độ nhưng với lời lẽ phiến diện và thiếu hiểu biết. Người này nói rằng nhân vật chánh chỉ cần dựng một cục đá dưới gốc cây là kiếm được tiền và cho là chi tiết này hết sức vô lý.

Maria Hòa vừa che miệng nhai miếng giò heo vừa hỏi:

– Cục đá này có gì lạ hả anh?

– Bởi vì cục đá này có hình dạng giống như biểu tượng “Shiva-Lingam” nên ai nấy mới xúm lại vái van và kính trọng, chứ không phải là một cục đá hình dạng bình thường.

Chí ngứa miệng chen vào:

– Dốt trất mà bày đặt đi bình luận phim.

Đức Trọng bật cười:

– Đây là một chi tiết châm biếm của bộ phim nhằm đả kích sự cuồng tín mông muội. Rất hay chứ không phải tào lao bát-xế gì hết.

Louis Quế nói:

– Cũng như mấy vụ tạo dựng phép lạ bên tôi và tung tin giải vong bên mấy anh này.

Mọi cười rộ lên. Có người còn thể hiện sự đồng tình bằng lời nói.

Đức Trọng lại tiếp:

– Rất nhiều người bình luận phim Ấn Độ nhưng chỉ có một số rất ít biết được Ấn Độ Giáo, thành ra bình luận không những vừa phiến diện vừa trật lất.

Hòa nhếch miệng cười:

– Cũng ngộ là họ ghét phim Ấn Độ khủng khiếp, trong khi phim Tàu lại hết lòng ca ngợi và giới thiệu rình rang.

Đức Trọng gật đầu:

– Chí ít ra bên Ấn Độ hiếm khi nào làm phim đụng chạm tới nước khác và cũng chỉ tự mãn theo kiểu phạm vi trong lãnh thổ.

Chí – Hòa đồng thanh hỏi:

– Tức là sao?

Vừa quẹt miếng bánh-mì không với chút nước-tương tỏi-ớt, Đức Trọng vừa trình bày:

– Tức là nhân vật chánh Ấn Độ y như siêu nhân, nhưng nhân vật chánh chỉ là anh hùng được nước họ công nhận; chứ không có chuyện như bên Tàu hễ nhân vật chánh là giỏi nhứt thế giới và nước nào cũng phải kiêng nể người đó.

– Đông Á bệnh phu. – Đức Hoàng cười nửa miệng.

Đức Trọng bình phẩm:

– Ấn Độ còn giữ được Ấn Độ Giáo, Nhựt Bổn còn giữ được Thần Đạo, riêng bên Tàu đã mất đi Đạo Giáo rồi.

Phá Vân nhớ nghề nên buộc miệng hỏi:

– Là sao anh đạo diễn?

– Phim Tàu bây giờ lạm dụng kỹ ảo điện ảnh mà lại còn bị “non tay” nhiều hơn là “lành nghề”, thành ra màu phim y chang mấy phim thuộc thể loại kỳ ảo của mấy nước Châu Âu và Châu Mỹ và không còn cái nét riêng nữa.

Ernest Nguyễn gục gặc đầu:

– Đạo Giáo mà tưởng đâu “Chúa tể những chiếc nhẫn” hay “Harry Potter”.

Đức Trọng nhìn theo cánh chim nhạn cô đơn đang về đằng Đông mà tự trầm:

– “Tây Du Ký”, “Hồng Lâu Mộng” và “Liêu Trai chí dị” bản cố lũy cố lai là sẽ biết màu sắc Đạo Giáo ra sao.

Ernest Nguyễn hỏi mà nghe trong giọng nói có vẻ buồn-buồn:

– Xứ mình còn cái giáo nào thuộc về mình không anh?

Đức Trọng lắc đầu mà mặt buồn hiu:

– Còn đâu nữa mà tìm?

Hòa hỏi trong lúc rót thêm nước-tương vào chén mình và thằng đồng Nghiệp:

– Vậy bên Nhựt có phim nào mang nhiều màu sắc Thần Đạo không?

– Có, “Paprika” và “Akira Kurosawa’s Dream”. Phim đầu là hoạt-hình và phim sau là người đóng; cả hai phim đều không thích hợp với độ tuổi vị thành niên, không chỉ vì có những phân đoạn nhạy-cảm mà còn bởi lứa tuổi này không thể nào hiểu được nội dung bộ phim đâu. Mà thiệt ra nhiều kẻ già đầu cũng chỉ thấy được bề nổi chứ không cảm nhận được ẩn ý mà tác giả muốn truyền tải vào.

Thanh Liên góp lời:

– Xứ Phù Tang mà làm phim về đề tài Triết và Luận thực sự rất dễ khiến khán giả không hiểu nổi và thích nổi.

Đức Trọng thở dài:

– Ngoài ra, tôi thấy bên Tàu có nhiều vụ bán đồ ăn bê bối, vậy mà nhiều người khoái đăng tin Ấn Độ ăn dơ hơn.

Hòa cười khổ:

– Cái ghê nhứt không phải ăn dơ mà là ăn đồ tẩm hóa chất độc hại mà trước mặt mình họ bán sạch sẽ và đẹp mắt. Cái đầu mình thấy gớm, mình né liền; còn cái sau không biết mới chết chứ lị.

Chí hùa theo thằng đồng Nghiệp:

– Bữa đấy tôi có xem một đoạn phim ghi hình lén: Một tiệm bánh nằm trong thương-xá hạng sang mà lại có nguyên con chuột to như con mèo bò vào tủ kính đựng bánh. Kinh dị ở chỗ là nó hết ăn bánh này lại ngửi bánh kia nữa chứ. Thế mà mấy trang ẩm-thực xứ mình đa số đăng theo kiểu bên Tàu nấu nướng vừa ngon vừa sạch sẽ lại đẹp mắt, còn mấy cái tin vạch trần như vầy thì giấu nhẹm đi.

– Vậy chớ Ấn Độ mà “xổng” ra clip ăn uống dơ dáy nào là rinh về liền. – Louis Quế cười khúc khích.

Đức Trọng kể:

– Bữa hổm tôi có coi một trích đoạn phim Tàu ở một trang tiếng Anh, cảnh ấy quay các nhân vật vừa nhảy vừa hát rất vui, kế một người Ấn Độ vô bình luận rằng, “Bollywood vibe” và còn gắn biểu tượng “Mặt cười” nữa; tự nhiên không một người Việt Nam sống ngoài Bắc vô chê phim Ấn Độ không bằng phim Tàu, rồi lại thêm một người gốc Bắc nhưng có cái tên phiên âm tiếng Hoa vô hùa theo ý kiến của cha nội này. Ủa gì kỳ vậy? Ông Ấn Độ đâu có chê bai phim Tàu đâu, mà chỉ muốn nói tình tiết này giống với kiểu phim Bollywood thôi mà; tự nhiên người Việt mà vô binh Tàu chằm chặp và gây sự với Ấn Độ luôn.

Bấy giờ trăng đã chồm qua đỉnh núi phía đối diện. Trông như thể một tấm gương dát vàng ánh bạc. Vài con nhạn về muộn bay qua gương trăng, hằn những nhịp cánh lên mặt gương-trăng sáng rỡ. Mới có chừng hơn bảy giờ mà dế đã kêu inh tai.

Những ông tu sĩ già bao tử yếu nên đã ngừng đũa sớm. Ai nấy rủ nhau đi vệ sinh và sẵn đó rửa mặt – súc miệng luôn. Sợ mấy Thầy “có đi mà không có về” nên Hoàng Kỳ và Thủy Diệu ngỏ ý dẫn đường. Mấy ông già-gân chịu liền.

Đức Trọng ăn thêm một miếng giò-thủ nữa trước khi ngừng đũa. Đoạn nói:

– Tôi cũng thấy ngộ ở một chỗ, nhiều người bên mình hay khen sinh viên Nghệ Thuật xứ Tàu diễn giỏi lắm, vậy mà lên phim tôi không thấy những gương mặt mà họ đã khen ngợi đâu và chỉ thấy nhiều những gương mặt đắp cả tấn phấn và không biết đóng phim.

Phá Vân cười biểu:

– Diễn viên Hồng Kông hay Đài Loan phần đông không qua trường lớp, họ đến với cái nghề không chỉ bằng cái nợ với nghiệp diễn mà còn vì cuộc sống nữa, vậy mà họ đã làm cho rất nhiều khán giả mến mộ suốt đời.

Có những thứ không có trường lớp nào trao tặng được, một trong số đó là tài năng thiên bẩm. Không riêng gì lãnh vực giải trí, Công Nghệ – Thông Tin đó, biết bao nhiêu nhân tài xuất thân từ việc tự học một mình và không cần thầy chỉ dạy.

Chí ngó Phá Vân mà hỏi:

– Cái vế trên anh nói làm tôi không hiểu lắm?

– Tức là ba bên đều ăn tiền như nhau, chứ hổng có “diễn chùa”, nhưng chỉ có hai bên là gặt hái được nhiều thành công trong nghiệp diễn và không cần người hâm mộ diễn viên bay vô nói đỡ, cũng như mướn người kéo doanh số phim lên.

– À.

Chí trề môi:

– Khen bên Tàu có nhiều diễn viên giỏi, mà diễn viên thời nay được mấy người, toàn là lớp thế hệ cựu trào của họ không hoặc một phần là chưa tới cựu trào nhưng cũng đã gần hay hơn bốn mươi rồi.

Louis Quế bình phẩm:

– Khen quá té hen á.

Đức Trọng bỡn:

– Anh nói sao chứ có nhiều cô gần tứ tuần mà diễn xuất vẫn dở và đơ như hồi mới vô nghề.

Chí vỗ đùi cái đét:

– Thì đó. Cho nên tôi mới nói “Một phần”.

Đức Trọng “được đà như cởi tấm lòng”:

– Tôi còn nhớ một bộ phim do Tàu sản xuất có một chuyện ngược đời như vầy: Ông này là diễn viên Hồng Kông đã qua thời hoàng kim, còn nam chính là diễn viên bản xứ đang rất nổi tiếng, ông này đóng vai cận thần và nam chính đóng vai hoàng thượng, vậy mà lên phim tôi tưởng ông này là hoàng thượng và nam chính kia là thái giám đang báo cáo với vua.

Maria Bích chưng hửng:

– Gì kỳ vậy?

– Tại vì ánh mắt của nam chính lấm la lấm lét, khẩu âm thì rụt rè – đơn đớt, tướng mạo lại bị lưng gù – cổ rụt, dáng điệu thì mảnh mai, trắng bóc, đã vậy còn trang điểm đậm nữa. Còn ánh mắt của ông kia thì cương nghị và rất có thần, tướng tá cứng cỏi và thẳng thớm, nói chuyện cực kỳ dứt khoát, rõ ràng và sử dụng ngôn ngữ hình thể rất hay mà không bị quá trớn. Tôi coi có một đoạn mà mắc cười gần chết.

Cho nên không phải ai cũng đóng vai vua được đâu. Ngay cả hôn-quân ánh mắt của họ cũng rất khác biệt so với người thường. Nói đâu xa, thử coi hình mấy đứa trẻ Hoàng gia hay thuộc tầng lớp thượng lưu đi, phần đông ánh mắt đều rất tự tin và có thần.

Chí hỏi:

– Còn ở đâu nữa không?

– Có chứ. Nhưng thường thấy ở những bậc chân tu, người thiện lương hoặc trí giả thực thụ.

Về phần nhóm tu sĩ thuộc lớp cựu trào của Dòng Chúa Cứu Thế và hai Tăng sĩ ngoại quốc, họ đã gần đến khu nhà vệ sinh công-cộng. Trên chặng đường ấy, những tu sĩ ấy hỏi hai cậu sư thầy về đời sống ở bên Anh-Cát-Lợi và A-Mỹ-Lợi-Gia; cũng như kể cho hai cậu đó nghe về Vatican và những cuộc hành hương mà mình đã từng được tham dự.

– Thằng Trọng có ở đó không?

– Nó nè.

– Mày có quen với Đức Hoàng không?

Dường như người đang nghe điện thoại sợ bị thấy mặt, nên đã vội vã tuồn ra sau bụi sim tím-rịm mà chạy đi trốn. Cũng nhờ Hoàng Kỳ cao trên hai mét nên đã thấy được bóng lưng của người kia, song anh không để tâm.

Còn ở ngoài này, Pháp Thân, Chí – Hòa và Chánh Tâm đang lau dọn bàn ăn. Và những người kia thì đi vục rác và kê cái bàn mới. Thanh Liên xức dầu gió Kim vào hai bên màng tang và trên nhân-trung để đỡ mắc ói.

Ignacio Cường giúp Thanh Liên giựt-gió. Anh hơi mạnh tay nên người bạn khác Đạo chảy nước mắt sống ròng-ròng.

Đức Cường chợt hỏi Thanh Liên:

– Anh nghĩ bên Mỹ có Ma Tăng không?

– Có.

– Ở đâu?

– Một ngôi chùa ở Long Beach, California; ai viếng chùa mà không cúng dường là không thèm ngó tới cái mặt, suốt ngày chỉ biết xun xoe vật chất với kim tiền và bợ đỡ kẻ giàu.

Ngồi đợi khoảng nửa tiếng nữa, những ông Thầy Dòng luống-tuổi mới quay về. Thủy Diệu và Hoàng Kỳ nán lại một lát để lau chùi nhà vệ sinh và kiểm tra coi có ai lén lắp máy ghi-hình trong trỏng không.

Longiuns Kiến vừa ngồi xuống đã hỏi:

– Bên tôi có nhiều vụ tranh cãi về việc giữ hay bỏ một số kinh sách, bên anh có vụ gì gần tương tự không?

Chân Tâm trả lời:

– Có một người theo Nguyên Thủy Phật Pháp đã khăng khăng không có các vị Phật quá khứ… Ở trong kinh điển, nói cụ thể là Kinh Pháp Cú và Kinh Bổn Sanh đều có đề cập tới các vị Phật quá khứ và lý do nào Phật Giáo trước thời Đấng Thế Tôn tại thế không được công khai rộng rãi.

Người này mâu thuẫn ở chỗ một mặt khuyên người ta nên nghe theo Kinh Kalama, một mặt lại tin sống tin chết vị Tăng sĩ hạp ý mình.

Augustino Dương hỏi:

– Còn có kinh nào nữa không? Cụ thể hơn nữa á.

– Tạng Luật: Phân tích giới Tỳ-Kheo 1, chương Veranjà số Bảy và Tám.

Thanh Liên chợt thay đổi đề tài:

– Cái nữ thí chủ bị ba bắt cải Đạo anh còn nhớ không?

Y-Nhã Cường gật đầu. Những người theo Đạo giống anh cũng làm y anh.

– Kể từ ngày cô nắm được chân Chánh Pháp, cô đã bị Ma-Ba-Tuần quấy rầy. Không biết tự bao giờ, đầu óc của cổ đã bị hình ảnh những người trúng số độc đắc chiếm giữ; tin tức về thế giới thượng lưu và ăn chơi xa xỉ hiện đầy máy cổ, trong khi trước đây chưa hề có chuyện này xuất hiện, nói rõ hơn cổ không bao giờ tìm coi thì làm cách nào mà lại bị mời-coi như vậy. Cổ biết, cổ đã đến gần Bát Chánh Đạo, nên Ma-Ba-Tuần đã cố gắng thị hiện những thứ mà cổ chưa có được trong đời để đầu óc cổ thôi chiêm nghiệm và suy luận về Theravada.

Và cổ đã chiến thắng nó.

Đoạn Trần ôn tồn kể:

– Trong một tích truyện như vầy, Đấng Thế Tôn dùng Thiên Nhãn quán sát tam giới, và Ngài thấy một cảnh tượng hết sức đau buồn: Những nhà lãnh đạo quốc gia ăn chơi trụy lạc và đi gây chiến khắp nơi, mặc cho lê dân bá tánh lầm than và ngày nào cũng phải còng lưng đóng thuế để thỏa mãn nhu cầu không đáy của tầng lớp cai trị. Ngài mới ngẫm rằng, nếu chính Ngài lên ngôi vương, Ngài sẽ không bao giờ để cho ai đau khổ hay phải sống cơ cực hết. Ma Vương đang rình Ngài, nghe vậy, liền khấp khởi trong lòng vì cho rằng Ngài sắp đoạn nghiệp tu và bị tâm ham chuộng quyền lực xâm chiếm, nên vội vã hiện ra trước mặt Ngài và hứa hẹn sẽ giúp Ngài nhất thống thiên hạ để Ngài có thể thực hiện điều đó. Ngài nhìn Ma Vương và lắc đầu cười, “Này Ông, Tôi đã không còn bị vướng mắc nữa…” Ma Vương vẫn còn tính thuyết phục Ngài, hốt nhiên một đạo hào quang từ sau lưng Ngài vọt lên, khiến cho Ma Vương hoảng sợ mà quýnh quáng biến mất tăm.

Đó là ánh sáng của Sự Giác Ngộ. Ánh sáng có thể dập tắt mọi huyễn mộng mà Ma-Vương và bầy đàn của chúng thêu dệt nên hòng đẩy chúng sanh vào bể khổ của lòng tranh đấu và thiệt – hơn.

Trong Kinh Pháp Cú số 331 và 332 thì lại kể hơi khác so với bản này. Nên tìm đọc Kinh Pháp Cú đọc thêm thì hay hơn.

Ignacio Cường bình phẩm:

– Câu chuyện ông kể về cô gái đó sao tôi nghe giống như chuyện của Thánh Nữ Catarina.

Thanh Liên gật đầu:

– Cổ cũng bị gần giống vậy.

– Cũng bị thấy những cảnh như Thánh Nữ đã thấy sao?

– Phải. Và cổ đã tự hàng phục nó bằng bài “Chú Lăng Nghiêm”.

Biết rằng Thanh Liên đang bị bịnh nên Châu Lợi mạn phép nói thay:

– Thật ra, dùng chữ “Hàng phục” nghe có vẻ hơi quá, kỳ thực nó có nghĩa hết sức đơn giản là khống chế được dục tính và Tâm Ma của mình.

Thomas Tường ngạc nhiên hỏi:

– Nó khác biệt ở chỗ nào mà phải tách ra?

– “Dục tính” là ham muốn, “Tâm Ma” là sự hỗn độn của thần trí. Dục tính thúc đẩy Tâm Ma, Tâm Ma tăng trưởng cho dục tính, khiến cho chúng sanh bị trở thành phần “Con” nhiều hơn phần “Người”. Thí dụ tôi ngó sang nhà hàng xóm thấy họ nhà cao cửa rộng thì tặc lưỡi khen ngợi, nhưng được đâu vài phút, cái đầu của tôi tự phân tích ra những lý do mà họ được như vậy và tôi thì không được như vậy, và thể nào sau đó tôi cũng tự cho rằng mình xứng đáng được hưởng hơn họ và họ thì hên thôi mới được vậy chứ kỳ thực họ bất tài hơn tôi.

Trong kinh điển Theravada, Như Lai đã từng ví Tâm như con ngựa bất kham, nó dẫn ta tới muôn nẻo cùng khổ và sa đọa bởi sự loạn tưởng của nó. Ai điều chế được Tâm, người đó sẽ tiến rất gần tới Niết Bàn.

Cho nên mỗi bận có ai đó hỏi Ngài về các tôn giáo khác hoặc chuyện mà người đó khó có thể chứng thực sau khi nhận được câu trả lời từ Ngài, Ngài sẽ nói rằng, “Điều đó có lợi ích gì cho việc tu tập hay không?” Để người đó điều chế Tâm lại, không để nó đi lung tung nữa.

– Anh có bằng chứng không? – Simon Tử hỏi.

– “Kinh Tương Ưng Bộ, chương 44, phần số Mười: Ànanda” và “Kinh Trường Bộ – Digna Nikàya” số Chín. Đây chỉ là hai trong số những kinh điển thể hiện việc Ngài không muốn trả lời những câu hỏi khó chứng thực.

Trì Thương hỏi trỏng không:

– Bây giờ, nếu như anh gặp một người cuồng tín tin Chúa, họ hỏi anh có Chúa hay không anh sẽ trả lời thế nào?

Ngoại trừ Tăng đoàn, những người còn lại đều nhíu mày suy nghĩ.

Trì Thương lại hỏi:

– Bây giờ, nếu như anh gặp một người vô thần, họ hỏi anh có Chúa hay không anh sẽ trả lời thế nào?

Vẫn chưa có ai trả lời vị Tỳ-Kheo tên Thảo.

Thấy trời đã rất tối, mây đen lại sắp sửa ùa về, nên Trì Thương trả lời luôn:

– Vế đầu, anh nói “Có”, họ sẽ càng mông muội hơn. Nhưng nếu anh nói “Không”, họ sẽ thất vọng tràn trề và rất có thể về sau tâm tánh sẽ đi theo chiều hướng rất xấu.

Vế sau, anh nói “Có”, họ sẽ cười vô trong mặt anh và nói những lời lẽ không hay về con đường truyền Đạo của anh, cũng như đức tin của anh. Nhưng nếu anh nói “Không”, có nhiều tình huống có thể phát sinh: Thứ nhứt, anh là “đồng minh” của họ. Thứ nhì, họ sẽ vẫn như cũ. Thứ ba, ở trường hợp này nếu anh là nhà truyền giáo nổi tiếng và có đông đảo người hâm mộ, anh sẽ khiến tâm tánh người đó về sau sẽ trở nên tệ hại hơn do họ đã chắc chắn rằng không có ai hay quy luật nào trừng phạt họ khi họ gây Nghiệp Ác hết.

Thành ra, Như Lai sẽ giữ im lặng. Muốn thấy Chúa, họ phải tự tìm. Muốn phủ quyết, họ phải tự chứng minh. Khi không có ai dẫn dắt và “mớm-lời” hết, họ mới kiếm được chân Sự-Thật mà họ mong muốn.

Do đó, ngay từ đầu Đấng Thế Tôn không muốn hoằng pháp rộng rãi là vậy. Nhưng, Đại Thặng đã quá dồn sức vào những buổi thuyết giảng dài lê thê mà quên mất con đường Bát Chánh Đạo của chính họ. Họ lên đó ngồi nói say sưa, nói một hồi quên luôn chủ đề mà họ khởi xướng là gì, từ đó mà dẫn dắt chúng sanh vào con đường Tà Kiến. Thậm chí, có một số đi làm công cụ mị dân luôn.

– Nói thiệt nghen… – Matthias Hoàn hỏi.

– Để tôi nói luôn cho… – Trì Thương hướt mà nói.

Nghỉ một lát để lấy hơi, Trì Thương mới trả lời:

– Các vị vẫn muốn biết Đức Phật đang ở đâu phải không? Ngài đã trả lời cách đây gần 2600 năm, điều đó đã được ghi chép lại ở “Tương Ưng Bộ”, chương 44, Kinh 1: Trưởng-Lão Ni Khemà và Kinh 2: Anuruddha; và cũng có thể tìm thấy câu trả lời này trong những tích truyện và kinh sách nói về Tôn giả A-Nậu-Lâu-Đà và nhóm du sĩ ngoại Đạo.

– Vậy ra đó chỉ là một trong rất nhiều kinh sách và tích truyện nói về thắc mắc này? – Joseph Thành hỏi.

– Phải.

Augustino Dương lại hỏi:

– Còn về việc tìm hiểu Đạo, các vị nghĩ sao?

Chân Tâm trả lời:

– Nên đọc sách giấy. Vì nghe người ta nói tuy có thuận tiện nhưng rất dễ quên. Còn tự mình đọc sách sẽ làm cho tâm trí mình ghi nhớ tốt hơn.

– Công nhận bên anh đáp-biện giỏi thiệt. – Thomas Tường bật ngón cái.

Đoạn Trần đáp:

– Đó là điều mà tụi tôi học được từ Đấng Thế Tôn, không phải vâng lời ai hết, chỉ tuân theo Giới Luật và tập sửa mình trước khi sửa người.

– Phải, bề trên làm tầm bậy mà bắt bề dưới phải nghe… – Augustino Dương lắc đầu ngán ngẩm. – Ai đem kinh sách ra phân tích mà trái ý một chút là phán người đó phản Đạo và chống Chúa. Lâu dần sẽ gây mất đi những nhà hùng biện giỏi cho Giáo hội.

Trước lúc trở về tịnh thất nghỉ ngơi, Châu Lợi trình bày một chuyện bất hảo bên ông:

– Cái việc trang hoàng Chánh Điện như cái tiệc cưới là của đời này gây ra. Thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, mỗi bận Ngài tổ chức thuyết pháp, thường thì Ngài chẳng bày trí chi cả; những bậc quân vương thời đó hiểu ý Ngài nên mặc dầu cũng có trang hoàng, nhưng họ trang hoàng không tới nỗi quá khoa trương và lãng phí như bây giờ.

Thomas Tường cười rộ lên:

– Tự nhiên tôi nhớ có người bình luận thế này “Nó biến nhà-Cha Ta thành khu du lịch tâm linh sinh thái.”

– Và, “Nó biến nhà Cồ-Đàm thành nơi tẩy não rồi nhồi sọ Phật tử”. – Thanh Liên đệm vô.

Ignacio Cường kể:

– Tôi nhớ có lần tôi coi một video như vầy, người này tố cáo một ông Linh mục là đệ tử của Long Tứ, không biết tin này thực – hư ra sao, nhưng tôi chỉ nhớ có mỗi chi tiết: Người này nói ông đó không xứng danh Thánh Phao-Lô nên đã gọi ổng là “Phao câu”.

Ngay cả người ít cười như Châu Lợi cũng che miệng cười sặc sụa.

– Hồi thương Giáo dân gọi khác, tới chừng ghét họ gọi khác. Như thằng này thành “Hàn Mặc Cảm” rồi. – Augustino Dương chỉ qua cái “tượng đá” ngồi kế bên mình nãy giờ.

Joseph Thành ngó thằng con Y-Nhã mà bình phẩm:

– Hình như hổng có ai dám đụng tới thằng Cường hết.

– Ủa về hả? Ngồi nói chuyện xíu nữa đi. – Augustino Dương đập – đập tay xuống chiếu.

Tăng đoàn đồng ý.

Âu-Cơ-Tinh Dương hỏi liền:

– Các vị nghĩ sao về quốc giáo?

Chân Tâm, Thanh Liên, Đoạn Trần, Trì Thương và cả Châu Lợi đã hết giờ khai-khẩu nên người này đùn đẩy người kia. Duy Hảo bèn đứng ra trả lời thay cho các Thầy và sư huynh:

– Một quốc gia cuồng tín luôn bạo loạn, và một quốc gia có đức tin đúng chừng mực luôn yên bình. Cho nên không phải quốc gia nào có quốc giáo thì con người ở đó sẽ hiền lành và tốt bụng đâu.

Thành thử, Đấng Thế Tôn không có mượn ai đứng lên bảo vệ Chánh Pháp hay suy tôn Ngài, vì Ngài sanh ra trong thời kỳ trăm nước phân tranh nên Ngài hiểu rất rõ sự lợi dụng đức tin của các nhà cầm quyền.

Trong một bài Kinh Pháp Cú, Ngài đã nói cách kính trọng Ngài đúng đắn nhứt là thực hành theo những gì mà Ngài đã dạy. Có thể kiểm chứng ở “Kinh Pháp Cú” số 166.

Và Ngài cũng đã từng nói, “Chân lý tuyệt đối của Phật Pháp, Ta chưa từng nói ra một lời nào.” Tại sao vậy? Vì như các Thầy và sư huynh tôi nói cả nửa ngày nay, chúng sanh không thể nào hiểu và kiểm chứng được những sự ấy cả. Nên là Như Lai mới chọn cho chúng sanh một con đường đạt Đạo dễ hiểu và vừa tầm với hơn, thông qua những Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, Thập-Nhị-Tứ Duyên Khởi,…

Nhưng dẫu Ngài đã cẩn thận nhường đó, sau khi Ngài rời đi vẫn không có bao nhiêu người tự mình đắc Đạo. Phần đông là bị loạn tưởng mình đã đạt Đạo hay chưa đạt Đạo mà đã vội phủ bác hết kinh điển của Ngài và tự sáng lập ra đường tu mới.

– Tăng đoàn sau này trông cậy vào Duy Hảo. – Chân Tâm chắp tay đảnh Lễ cậu Sa-di có khuôn mặt bầu bĩnh.

Duy Hảo không vui sướng hay hả hê. Cậu bình thản đáp Lễ sư phụ, rồi nói tiếp:

– Với những chủ đề liên quan tới cuộc sống, tốt nhứt đừng đem kinh điển ra diễn giải, và phải nói cho người dự thính hiểu rằng đây là ý kiến cá nhân của mình chứ không phải lời của Đấng Thế Tôn.

Y theo lời hứa, bữa nay Đức Hoàng tới cúng dường cho Tăng đoàn. Những món ăn này do hắn đặt mua ở một khách sạn sang trọng ở thành phố Long Xuyên, và đương nhiên không vi phạm “Tam Tịnh Nhục”.

Buổi Thọ Thực bắt đầu vào lúc mười một giờ. Sau một bài Kinh tụng, Tăng đoàn mới đụng đũa. Trong mâm cơm gồm có các món như sau: Pad-Thái thập-cẩm, cua-lột tẩm cốm chiên-giòn và trái cây dĩa.

Nhóm Công Giáo đã đi thăm một vài xứ Đạo, dự định tới xế trưa mới về.

Tăng đoàn lại trở về nếp sinh-hoạt thường ngày. Sau giờ Thọ Thực, mỗi người vào rừng hành Thiền hoặc kinh hành. Mùa mưa đã đến nên họ không đi tới những nơi có cây cỏ và côn trùng đang sanh trưởng.

Thanh Liên còn mệt nên ra ngồi dưới gốc cây mà tọa Thiền. Trên đầu anh là vô vàn tiếng ve sầu kêu râm ran và gió đùa qua khóm cây – kẽ lá.

Ngồi đâu được nửa tiếng hơn, Thanh Liên cảm nhận được có ai đó đang nhìn mình nên mở mắt ra dòm lại.

Là Ignacio Cường.

– Xuống núi chơi không?

– Đi.

– Sao không hỏi tôi…

– Anh về sớm là vì giận lẫy… Người ta biết anh đang bị truy sát nên không muốn lại gần anh…

Hai người bạn khác Đạo đi quá giang xe của Tống Ngạn. Chiều nay Đức Trọng sẽ mở một cuộc tuyển chọn diễn viên quần-chúng, số lượng ước khoảng hai mươi người, nếu đã đủ số mà tìm ra vài người diễn-hay nữa thì anh sẽ cho vô luôn.

Thể theo ý muốn của Thanh Liên, Tống Ngạn thả họ xuống ở chỗ đình Thới-Sơn.

Y-Nhã Cường và Thanh Liên sóng vai nhau mà đi, “Trời trưa nắng Hạ im lìm, gió không về cho tóc ngủ yên trên bờ vai mềm”. Bỏ lại sau lưng ngôi đình quạnh quẽ và khoảng trời Anh Vũ Sơn hùng vĩ.

Trong một quán cóc ven đường, tiếng hát của Duy Khánh trong bài “Đi giữa Quê Hương” vẳng ra nghe sao buồn não ruột, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Nguyên:

“Tôi đã đi giữa lòng Quê-Hương Tôi

Từ ngày tiếng hát bên nôi

chưa âm vang tiếng khóc lạc loài…”

Ông bán kem hôm bữa cho đôi kia nay đà bán ở dưới chân Anh Vũ Sơn. Ông vừa bán vừa đảo mắt lia lịa, để phòng thấy cảnh sát là dzọt liền.

Y-Nhã Cường lại mua giùm ông một cây cà-rem, còn Thanh Liên đã hết giờ Thọ Thực nên không mua gì.

Thanh Liên khuyên:

– Anh không thích ăn ngọt thì mua “Futaba – Sacré Lemon”. Kem này xuất xứ Nhựt Bổn nên ăn an-tâm lắm.

Ignacio Cường gật đầu.

Thanh Liên lại nói:

– “Yuzu”, một loại quýt rất ngon và ngọt.

– Anh không ăn, tôi ăn giùm anh một cây.

– Sadhu.

Ngang qua quán cóc ban nãy, chủ quán gọi với Thanh Liên rồi chạy cái vù xuống nhà sau để lấy bao đựng buồng chuối mà chồng dì mới đốn cái sột. Thanh Liên chắp tay cảm ơn, rồi làm ấn thủ chúc phước lành cho dì trước khi lên đường đi tiếp.

– Nặng không, tôi vác giùm cho?

– Không, chừng nào tôi vác hết nổi thì tôi sẽ nhờ anh.

– Cũng được.

Đi đâu được hai, ba trăm mét, một người chạy xe lam là tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo mời họ quá giang. Thấy chân cẳng của Y-Nhã Cường không nên lội bộ quá lâu nên Thanh Liên bèn nhận lời. Bao bố đựng chuối được ông tài-xế dựng ở sát vách ngăn buồng lái để chừa chỗ cho người khách khác.

Đến Ngũ Hồ Sơn, Ignacio Cường nổi hứng mà đòi trèo lên trển chơi. Thanh Liên đành thuận theo; có gì lát ông thần này mà sụm-bà-chè thì nhờ Tống Ngạn hay Thầy – bạn của anh ta chở về giùm. Buồng chuối ban nãy Thanh Liên đã để lại cho người tài-xế tốt bụng.

Đường lên núi khá dốc, thành ra Đức Cường đi được một quãng là lại ngồi xuống một chút để bớt mệt. Thanh Liên bấm đốt ngón tay, phỏng đoán ông thần này lết thêm được ba trăm mét nữa là cùng.

Và quả nhiên đúng như chàng Tăng sĩ liệu sự, Đức Cường nói rằng bữa nay leo tới đây thôi. Nhưng chàng Giáo sĩ không chịu leo trở xuống mà đòi Thanh Liên dẫn đi ngoạn cảnh thêm nửa tiếng nữa.

Nhờ trời mưa, khách thập phương ít dám mạo hiểm leo núi, thành ra hai người không bị ai quấy rầy. Tới bìa rừng, mà đúng ra không phải là bìa rừng, nên gọi là vườn trái cây thì hơn, Ignacio Cường tự nhiên cảm thấy buồn bực mà đòi về.

– Ráng đi thêm chút nữa là sẽ thấy…

– Nước Trời luôn.

– Mệt lắm rồi hả?

– Chân đau. Đi không nổi nữa.

– Có lẽ là do anh bị mất nước nên cảm thấy bức-bối…

Thanh Liên biểu Đức Cường ở đó đợi, rồi đi thoăn thoắt xuống dưới, dáng điệu như con hoẵng len lỏi trong rừng vậy.

Đức Cường chờ khoảng hai mươi phút mới thấy Kỳ Thanh quay lại, trên tay anh bạn “đẹp-gái” là hai chai nước suối và một bịch nước ngọt đầy đá-lạnh, hỏi ra mới biết bịch nước này là nước tăng-lực hiệu “Bang” vị “Champagne”.

– Khỏe chưa?

– Đỡ rồi. Cảm ơn anh.

Đi tới chạng vạng, vậy mà hai người mới ngắm được một phần quang cảnh núi Ông Két.

Trước khi xuống núi, Ignacio Cường lựa một góc vắng vẻ và hỏi Thanh Liên:

– Phá giới một lần được không?

– Cũng được.

Vậy là Đức Cường nhảy theo đoạn nhạc “I like Your smile” và “Go Cha Cha” do Fancy trình diễn. Cái chân bị què tạm-thời của anh đã khiến cho điệu nhảy của anh mất hay, nhưng Thanh Liên không cười chê chút nào. Càng nhìn Y-Nhã Cường nhảy theo điệu nhạc, Thanh Liên chợt thấy người bạn khác Đạo thật đáng thương; sống giữa cộng đoàn mà không một ai hiểu được ảnh hay thông cảm cho tánh tình của ảnh.

– Tôi thích “Street-dance” lắm.

Thanh Liên gục gặc đầu:

– Vũ điệu ấy theo thể tự do nhưng không hề dễ nhảy một xíu nào.

– Ừ, khoảng cách giữa lăng-quăng và vũ sư tuy xa mà rất gần.

Y-Nhã Cường hẹn rằng khi nào chân anh lành lặn sẽ nhảy Hip-hop cho Thanh Liên coi.

Trong lúc chờ Tống Ngạn tới rước, hai người bạn tu khác Đạo đi nhờ nhà vệ sinh của hai chủ-vườn.

Chừng khi trở ra, thì trăng cũng đã sáng ánh một góc trời, mới hay sự biến-thiên chỉ trong một khoảnh khắc.

Vừa đi, Thanh Liên vừa nói:

– Ở bên Mỹ có một nhánh Cơ-Đốc gần giống Phật Giáo Hòa Hảo tên là “Iglesias de Dios”, nhưng khác ở chỗ Giáo chủ thành lập Đạo có vợ đàng hoàng.

– Vậy hả? Vậy chắc là cũng giống ông Gandhi.

Đợi Đức Cường tắm gội và thay đồ mới, những người khách phương xa mới đi ăn tối. Đương nhiên, cũng như bữa trước, họ mời luôn Pháp Thân, Chánh Tâm, thím Huê và bộ đôi Chí – Hòa. Do không đủ chỗ ngồi nên họ kêu taxi, chiếc xe ấy hiệu “Nissan – Pathfinder ” tám chỗ ngồi rất rộng rãi.

Nhưng thể theo lời khuyên của má Đức Hoàng, nguyên nhóm sẽ đến xóm Chàm – Hồi Giáo mà ăn cơm tối. Nhà hàng này là của một người anh bên bà-con của bà, được du khách khen ngợi nhiều hơn là chê bai; và dĩ nhiên, ở đây không bán thịt heo, thay vào đó là thịt dê, cừu, bò và các loài gia-cầm.

Con lộ nhỏ nên xe hơi không thể đậu cặp vỉa hè. Chủ nhà hàng bèn sai nhân viên hướng dẫn đậu xe trong sân; chiếc nào chiếc nấy như con voi Bản-Đôn, đậu xong coi như kín hết bãi giữ xe. Người tài-xế mừng rơn khi được mời vô bàn ăn chung.

Mặt dây chuyền Thánh Giá trên cổ từng người Công Giáo đã làm chủ nhà hàng chú ý. Bên tai ông là tiếng Kinh Koran vang lên khi trầm khi bổng; cái loa ấy gắn ở trên đọt cây bằng-lăng nơi bãi giữ xe, cứ hễ đúng giờ là tự động hòa giọng với mấy cái loa khác trong xóm.

Joseph Thành làm “chủ-tế”. Những bạn hữu và con cái của ông nhận phần đáp-lời. Riêng bên Lương và bên Vô thần thì đi vài vòng ngắm cảnh nhà hàng và sau hè.

Để dễ bán buôn hơn, chủ nhà hàng yêu cầu đầu biến chế biến sao cho vừa miệng thực khách khác sắc-tộc. Còn khi bán cho người cùng gốc với mình, ông lịnh đầu bếp nêm-nếm y nguyên công-thức rặt-ròng. Và còn nữa, ông cũng bán thêm những món Việt, Hoa, Miên, Mã-Lai, Nam-Dương và theo phong-vị phương Tây.

Khi bên Lương và bên Vô thần trở lại bàn, thì nồi lẩu bò nấu với khoai môn và rau-cải đã được dọn lên. Tối nay nguyên đám chỉ ăn món này, hột vịt lộn và lòng bò luộc cuốn bánh-tráng nem với rau sống rồi chấm mắm-nêm.

Augustino Dương vỗ vai hai thằng con:

– Hai đứa bây làm tao mắc cười quá…

– Sao cười, Cha? – Đức Cường vừa nói vừa gắp mỳ đã trụng chín vào chén của Ngọc Mỹ, rồi huých vai kêu thằng bạn mau ăn thêm cho lại sức.

– Không có đứa nào ra dáng nhà Dòng hết.

– Hổm rày ông Mỹ ổng “Tịnh Khẩu” hay quá. – Louis Quế vừa nói vừa lặt rau cho vợ.

– “Người đi, một nửa hồn Tôi mất…” – Longiuns Kiến bỡn.

Augustino Dương cắt ngang:

– “Một nửa hồn kia sống tỉnh queo…” Rồi. Hết giờ Hàn Mặc Tử.

Stephen Đoàn không cười. Anh cúi mặt làm thinh ăn uống. “Ai gieo thương nhớ vào tâm khảm? Ai giết chết Tôi bởi nụ cười? Đời Xuân còn đó hay đã mất? Mà áo Dòng kia phủ lại rồi….”

Joseph Thành nhìn Stephen Đoàn mà chỉ biết thở dài. Hồi xưa, cái hồi mà thằng Dương sắp thi để trở thành Linh mục, Đức Cha Trung đã hỏi nó hoài, rằng nó có quên được con “Hiến Mai” chưa, nó nói rồi, Cha Vinh-Sơn lắc đầu mà biểu nó đang gạt ông.

Trở về Phụng Hoàng Sơn thì đã qua ngày mới, nhưng ngoại trừ thím Huê, ai nấy đều không muốn về nhà ngủ. Vậy là sau giờ Kinh Tối, những người còn lại rủ nhau tới tịnh thất vô danh.

Chân Tâm và Duy Hảo đang hành Thiền dưới cội Sala sanh-đôi. Những người kia ắt hẳn đã ngủ hết rồi.

– Thanh Liên không có ở đây. Ảnh về hang động nghỉ ngơi rồi. Đoạn Trần cũng đi theo nữa.

Đức Cường rầu-rầu hỏi:

– Kỳ Thanh khỏe chưa?

– Cũng còn hơi yếu. Vốn dĩ là một đứa trẻ sanh non nên giờ đây sức đề-kháng của ảnh kém hơn người ta rất nhiều.

– Vậy sao còn ra ngoài ngoải ngủ?

– Ảnh cần sự yên tĩnh.

Maria Bích hỏi:

– Vậy giờ mình ra ngoài Vườn Lan chơi được không?

– Không. Tôi sẽ dẫn các vị lại hẻm núi.

Đó là một hẻm núi khác, không phải là chỗ quần-cư của bầy vượn tinh-khôn, du khách thường hay lên đây để chụp lại những bức ảnh về mây. Độ rày mưa gió thất thường nên ít ai ra đây, thành thử Chân Tâm mới chọn nơi này làm chỗ ngồi nói chuyện chơi.

Louis Quế trải bạt cho vợ ngồi. Vợ ngồi xuống đàng hoàng, chú mới đặt mông ngồi kế bên.

Nhưng chưa yên vị được đâu mười phút, Maria Bích đã đứng bật dậy rồi chồm tới đặng ôm trọn đám mây nhỏ vào lòng. Không quá vài phút, nó đã tan rã, chỉ còn lại dư âm là hơi nước lành lạnh.

– Ở đây có nhiều mây sà xuống lắm. Tụi tôi thường gọi đùa là “Mây đi lạc”.

– Ở đây đẹp thiệt. Nhưng biểu tôi ở đây suốt đời chắc tôi chịu hổng nổi đâu.

Chân Tâm nhếch miệng cười:

– “Ta dại Ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn Người đến chốn lao xao…”

Đọc xong hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ, Chân Tâm đưa tay hứng giọt sương rơi từ một khóm bông mẫu-đơn đang kỳ nở rộ.

Augustino Dương hỏi:

– Anh nghĩ sao về con cái của Đức Phật và các tỳ-thiếp?

Chân Tâm đáp rằng:

– Có một nguồn tin cho rằng hậu duệ của Đấng Thế Tôn đang ở Rajasthan.

Thomas Tường hỏi kỹ:

– Hậu duệ tức là sao?

– Là đời con cháu của con ruột của Đức Phật.

Rồi người Tăng sĩ Long An ấy nhìn trời mà nói:

– Đức Phật có tới mấy người con lận. Nhưng chỉ có đứa con của Ngài với Bà Da-Du-Đà-La là được sử sách nhắc tới nhiều; ấy chính là Tôn giả Rahula – La-Hầu-La.

Simon Tử gật gù:

– Đó cũng là một điểm đáng lưu tâm.

Duy Hảo thêm:

– Sau khi vua Tỳ-Lưu-Ly tàn sát thành Ca-Tỳ-La-Vệ, không biết các con của Như Lai có thực sự thoát được để mà có hậu duệ hay không. Trong kinh điển lại cho rằng phần lớn thân-thích của Ngài đã bị giết chết.

Thanh Liên và Đoạn Trần không biết bằng cách nào mà biết mọi người đang ở đây nên tìm đến. Do đèn măng-sông không đủ sáng nên những người khác không hay biết sắc mặt Thanh Liên đang tái mét và môi thì trắng bệch. Đoạn Trần và Chân Tâm cùng nhau đỡ Thanh Liên ngồi xuống bạt, còn Duy Hảo thì cởi bớt lớp áo ngoài của mình và xếp lại thành cái gối để Đại Trưởng Lão tựa lưng vào.

– Tôi tới dự thính thôi. Nói hết nổi rồi.

Đức Trọng chọn đề tài về phim sử thi Ấn Độ.

Chân Tâm trình bày:

– Những bộ phim sử thi của Ấn Độ vẫn bị dân bên bển chửi như thường, đơn giản là do đã cải biên so với nội dung trong văn bản phổ biến quá nhiều hay làm sáng màu da các diễn viên – mặc dầu việc làm sáng màu da diễn viên là do bị ảnh hưởng từ việc tăng độ sáng cho thước phim đẹp hơn.

Đức Trọng hỏi:

– Văn bản phổ biến là sao?

– Là vầy nè: Cũng một sử thi nhưng được viết lại theo lối văn hay giọng kể của nhiều người sanh ra ở các thời kỳ khác nhau, thành ra không thể xác quyết cái nào là gốc được mà chỉ có thể nói sách nào được chấp nhận và phổ biến nhiều thôi.

– À…

– Cho nên tôi hay nói “dị bản này”, “dị bản kia” là vậy.

Thomas Tường hỏi:

– Chuyện về Chiến Thần Krishna hôm bữa…

Chân Tâm gật đầu:

– Có dị bản cho rằng Balarama sanh cùng ngày với Krishna, nhưng nhờ Nữ Thần Yoda-Maya đưa Bala vào bụng sản phụ Rohini mà Thần được toàn mạng. Ông Nanda nhận hai đứa trẻ hoàng tộc về nuôi và đối xử như con ruột vậy; xin dừng lại ở đây để nói rõ hơn, ông nhận Krishna trước, kế mới tìm thấy Balarama mà nhận nuôi. Nữ Thần này là hóa thân của bé gái mà Kamsa đã giết hại, cũng tức là con ruột của vợ chồng Nanda.

Có cái thì nói Balarama sanh trước Krishna và đã được cha mẹ ruột đưa đi trốn trước khi Chúa Quỷ Kamsa tới.

Và cũng có tài liệu cho rằng Chúa Quỷ tên là “Kansa” chứ không phải “Kamsa”.

Tổng thống Khánh đã gởi điện thư cho Y-Nhã Cường. Giọng văn của ông thống thiết vô cùng và phần lời mười thì hết bảy câu chân thành tạ lỗi vì đã tắc trách phê duyệt một công trình mạo phạm Thánh Tích của Giáo xứ Saint Padre Pio. Đoạn kết, ông cam kết sẽ đình chỉ việc thi công trên phần đất của xóm Đạo và rất mong Y-Nhã Cường sẽ giúp ông một vài chuyện…

Được cái này thì mất cái kia, đời có cho ai ăn cơm mà không tổn thất chút gì bao giờ. Chàng Cha Sở nhếch miệng cười khi cái thói đời đen bạc.

– Thủy Diệu, phiền anh kiểm tra coi thơ này của ổng hay khứa gián điệp bên kia.

Sau hai mươi phút kiểm tra kỹ càng, Thủy Diệu khẳng định đây là hàng thiệt.

Biết mình hành văn không hay, với lại tánh cũng nóng nữa, nên Y-Nhã Cường nhờ Thủy Diệu biên thơ giùm.

– Trì Thương. Viết.

Trì Thương che mắt trái một đỗi, mới nhếch miệng cười mà kéo ghế ngồi xuống biên thơ.

– Rồi, coi được không thì tôi gởi?

Vừa dò lại bức thơ, Đức Cường vừa hỏi Kỳ Thanh:

– Sao Thanh không viết?

– Tánh tôi dài dòng quá không hạp viết ba cái này. Mộc Thảo phù hợp hơn.

Sau giờ ấy, Thanh Liên dẫn nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đi ngắm cảnh ở Sân Mây. Trưa nay Thomas Tường đãi Tăng đoàn món “Binggrae – Summer Crush Coffee” – đây là kem đá bào này của Đại Hàn.

Sáu Quới và người vợ nhỏ tuổi ra ban-công đứng hứng gió và nắng trời. Đã lâu hai người mới có “Riêng một góc trời”, quanh năm suốt tháng bộn bề chuyện Đời – chuyện Đạo đã khiến cuộc hôn của họ trở nên lạt lẽo và nặng nề. Nhưng núi rừng đối với họ chỉ là chốn dừng chân trong kiếp sống, không phải là nơi mà họ muốn an trú trong đời.

Rồi ông Thầy Sáu mở cho bé yêu nghe bài “Đố ai cấm được chim bay” do song ca Hùng Cường – Sơn Ca; đây là sáng tác của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này ba ông ký tên là “Duy Thanh”.

– Tôi có nghe qua chuyện của cô Xuân với cậu Mỹ, tôi thấy tội nghiệp quá ông già à.

– Tội nghiệp con khỉ.

– Ông thử nghĩ coi năm xưa mà quen trễ chút xíu thôi là hai đứa mình đâu có thành vợ – thành chồng.

– Thì giờ đây tôi thoát nạn rồi… Đau, bà!

Maria Bích dẩu môi, rồi day mặt qua hướng khác mà đưa mắt ngó mông lung. Là loại thụ tạo có thời gian hữu hạn trên trần thế, biết được mấy lần nếm được vị ngọt Tình Yêu, sao chị thấy chỉ toàn chất đắng của sự Bội Phản và Chân Tướng của người thương.

Cũng nội trong ngày hôm đó, Đức Trọng đã hoàn thành buổi tuyển chọn diễn viên quần-chúng, dự-kiến sẽ ghi hình vào sáng ngày mai. Sáng nay Đức Hoàng đã quay xong phân cảnh độc thoại nội tâm và một vài ngoại cảnh ở trên núi Tà-Lơn bên Cao-Miên; nhờ tài năng diễn-xuất của anh mà đoàn làm phim đã đỡ tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc.

Hiện thời, Đức Hoàng và mấy thằng bạn đang đi thăm chợ người Miên và xóm – làng lân cận.

Tống Ngạn hỏi Khán Bình:

– Mày lại bị điều lên thẩm vấn nữa hả?

Khán Bình gật đầu.

Đức Hoàng nhíu mày nói:

– Rất có thể cái chết của anh Hai mày và những người khác là bước đệm dọn đường cho việc ám sát cố Tổng thống Bàng Đông Quân.

– Tao thấy đâu có liên quan gì đâu.

– Mày ngu quá… Mấy cái người phụ trách chuyên án đó phần đông là vây cánh hoặc nhóm thân hữu của ông Quân, hạ bệ danh dự và giá họa cho đám đó là cách tốt nhứt để triệt hết lá chắn của ổng. Mày hổng thấy cái ông Biện lý bị rớt đài hôm trước là mấy hôm sau ông Quân cũng chết luôn hả?

– Ờ há… Không truy ra được hung thủ, bắt oan người ta, làm mất đi sự tín nhiệm ông Quân… Thôi tao hiểu rồi.

Ernest Nguyễn cau mày hỏi:

– Nhưng mà ông chủ nhà trọ kia tại sao lại có thuốc loạn thần? Ai là người dám tuồn ra cho ổng?

– Một “Thừa tác viên” của Bộ Trưởng – Bộ Y Tế thời đó. – Đức Hoàng suy đoán.

Đức Trọng gọi điện mời bộ tứ đi ăn hủ-tíu Nam Vang. Do không thích đi xe ngoài nên chàng đạo diễn nhờ Tống Ngạn tới rước.

Trên đường đến quán quen, Đức Trọng bình phẩm:

– Bây giờ có thói quen nói “Do tư bản can thiệp”…

Bộ tứ gục gặc đầu.

– Thay vì nói, “Do nhà đầu tư can thiệp”, “Do “người nhà” của diễn viên can thiệp”,… thì họ lại cố tình nói thành “Do tư bản can thiệp”. Bây giờ hỏi những người đó chủ nghĩa tư bản là gì, phần đông chỉ trả lời đúng một chiều và không thể tự thân nêu thí dụ cho nó được.

– Vậy theo anh “chủ nghĩa tư bản” có lợi ích gì?

– Thứ nhứt: Anh làm nhiều – ăn nhiều, anh làm ít – ăn ít, và anh có quyền ý kiến về việc chia thành quả lao động cho những người kém hơn anh – không sợ bị ai bắt bớ và bỏ tù. Thứ hai: Anh có học vấn cao thì anh dễ dàng có chỗ làm yêu thích; không phải chạy chọt, đút lót hay mượn hơi ai để có chỗ làm đó. Thứ ba: Dẫu anh có mưu mẹo hay chơi điếm-thúi để giành lấy thị phần nhưng anh vẫn phải minh bạch trên thương trường; người nào giúp anh lách luật để giành thị phần hoặc giảm bớt chi phí sẽ bị bỏ tù và trừng phạt. Thứ tư: Thương hiệu của anh là của anh; anh không sợ cái cảnh mới vừa phất lên được một xíu là nguyên cả dãy phố bán món ăn y hệt và lấy luôn tên thương hiệu của anh.

Đức Hoàng hiểu đạo diễn Trọng đang muốn mượn chủ đề này để nói về cái gì, song hắn chọn sự im lặng.

Ernest Nguyễn xen vô:

– Nhưng mà, cái vế cuối cùng, tôi thấy chỉ những người bất tài mới chơi chiêu ăn cắp thương hiệu của người ta. Hầu như các nhãn hàng bên trời Tây thường tự tin vào chính sản phẩm của mình nên họ thiết kế huy hiệu và đặt tên thương hiệu không na-ná nhau. Tỷ như “Burger King”, “McDonald’s”, “KFC”, “Wendy’s”, “Dairy Queen”, “Taco Bell”, “Domino’s”, “Pizza Hut”, “Dunkin’ Donuts”, “Popeyes”, “In-N-Out”,…

– Anh kể tới đâu, tôi nhớ mẩu huy hiệu của từng hãng tới đó.

Khán Bình cũng góp lời:

– Còn bên mình bị cái vấn nạn không tự tin nên thấy người ta bán được cái gì là bán nhái theo món đó. Tỷ như “Hủ-tíu Mỹ Hương”, bán nhái lại thành “Hủ-tíu Mỹ Thương” hoặc “Mỹ Phương”.

Tống Ngạn lên tiếng:

– Thật ra việc các nhãn hàng bán đồ ăn liền rút khỏi Việt Nam gần hết không phải là tín hiệu đáng mừng đâu. Và cũng chẳng phải do ẩm-thực xứ mình ngon quá nên họ đấu không lại.

– Vậy do đâu anh?

– Do lợi tức của đại đa số dân chúng quá thấp để có thể đi nếm thử những món ăn mới. Số có tiền thì chiếm không cao, mà họ cũng không thể ăn ở đó hoài do ngán vị và sợ không tốt cho sức khỏe.

– Đâu, anh thí dụ thử coi.

– Lương công nhân ước khoảng hơn ba trăm Mỹ kim, một cái bánh ở “Dunkin’ Donut” bán một đồng – một cái, thậm chí có cái lên tới hai đồng mấy – gần ba đồng. Một ngày làm được khoảng mười đồng, thử hỏi sao dám vô tiệm này mua bánh ăn thường xuyên? Mà chẳng lẽ vô đây lại lựa cái rẻ nhứt ăn hoài? Cũng phải ăn thử những món khác chớ? Mà ăn giá cao quá thì tháng đó lại phải bớt chi tiêu những khoản khác… Suy đi nghĩ lại, tính tới tính lui, thôi thì ra ngoài đường mua bánh còng – bánh cam ăn cho rồi.

Thử hỏi những người ở miệt vườn coi có mấy người biết bánh Donut, bánh Mochi, bánh Crêpe,… là cái gì không, chứ đừng nói đến việc đã từng được nếm thử.

Cuộc trò chuyện chấm dứt khi Đức Trọng ngó thấy bảng hiệu của tiệm quen. Cô chủ quán là người Việt, lấy chồng Miên nên theo ổng qua đây ở, thành ra cô biết tới Đức Hoàng nên lập tức chạy a ra rước vào.

Đến tối, nhóm anh em Công Giáo theo chân Tăng đoàn đi ngắm những nơi mà ít ai đặt chân đến khi ghé thăm Phụng Hoàng Sơn.

Từ ngày biết Đức Cường rất thích bông giấy, Thanh Liên đã ra-công ương trồng ở những chỗ cây mục hoặc cành – nhánh héo hon. Giờ đây ở đâu cũng rợp sắc “Cánh hoa yêu” ấy.

Ignacio Cường bước lại mà nâng từng nhành bông giấy lên thưởng lãm. Bông giấy có mùi thơm rất nhạt, lại không dễ ưa vì lắm gai – nhiều góc, chỉ được nước làm kiểng đem bóng mát mà thôi, nên ít ai thương nó. Có phải như Thanh đã nói, rằng anh và hoa y nhau không?

Louis Quế chợt nói:

– Cụ Bùi Giáng có hai câu rất đã như vầy:

“Mở hai hàng cỏ ngó xem

Giòng thiên thu rộng là Em bây giờ”

Một câu thơ tục mà thanh. Rất thanh. Và tinh nghịch.

Maria Bích mắc cỡ day mặt đi.

Thanh Liên chợt nói:

– Tôi đã quên phứt bài thơ đó rồi, chỉ nhớ cụ Giáng gởi gắm ý này: “Em đẹp quá, tu đi.” Theo thiển ý của tôi, cụ Giáng hàm ý giai nhân nên ráng “tu” để làm đời đừng loạn lạc bởi nhan sắc của mình.

Stephen Đoàn cười héo hắt. “Ai bảo Em là giai nhân, cho đời Anh đau buồn.”

Louis Quế tếu táo bình phẩm:

– Vậy chớ nhạc sĩ Ngô Thụy Miên có bài “Mắt biếc” dành tặng vợ mình. Ban đầu tôi tưởng mắt bà là mắt nai, dè đâu mắt một mí.

Phú Lâm chen vô:

– Chớ ổng viết “Mắt hí” là ở giá muôn niên rồi.

Ai nấy đều cười khúc khích.

– Tình nhân thường hóa Tây Thi mà anh. – Maria Bích che miệng cười để tránh phô bày răng – lợi nhiều quá.

Stephen Đoàn nói:

– Bài đó chỉ có Sĩ Phú hay Duy Trác ca mới hay.

Phú Lâm tìm thấy một bãi đá-tảng trơn nhẵn nên mời mọi người lại đó ngồi nghỉ chân.

Lau sạch sẽ rồi, lại lấy áo gió của mình làm thảm lót, Huỳnh Quới mới để cho Xuân Bích ngồi. Phần chú, chú ngồi dưới chân vợ hiền.

Augustino Dương hỏi:

– Anh nghĩ sao về phong trào bài trừ Phật Di-Đà và các vị Bồ-Tát?

Trì Thương hỏi ngược lại:

– Để làm chi?

– Hả? Thì là…

– Ai tin theo người nào mà sống tốt thì mình để yên cho họ tin, còn nếu họ bị mông muội thì mình nhắc nhở thôi. Tại sao phải bài trừ?

Longiuns Kiến hỏi dồn:

– Có người cho rằng là để thoát Tàu?

Trì Thương cười khổ:

– Lý lẽ này cũng không khác chi lý lẽ của những người năm xưa kêu gọi bài Chúa để thoát Tây. Nó không những không đem lại lợi lạc gì mà còn khiến chúng sanh lầm than trong sự tranh chấp bằng ngôn từ.

Tôi nói luôn, những người thực sự chứng đắc được Quả Vị A-La-Hán họ không có quởn mà “xuất sơn” kêu gọi bài trừ cái này hay thứ kia đâu. Vì họ thấu suốt được Duyên Nghiệp của từng người, nên rằng họ biết được ai chưa tới thời cơ tiếp nhận Chánh Pháp, thành thử họ không ra sức thuyết phục những người đó tin theo ý mình.

Vẫn còn cái tâm Chấp thì làm sao là A-La-Hán được?

Joseph Thành hỏi:

– Anh có thí dụ nào ở thời của Đức Phật không?

– Tôn giả Ananda có một người bạn thương gia giàu có nức tiếng tên là Lưu-Di. Người này rất ghét Đức Phật, nhưng hễ Tôn giả mà nhờ người này làm cái gì cho Đạo Phật thì người này chạy đi làm liền, giải thích đơn giản là người này rất thương Tôn giả. Do đó, mỗi bận Đức Phật có chuyện cần nhờ người này, Ngài sẽ mượn người Thị giả của mình đi nói giùm; và mặc dầu biết rằng Tôn giả làm theo lịnh của người mà mình ghét cay ghét đắng, nhưng người này vẫn vui vẻ nhận lời và ráng hoàn thành sớm nhứt có thể.

Nhiều lần Tôn giả đã tính dợm bước khuyên lơn người bạn thiết, nhưng hễ Ông khởi lên ý định lần nào thì lần ấy Như Lai đã biểu đừng nên làm như vậy. Như Lai thấu hiểu được cơ duyên giữa mình và người bạn thiết của Ông nên Ngài không cưỡng cầu.

Và rồi, một ngày kia, Duyên đến, Như Lai không cản nữa… Sau khi nghe Tôn giả Ananda thuyết pháp, người bạn của Ông đã phát sanh tâm tin kính Tam Bảo và thậm chí chứng đắc Quả Vị cao.

Châu Lợi hỏi:

– Vậy nếu người ấy tin theo A-Di-Đà-Phật và các vị Bồ-Tát mà sống tốt như Đức Huỳnh Giáo Chủ thì những người đó có bài trừ và phê phán không?

Châu Lợi không nhận được câu hồi đáp từ ai.

Chân Tâm tiếp:

– Như tôi đã từng nói với anh trước đây, người mà tôi cảm nhận có thể A-La-Hán ở đời này có hai người, bàn một vị trước thôi, vị sau từ từ bàn…

Nếu anh có ghé mắt qua sách của Thiền sư Ajahn Chah hay nghe ông diễn thuyết, anh sẽ thấy ông chỉ hướng dẫn người ta cách tu hành, thái độ nên có với đời sống và kinh sách hay để đọc. Tôi chưa hề thấy ông kêu gọi bài trừ thứ này hay thứ kia nhân danh bảo vệ Nguyên Thủy Phật Pháp…

Matthias Hoàn tròn mắt:

– Tại sao vậy?

– Bởi vì một người Sa-môn nên dẫn-dắt chúng sanh vào Bát Chánh Đạo, chứ không phải biến chúng sanh thành người đi sàng đậu theo ý mình. Giống hệt như anh được cho tô hủ-tíu mỳ thập cẩm, thay vì cầm đũa lên ăn, anh lại lẩy từng cọng, bươi từng món đồ bổi, cốt để bỏ mấy thứ mà anh cho rằng anh ăn vô bị đau bụng hay anh không thích ăn; kết cuộc, ngoài một tô hủ-tíu mỳ bị thiu và trương phình, kèm theo cái bụng đói meo, cái đầu nhức băng-băng, hai con mắt đỏ quạch và một cơ thể rã rời tê mỏi, anh chẳng tiếp nạp được gì cả.

Đọc Kinh Phật cũng vậy, nghe người ta nói Kinh này xạo thì ồ à lên Kinh này xạo, nghe người ta chê trách người này thì cũng nháo nhào lên hưởng ứng. Anh không có lấy một cảm nghiệm của bản thân, cũng như tự trải qua những hành thức mà người khác đã ngộ được, rốt cuộc con đường tu Phật của anh trở thành con đường tu hú – Tức ai hú sao thì anh tu y chang vậy.

Châu Lợi đặt câu hỏi:

– Có rất nhiều người đã cảm nhận được sự linh ứng của Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, rồi những người bài trừ giải thích thế nào?

Đoạn Trần thêm:

– Bản thân khoa học hiện nay còn không xác quyết nổi ma quỷ là do sự rối loạn não bộ của một người mà tạo thành mắt thấy – tai nghe hay thực sự có một cõi khác mà chỉ khi cùng tần số rung động thì cả hai mới có thể tình cờ lướt qua nhau?

Maria Bích hứng thú hỏi:

– Ê… Các vị có truyện ma nào hấp dẫn không?

Duy Hảo kể:

– Có một ông ở Bến Tre trở về quê sau khi đi tập kết ngoài Bắc, ông là người vô thần toàn tập, và thường xuyên thách thức Thánh Thần – Ma Quỷ hiện ra cho mình coi và dám tuyên bố sẽ bắn bể sọ hết thảy. Và rồi ông đã được toại nguyện…

Bữa đó, ông đang ngồi ở nhà trên thì tự nhiên thấy nguyên cái mặt ông sư ịn lên bông-cửa thông gió mà đưa mắt ngó ông lom lom. Tưởng đâu bị phát giác, ông mới xách súng chạy lại. Dè đâu, chỉ còn cách vài bước nữa, cái mặt ông sư biến đâu mất tiêu. Qua ngày hôm sau, ông nhờ bạn bè đi kiếm giùm ông sư nào mà có bản mặt thiệt hung ác và dữ tợn để ông bắt về tra hỏi. Nhưng đi tới chùa nào, họ đều không tìm thấy Tăng sĩ hay Sa-di nào có gương mặt giống vậy hết. Nghĩ rằng đó là Biệt Động Quân giả sư để bắt mình, ông càng lo lắng tợn, suốt ngày thấp thỏm không yên.

Cho đến vài tháng sau, lúc ấy là đêm Rằm trăng sáng vằng vặc, ông theo lịnh của đám cấp trên mà xách súng đi “làm”. Vì đường cũng xa, nên ông dừng lại bên một đìa nước nghỉ chân. Và rồi…

Lúc mà ông ngó xuống cái đìa, thì hỡi ôi cái mặt ông sư kia hiện lên trên đìa nước tự bao giờ. Mấy anh biết cái đìa rộng cỡ nào phải không? Vậy mà cái đìa diện tích bao nhiêu thì cái mặt bự bấy nhiêu. Khỏi phải nói, ông vắt giò lên cần cổ mà chạy trối chết, chạy hết biết “đồng chí – anh em” chi sất.

Cũng kể từ dạo đó, ông trở thành người hữu thần luôn, và hễ thấy phe mình tính mạo phạm nơi thờ tự là ông liều chết can ngăn không cho phá. Và cũng nhờ hai lần bị hù, tâm tánh của ông bắt đầu thay đổi, ông cũng không còn giao du với phe ông nữa, mà lui về ở ẩn làm vườn và ít khi đi ăn nhậu với ai.

Pháp Thân bình phẩm:

– Tôi nghi ông sư đó là hóa thân của A-Tu-La quá.

Duy Hảo gật gù:

– Cũng có thể. A-Tu-La không đến nỗi xấu nhưng vì dục vọng và tham chấp quá lớn mà phải thác sanh vào cõi Bất Đắc Ý này.

Trì Thương kể:

– Có nhiều người khôn lỏi như vầy, họ thách Thánh Thần cho họ trúng số rồi họ mới tin. Và đương nhiên, người cho họ là cô hồn – dã quỷ hay bè lũ Ma Vương, chứ không phải là người nơi Cõi Trời.

Vài người bên Công Giáo ồ lên hỏi:

– Tại sao vậy?

– Giống hệt như anh xài thẻ tín dụng trả trước vậy. Chúng lấy phước đức hậu vận của anh đổi cho anh tài lộc trong hiện tại. Thành thử, nhiều người phước mỏng – đức kém, bị “giao dịch” như vậy là kể như tiêu luôn hậu vận. Đó là lý do tại sao, dẫu tin hay không tin, cũng xin đừng rớ vô bùa ngải và thực hiện những nghi thức tà ám. Lỡ mà nó có thật là coi như đi đời luôn.

Châu Lợi cau mày:

– Thánh Thần không có rảnh để tiếp chuyện hay nhập hồn đâu. Thường thì là Ma Quỷ – Yêu Quái sẵn ác tâm nên thích hiện ra để quấy phá người thách thức họ mà thôi. Cái thuyết này tôi nói theo ý của giới tu hành bên Mật Tông.

Đoạn Trần trở về với chủ đề ban đầu:

– Bản thân Đấng Thế Tôn, trong “Kinh Phạm Võng”, cũng đã nhắc tới những lời bàn không có lợi lạc gì cho việc tu tập, một trong đó là phủ nhận hoặc khẳng định có vị Thần này hay Thần kia. Nhưng thời nay, nhiều nhà sư ưa nói hơn là tu dưỡng, thành thử lên bàn hết chuyện này tới chuyện kia, phản bác hoặc xác quyết chuyện này tới chuyện kia.

Mọi người hiểu ý của người Tăng sĩ họ Trần nên quành về.

Ignacio Cường chợt vỗ vai Thanh Liên mà hỏi:

– “Hồi hướng công đức”?

– À, “Tạng Kinh: Kinh Tiểu Bộ – Phần: Kinh Tiểu Tụng” sẽ giải đáp mọi thắc mắc của anh về vấn đề này.

– Đâu, cảm phiền anh nói rõ hơn được không? – Augustino Dương hỏi.

– Về vấn đề cúng thí, cúng cô hồn và làm đám giỗ cho người thân đã mất được trả lời ở “Mục Bảy: Kinh Ngoài Bức Tường – Tirokudda Sutta”. Ngoài ra, cũng nằm trong “Tiểu Bộ Kinh”, nhưng là phần “Petavatthu – Chuyện Ngạ Quỷ”; đây là bằng-chứng chứng-minh Lễ Vu Lan Báo Hiếu đúng ra là nói tới hạnh Hiếu Đễ của Tôn giả Xá Lợi Phất chứ không phải là Tôn giả Mục Kiền Liên, sẵn đây cũng nói luôn, Theravada không có cái Lễ Vu Lan này.

Tiếp, về đám giỗ, mời tìm đọc “Tăng Chi Bộ, Chương Mười: Pháp, Kinh 177: Janussoni”. Và “Kinh Tiểu Bộ” số 18 và 19.

Rồi Kỳ Thanh hỏi lại Đức Cường:

– Anh còn nhớ nữ thí chủ bị ba bắt cải Đạo không?

– Nhớ.

– Năm đó, bà ngoại cổ đang mang bầu má cổ được bảy tháng, đêm đó bà nằm mộng như vầy: Bà thấy từ trên thinh không, một bà tiên bay là là xuống và hỏi bà rằng, “Nuôi nó không?” Bà chưa kịp mở miệng nói gì, thì bà tiên đó đã hất đứa trẻ xuống dưới. Theo quán tính, bà nhào tới đưa tay chụp. Chừng hứng được rồi, thì bà tiên kia không thấy đâu nữa. Bà bèn ngó xuống coi mặt đứa nhỏ và tặc lưỡi, “Con của Tiên cho gì đâu mà xấu quá trời xấu.” Rồi đó, bà tỉnh dậy, và giấu kín chuyện này.

Đến ngày lâm bồn, bà đẻ ra đứa nhỏ mặt mày y chang đứa nhỏ đã hứng được trong mơ. Nhưng nó không phải là con trai như bà đã thấy, mà là con gái. Nghĩ rằng đứa nhỏ này là Tiên Nam bị mắc đọa nên bà đặt tên cho con là Tiên luôn.

Bẵng đi một thời gian rất lâu nữa, bà mới có dịp viếng chùa và đã sửng sốt chỉ lên tượng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát mà rằng, “Cái bà này cho em con Tiên nè mình.”

Thanh Liên ngừng nói để nghỉ lấy hơi. Đức Cường rót cho anh một ly trà ấm đặng uống cho thông cổ.

– Tới đời má của cổ, sau năm 75, ai mà có thể tự do đi tới các nơi thờ tự, phải nói rõ chi tiết này để khẳng định má của cổ chưa hề biết mặt Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. Đêm đó bà mộng thấy mình đang ngồi ở trong nhà thì bỗng nhiên ngoài sân sáng bừng lên. Con nít vốn hay tò mò nên bà đã chạy ào ra ngoài coi, và thấy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đứng đó đợi bà. Chừng bà bước ra rồi, thì Đức Bồ-Tát mới bay lên không trung. Lúc mà má của cổ ngước lên nhìn theo, thì thấy Phật A-Di-Đà, chung quanh Ngài là các vị Phật và Bồ-Tát khác ngồi xếp kín bốn phương – tám hướng thinh không. Trong mơ, bà đã cười khúc khích mà rằng, “Chời ơi, quá chời Phật luôn.”

Sau này, bà có đi viếng chùa và y hệt như má ruột, bà rất ngạc nhiên khi thấy bức tranh “Tam Thế Phật” và “Tây Phương Cực Lạc” giống hệt như cảnh tượng mà bà từng thấy trong mộng hồi nhỏ.

Tới đời của cổ, cổ thấy Tôn Phật Di-Lặc. Năm đó cổ chỉ mới mười lăm tuổi và là một người vô thần. Đêm đó, cổ mộng thấy Di-Lặc Bồ-Tát ngồi ở chiếu nghỉ cầu thang lầu Một trong trường học. Ngài đã nhìn cổ và gật đầu cười. Cổ tự nhiên cúi đầu và chắp tay đảnh lễ. Chưa đầy một năm sau, cô theo Đạo Phật luôn, sau khi bị đánh động tâm can bởi một tích truyện Phật Giáo.

Rồi bây giờ, ai giải thích được không?

Châu Lợi hiểu ý Đại Trưởng Lão nên nói:

– Ý của Thanh Liên là tại sao trước thời kỳ Công Nghệ – Thông Tin phát triển, hình dung của mọi người về các Chúa – Thánh – Thần – Tiên – Phật lại rất tương-đồng với nhau? Nếu như ở thời này, anh coi phim, đọc sách hoặc vô tình nhìn thấy trên mạng, thì rất dễ giải thích vì căn cớ nào mà anh lại mộng thấy rõ ràng. Còn chưa từng thấy thì làm sao có thể nằm mộng và nhớ rõ từng chi tiết như vậy được?

Chân Tâm chấm dứt cuộc tranh luận:

– Cho nên Đấng Thế Tôn không muốn nói về những vấn đề siêu hình vì Ngài biết chúng sanh càng nói càng mù mờ hơn. Người muốn tin ra sức chứng minh, người không muốn tin ra sức bác bỏ, rồi cả hai bên tự nhiên mất thời gian cho việc vô bổ này.

Augustino Dương cười mà giọng lạnh tanh:

– Vậy ra nãy giờ anh nói chuyện vô bổ sao?

– Phải, “Vô bổ”.

Ignacio Cường và Louis Quế ngó Chân Tâm bằng ánh mắt không hài lòng.

– Và, trước khi chấm dứt chủ đề vô bổ này, tôi xin nói thẳng vô mặt luôn…

Nhóm Công Giáo nhìn Chân Tâm bằng vẻ mặt hết sức căng thẳng.

– Muốn chứng minh hay bác bỏ điều gì thì đều phải tự thân làm ra và suy kiến, chứ không phải là đi lượm chỗ này – hốt chỗ kia về rồi đơm lên thành bài của mình. Đấng Thế Tôn đã từng nói “Chính mình phải là ngọn đèn của mình”. Còn bây giờ, tôn giáo nào cũng vậy, hễ ai “sáng” được một chút là nhào đầu chạy theo, có ngày lủi lộn vô “đầu xe” không biết chừng.

Những gì tôi nói nãy giờ phải đi kiểm chứng và phải thực hành rồi hẵng quyết định tin hay là không tin. Nếu đã làm hai việc trên thấy đúng mà vẫn không muốn tin, thì hãy tự nhiên không muốn tin tiếp. Tôi sống theo phương châm của Đức Bổn Sư, tức không cào mặt ăn vạ hay nói lấy đặng – lấy được và bắt ép người ta phải tin lời mình.

Chân Tâm vừa dứt tiếng, liền đứng dậy sửa y rồi chắp tay mà cúi đầu xá mọi người trước khi vào rừng hành Thiền.

Louis Quế gãi đầu nói nho-nhỏ:

– Chân Tâm hình như giận rồi.

Trì Thương lắc đầu:

– Thẩy tên là “Chân Tâm”, chứ không phải “Xảo Tâm”, nên Thẩy không dùng xảo ngôn để mua chuộc nhân tâm của ai hết. Cái tên này Đức Thầy đặt cho Thẩy dựa trên sự thẳng thắn như Tôn giả Mục-Kiền-Liên và Đại-Ca-Diếp.

Thomas Tường cười hiền:

– Mà đúng là vô bổ thiệt. Người đã từng chứng kiến và nhận được sự linh ứng thì họ rất mực tin kính. Người chưa từng cảm nghiệm hai điều trên thì dẫu có nói tới xuất huyết bao tử thì họ cũng sẽ cười khẩy và ra sức bài bác.

Ignacio Cường nhắc lại một mẩu chuyện mà Thanh Liên đã nói cho anh nghe:

– Cũng như người đã ghét và không tin mình, thì dẫu mình có móc tim ra cho họ, họ cũng cho rằng mình đang làm ảo thuật thôi.

Thanh Liên tiếp:

– Cũng như người đã có căn tu, chỉ cần nói vài lời là họ sẽ muốn xuất gia. Nhưng đối với những người không có căn tu, càng nói càng khiến họ chửi nhiều hơn.

Longiuns Kiến hỏi:

– Tôi muốn hỏi lại một lần nữa, rằng Đức Phật có nói về vấn đề siêu hình không?

Đoạn Trần trả lời:

– Nếu có nói, Ngài ấy cũng sẽ nói không tường tận.

– Tại sao?

– Anh hỏi tôi ở đâu bán chè ngon, tôi nói bên Quận Chín có chè ngon, anh chỉ có thể mường tượng ra được ly chè chứ đâu thể nào cảm nhận mùi vị của nó phải không? Thành thử anh đâu thể nào tin chắc tôi được?

Những vấn đề siêu hình cũng vậy, dẫu Ngài có nói tường tận cỡ nào, chúng sanh chưa khai thị được như Ngài thì làm sao mà biết nên tin hay không tin. Do đó sẽ chia thành ba nhóm: Nhóm đầu ráng sức tu tập để kiểm chứng, nhóm hai thì tin sái cổ dù chưa tự mình kiểm chứng thực – hư và nhóm ba sẽ lên tiếng bài bác Ngài dù chưa tự mình kiểm chứng thực – hư. Thành ra, thay vì phí lời nói những thứ mà chúng sanh không thể hiểu được, trong suốt mấy mươi năm hoằng pháp, Ngài chọn nói về đề tài hướng dẫn đường tu nhiều-hơn hơn-là đi làm minh bạch những vấn đề siêu hình để thỏa mãn óc tò mò của những chúng sanh hiếu kỳ.

Đây là lần thứ mấy anh đã hỏi tôi câu này vậy?

Augustino Dương nói thẳng luôn:

– Tôi hỏi hoài một câu là vì muốn kiểm chứng coi các vị có mâu thuẫn với nhau trong vấn đề kinh điển không.

– Cái gì nương dựa vào Pháp Phật, sẽ không mâu thuẫn nhau. Cái gì nương dựa vào điều kiện thế gian, sẽ bị mâu thuẫn nhau. Ma Tăng luôn giảng pháp một cách mâu thuẫn, đơn giản là do họ soạn bài thuyết pháp dựa trên hơi tiền và lợi ích mà thế gian đem đến cho họ, thành ra họ ráng nói lấy đặng lấy được hòng gây dựng được danh tiếng, cũng như thỏa mãn thói háo danh của mình, và nhiệm vụ được giao.

Thanh Liên nói:

– Tôi hy vọng sẽ không nghe thấy câu hỏi này nữa.

Một ngày dài cứ thế qua đi. Bầu trời đầy sao huyền ảo lại ngự trên dãy núi Cô Tô tươi đẹp. Bữa nay là lần đầu tiên giữa Phật Giáo và Công Giáo mích lòng với nhau, mặc dầu những Kitô Hữu đã cố gắng xua tan sự khó chịu trong lòng nhưng vết xước của cái dằm nằm ở trong tâm khảm cứ dấy lên từng hồi.

Đức Trọng vẫn chưa quen với chỗ này nên đêm nay lại mất ngủ nữa. Anh đành rời khỏi giường mà vô rừng ngoạn cảnh. Mặc dầu trời rất nóng nhưng anh vẫn mặc hờ một cái áo gió đặng phòng lạnh.

Trong bộ phim đang quay, Đức Trọng tính để Đức Hoàng chửi chánh phủ một tràng để biện minh cho sự sa ngã của anh ta. Nhưng nhà đầu tư sợ chửi phong long mà lỡ trúng tim đen kẻ khác nên nằng nặc đòi cắt cảnh này. Song, anh và Đức Hoàng kiên quyết đòi giữ cảnh này, vì đây là một cảnh hết sức quan trọng để đẩy tình tiết lên tột độ cao trào. Anh thương Đức Hoàng ở chỗ này, không bày đặt “Ầu ơ ví dầu” như cái đám kia.

Đi quanh quẩn một hồi, Đức Trọng lạc đường lúc nào không hay. Sực nhớ tới lời của mấy ông thầy, anh cẩn thận dò dẫm từng bước một để tránh bị rớt xuống sườn núi và đạp trúng ổ của bầy côn trùng hay loài bò sát có độc. Trời cao đẹp quá mà anh không thể dừng lại để ngắm nhìn thêm một chút nào nữa, hoa cỏ đồng nội đang ngát hương mà anh không thể ngừng lại để thưởng lãm; bây giờ anh chỉ muốn về lại nhà trọ của ông Sáu Diên cho đỡ sợ mà thôi.

“Sượt…”

Bất thình lình, Đức Trọng bị ai đó đẩy xuống dưới. Anh té đập đầu xuống mô đất rồi bất tỉnh nhân sự, máu tươi tuôn ra từ vết thương trên đầu làm ướt mem bờ cỏ xanh rì.

– Chân Tâm đã hiến máu cứu anh. Hai người cùng nhóm máu B mà. – Đức Hoàng vừa nói vừa đỡ Đức Trọng ngồi dậy.

Đức Trọng nhìn vô tấm hình mà người điều tra viên đưa cho mình mà nhíu mày nói:

– Cậu này không phải là người đã đẩy tôi xuống cái hố đó.

– Anh thấy mặt hả?

– Ờ… – Đức Trọng ôm đầu nhăn nhó.

Ông bác sĩ đổ quạu:

– Người ta mới tỉnh mà tới hỏi gì mà hỏi dữ vậy? Để bịnh nhơn ta khỏe chút rồi hẵng lại điều tra. Gấp gì mà như muốn lấy mạng người ta vậy hả?

– Tôi… tôi xin lỗi…

Đức Trọng uống từng hớp một lon “Celsius – Watermelon”, bổ sung dưỡng chất cần thiết cho cơ thể. Diễn viên Hoàng đã mua cho anh vài lon để đỡ lạt miệng.

Đức Hoàng đã nhờ ba thằng bạn viết bài về vụ việc của đạo diễn Trọng. Lập tức tin này đã làm dậy sóng trong dư luận; dù rằng họ chỉ nói vắn tắt rằng đạo diễn Trọng bị té xuống hố chứ không nêu lên một giả thuyết nào, nhưng phần đông đều biết đạo diễn Trọng đã bị mưu sát, không rõ bên thứ ba tung giả thuyết trên là ai, chỉ biết hắn đang muốn “Ngư ông đắc lợi” mà thôi.

– Anh muốn đi tiểu – tiêu gì không? Tôi dìu anh đi.

– Ờ, phiền cậu quá.

Cũng may tướng tá Đức Trọng y như con khô cá hố nên Đức Hoàng mới dìu đi nổi. Do quá bất ngờ nên Đức Trọng không được điều trị ở bịnh viện tư có phòng ốc riêng mà phải nằm ở bịnh viện công vừa đông người vừa hôi hám. Có lẽ anh sẽ chuyển sang bịnh viện tư ngay ngày mai, chứ anh không chịu thấu bầu không khí ở đây đâu.

– Để tôi giội nhà vệ sinh một lát rồi anh hẵng vô.

– Sao đi rồi mà không chịu giội vậy nè?

Đức Hoàng cúi xuống mà giúp Đức Trọng xăn hai ống quần lên cao khỏi gối cho đỡ dính nước dơ ở dưới sàn nhà. Không có Đức Trọng, chắc mấy đứa em của hắn mù chữ hết, tiền đ*o đâu mà đóng học phí năm nay; và ba má của hắn sẽ phải còng lưng đi lượm ve chai nguyên ngày. Ngay cả súc vật còn ít khi quay lại lấy oán báo ơn người ta.

– Chừng nào xong, kêu tôi. Tôi đứng ở ngoài này nè.

– Cảm ơn anh nhiều lắm.

Tự nhiên Đức Trọng nhớ tới một diễn viên ngoại quốc, trên phim chuyên đóng vai anh hùng cứu thế và người nghĩa hiệp, còn ngoài đời thì sống ngược lại hết trơn.

– Răng của anh chừng nào mới niềng xong hả Hoàng?

– Hả? À… Hết năm nay.

– Cái chỗ bắt vít có đau không?

– “Minivis” hả? À… Êm ru hà.

– Tôi có coi hình hồi anh chưa sửa. Công nhận nếu chỉ dòm nửa mặt trên sẽ thấy tiếc cho anh vô cùng.

– Phải, nên tôi mới chịu phẫu thuật xương hàm và điều chỉnh lại khớp cắn.

– Con gái tôi hay cắn móng tay, tôi sợ nó bị lệch khớp cắn nên cứ hễ ở gần là la nó hoài. Giờ nó lớn nó tự sợ xấu rồi nên tôi khỏi mất công nói nữa.

Đức Hoàng bấm đốt ngón tay nhẩm tính. Có lẽ con nhỏ con của ổng chắc chừng đâu dưới mười lăm tuổi một xíu; ấy là ổng đã lập gia đình sớm hay bị dính chấu giữa đường.

– Nghe nói tòa soạn “Canh Tân” bị đình bản thêm vài tháng nữa, cậu có biết bên đó làm gì mà bị như vậy không?

– Cái tội đưa tin quá sớm về vụ việc phát hiện xác của con tin trong nhà hoang. Nghe đâu đứa đi bán muối là người nhà quan chức Bộ Y Tế nên thằng cha kia muốn ém tin này.

Đức Trọng bật cười khúc khích. Chưa có ai gọt bài mà đã dám tự ý đăng rồi.

– Tự nhiên ông chủ nhiệm bên bển bị tung tin là mật vụ của cha nội Khánh.

– Vậy hả?

– Ờ, cái ông “Mái tóc chị Hoài” đó ngoài cái bụng bia ra thì còn cái mật nào đâu mà vụ.

Trên đường trở lại phòng bịnh, Đức Trọng nói đói bụng nên nhờ Đức Hoàng đi mua đồ ăn. Bây giờ Đức Hoàng mà nhận lời thì thể nào ba ngàn năm nữa Đức Trọng mới được no bụng, bởi lẽ hắn là diễn viên đang lên nên ai nấy cũng xúm lại phỏng vấn và đòi chụp hình chung. Cho nên hắn bèn cậy mấy đứa bạn đi mua hai bịch súp có bỏ thêm óc heo và tóp mỡ, cùng hai bịch nước mía – hạnh – khóm – cam – sầu riêng cỡ độ một lít để uống cho đã khát. Đức Trọng đòi ăn thêm món mỳ xào thập cẩm cay vừa, vậy là hắn phải chiều theo luôn; đã uống thuốc nóng gan mà còn ăn đồ dầu mỡ, “Mai lỡ hai mình xa nhau…” thì ráng mà chịu.

Phòng bịnh tập thể vừa tiếp nhận thêm hai người. Hết giường rồi nên người nhà đi mướn ghế-bố của một tay cò, người này là bà con với một ông Trưởng khoa trong đây, với giá “Đoạn đầu đài”. Đức Trọng thấy tội nên nhờ Đức Hoàng trả tiền giùm, đêm qua sợ cướp có đem theo đồng cắc nào trong người đâu. Đức Hoàng cũng vui vẻ nghe theo.

Xong chuyện với “Những người khốn khổ”, Đức Hoàng vừa mở tay nải vừa nói:

– Tôi biết anh kỹ tánh nên có mua chai cồn rửa tay nè.

Đức Trọng mừng rỡ đón lấy. Anh có cái tật hễ tay dơ là không thể nuốt trôi bất cứ món gì.

– Mùi khuynh diệp hả? Thơm như dầu gió Kim vậy.

Đức Hoàng gật đầu. Phòng bịnh lúc bấy giờ y như hũ mắm tép bị ương, không chỉ vì đã kín hết giường mà còn vì mùi hôi tanh nữa.

– Cậu là người ở đây, cậu biết có bịnh viện tư nào tốt nhứt không?

Đức Hoàng kể ra một cái tên.

– Rồi, tối nay tôi sẽ chuyển tới đó điều trị.

– Sao anh không thử nằm ở đây tới sáng mai để có cảm nghiệm làm phim?

Đức Trọng ngượng ngùng im ru.

Đức Hoàng nói trong lúc đưa mắt nhìn xa xăm:

– Đây là đời sống thực sự của bà con lao động nghèo. Giành nhau từng cái giường nằm. Làm đủ thứ nghề để có tiền nuôi thân nhân. Vô đây khó chịu đủ đường, ngay cả đi vệ sinh hay tắm rửa mà cũng phải xếp hàng và chầu chực. Mấy anh làm phim mà đu theo người giàu hoài thì lấy đâu ra tác phẩm để đời.

Đức Trọng vẫn im lặng.

Đức Hoàng thôi quấy rầy ân nhân. Hắn mở điện thoại ra coi những clip hài nhan nhản trên Youtube, hầu như nhóm cũng né đề tài liên quan tới chánh trị và suốt ngày bám riết vào ba cái trào lưu thịnh hành để diễu cợt. Hèn chi mà phần đông giới trẻ hiện nay không mến chuộng Văn Học, mà chỉ thích nổi tiếng bằng sự lặp lại hành vi của kẻ tiên phuông.

– Cậu nghĩ sao về nghề báo hả Hoàng?

– Đối với tôi, làm báo là để “Khai dân trí” chứ không phải là “Đi mị dân”.

– Cậu có quen Sương Tuyết không?

– Có, nhưng không mấy thân. Vì cái tánh của anh không thích nói chuyện với ai hết. Ảnh viết rất nhiều, nhưng ngoài đời ảnh lại nói rất ít – chỉ khi rà trúng đài của ảnh thì cái miệng của ảnh mới lên tăng-phô thôi.

Tôi còn nhớ có thằng cha rình ảnh, nghe ảnh nói thao thao bất tuyệt trong nhà, liền ghé mắt vô coi ảnh với ai để về báo với chủ. Dè đâu, ảnh độc thoại…

Đức Trọng che miệng cười ngặt nghẽo. Đoạn run giọng bình phẩm:

– Vậy là ông này tới rồi đó.

– Ừ, ảnh khùng ảnh biết mà. Ảnh thích nói cho ảnh nghe, rồi ảnh tự cãi lại ảnh luôn.

– Tại sao?

– Ảnh nói mọi luận cứ đều có sơ hở và sai lầm, mình phải tập cãi lại mình để giúp cho luận cứ được chắc chắn hơn.

Ước khoảng một tiếng hơn, mới thấy ba thằng bạn thiết của Đức Hoàng lò dò bước vô. Một đứa nhỏ đói ăn đã lâu reo lên mà chỉ má nó, “Người ta tới phát cơm kìa má”, người mẹ trẻ lắc đầu, “Người ta vô thăm nuôi, con ơi.” Chí Công và Tống Ngạn bèn đưa cho hai má con hộp cơm tấm Long Xuyên và hai bịch nước mía cỡ một lít, để rồi nhận lại nụ cười trẻ thơ của đứa nhỏ và cái cúi đầu chắp tay xá của người đàn bà vừa bị chồng bỏ mà còn bị công-ty sa thải.

Đức Hoàng chợt đứng dậy:

– Thôi, tụi bây coi chừng ổng giùm tao. Để tao đi mua đồ ăn cho bà con ở đây.

Chí Công tròn mắt hỏi:

– Mày đi có được không đó?

Đức Hoàng chép miệng:

– Chắc không sao đâu.

Rồi đó, Đức Hoàng đi tới tận nơi mà hỏi ai muốn ăn gì thì anh đặt mua cho. Người nào người nấy hưởng ứng nhiệt liệt; có người còn xin anh cho mua thêm vài phần để đem dìa cho con – cháu ở nhà.

Khán Bình cau mày:

– Sao mày không gọi điện đặt?

– Tao sợ người ta không làm…

– Vậy thôi tao đi với mày.

– Thằng Trọng có ở đó không bác sĩ? Thôi cảm ơn nha… Thấy nó rồi…

Nguyễn Đình Nghĩa chưa kịp bước vô phòng mà Đức Hoàng và Khán Bình đi sượt qua mặt. Cha nội này nhiều chuyện chúa, nếu chả biết Đức Hoàng ở đây thể nào cũng giữ lại hỏi, nên là trốn trước cho chắc ăn.

– Đứa nào mới đi lướt qua tôi đó?

Đức Trọng xua tay:

– Người quen… Người quen…

Vừa tìm đường đi lại giường bịnh của thằng Trọng, Đình Nghĩa vừa ăn nói rổn rảng:

– Hai đứa tôi là cặp “Trọng – Nghĩa khinh tài”. Tưởng đâu nó thành công rồi nó “Trọng tài – Khinh Nghĩa” chớ.

Đức Trọng chợt có tin nhắn. Thì ra là Đức Hoàng, anh ta hỏi Đình Nghĩa ăn cái gì thì để anh ta mua về cho.

– Mày ăn gì hông Nghĩa?

– Tao á? Nãy ăn dọc đường rồi. Nhưng nếu được thì mày gọi giùm tao tô súp giống mày, thấy mày ăn tự nhiên tao thèm quá.

– Ừm.

– Mày đây còn diễn viên Hoàng đâu?

– Đi rồi. Ngồi im cái mỏ chút đi. Phòng bịnh mà làm như phim trường, ồn ào quá.

Đình Nghĩa làm cử chỉ “kéo khóa miệng”, rồi kiếm đâu được một “góc trời bé con” mà đứng coi máy. Quạt trần vừa quay vừa tập thể dục, không biết nó muốn từ giã cõi đời lúc nào nữa, nhưng vì chịu không thấu cái nóng nên ai nấy phải cắn răng chịu đựng sự xui rủi.

Hơn một tiếng mấy, Đức Hoàng và Khán Bình trở về; đi cùng họ là nhân viên của các quán ăn. Đức Hoàng còn mua thêm sáu cây quạt đứng công suất lớn hiệu “Panasonic”.

– Tắt quạt trần đi. Rủi nó “rụng” xuống là đi luôn đó.

Cũng nhờ cái miệng bài hải của Đình Nghĩa mà mọi người đã nhận ra Đức Hoàng. Anh đành tháo khẩu trang xuống rồi tổ chức một buổi giao lưu nho-nhỏ với người hâm mộ.

Còn trong phòng tạm-giam, Quỷ Lùn nghe phong thanh rằng mình có cơ hội được giải oan thì mừng húm. Bữa nay cậu mới chịu ăn chút cơm tù mà cai ngục đưa cho. Thái độ của cậu đã khiến những điều tra viên đặc biệt lưu tâm.

Canh ba hôm sau, Đức Trọng đã ở bịnh viện tư rất mực sang trọng và chiều khách. Anh nằm dưỡng thương mà tưởng đâu đang ở khách sạn bên Dubai, vì tiền phòng hết sức mắc mỏ và cách bày trí trong phòng vô cùng lộng lẫy.

Buồn quá, không có gì để giải khuây, Đức Trọng bèn mời nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và bộ tứ Nhạn – Vàng – Bình – Công tới chơi. Thằng bạn của anh đã đi mua những món ăn liền ở “Popeyes”, “Lotteria” và “Jollibee” rồi.

Bộ phim mà Đức Trọng chọn tên là “Killer Karaoke” – Một bộ phim ma – hài Thái Lan.

Ernest Nguyễn bật cười:

– Chắc cha nội này bị hàng xóm tra tấn lỗ tai nên tức mình viết nên bộ phim này.

Phim này không dành cho lứa tuổi vị thành niên vì có nhiều tình tiết gây cười quá trớn, bạo lực và hành vi tính-dục. Những ngoại trừ ba điều trên, đây là một bộ phim khá hay và có nhiều bài học đáng để lưu tâm.

Sau gần hai tiếng coi phim, Ignacio Cường chép miệng:

– Tự nhiên coi xong, tôi càng không đồng tình với ý kiến hợp pháp hóa mại dâm.

Đức Trọng nêu cảm nghĩ cá nhân:

– Bộ phim này châm biếm giới giải trí rất nhiều, nhứt là ở chỗ một người có giọng ca hay và yêu nghề thì bị khán giả chấm rớt vì vẻ ngoài xấu xí, còn những kẻ không biết hát thì chỉ cần gương mặt đẹp, biết nhảy múa và chịu ăn mặc khêu gợi thì được tung hô lên đến tận trời.

Tức cảnh sinh tình, Stephen Đoàn bèn thổi khẩu cầm bài “Mùa Thu Đông-Kinh” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ; bài này ông Thơ sáng tác nhân dịp viếng thăm vùng Hakone – Fuji vào những ngày đầu Thơ bằng du thuyền Hakone. Có một vài nhạc sĩ trước năm 75 đã soạn được những tình khúc đúng với giai điệu của xứ Phù Tang; kể sơ qua có “Hoa đào ca (Japanese Folk Song)” của nhạc sĩ Phạm Duy, “Mùa hoa anh đào” của nhạc sĩ Thanh Sơn, “Men rượu ly bôi (Sake)” của nhạc sĩ Huỳnh Anh,…

Không biết có phải là do đang thất tình nên chàng Linh mục xấu trai đã ngừng chơi đàn mà cất lên tiếng ca “Vạn cổ sầu”:

“Lạc trong Đông-Kinh

Vừa khi mùa Thu gieo thương nhớ

Làm tôi ngẩn ngơ nhìn qua hồn thơ

Chiếc áo buồn… Kimono

Đôi thiên nga trong hồ

Cô Geisha trên bờ thiết tha trong mong chờ…”

Tứ bề thiếu hơi gió nên nóng bức khôn cùng. Giọng ca u hoài của anh như muốn vang lộng khắp nơi. Những du khách cắm trại trên núi len lén đứng nghe anh trình bày tuyệt khúc của nhạc sĩ họ Hoàng.

“Chờ ai xa xăm

từ muôn nẻo đêm mà chẳng thấy

Người đâu với cung đàn đang dở dang

Nhớ thương hoài theo thời gian

Tiếng Cô-tô khơi nguồn

Samusen não nề khi gió Thu về…”

Có lẽ, sang năm, nếu như anh vẫn không thể dứt tình với Xuân, anh sẽ hồi tục. Tánh tình anh quá ủy mị để có đảm nhiệm tốt vai trò một người Mục tử.

Một người khách nam tới mời Stephen Đoàn ăn bánh pía Sóc-Trăng và ngỏ ý muốn nghe anh ca một bài.

– “Thu trên đảo Kinh Châu” của nhạc sĩ Lê Thương. Bài này rất hợp giọng “Đại Hồ Cầm” của cụ Duy Trác.

– Bài gì lạ hoắc vậy?

– Nhạc Tiền Chiến.

– Tôi nghe toàn nhạc thời nay không hà.

– Vậy nghe không?

– Nghe. Mà giới thiệu xíu đi.

Stephen Đoàn vừa cất cái bánh pía vô cái túi áo trong vừa trình bày:

– Kinh Châu là một địa danh thời Tam Quốc Chí, nhạc sĩ Lê Thương mượn địa danh này để nói về sự ly loạn của thời cuộc và sự đổ vỡ trong tình yêu.

– Tại sao bài hồi nãy anh ca “Samusen” mà không phải là “Samisen”?

– Vì đó là lời gốc của tác giả.

Đêm cuối trên Cô Tô, nhóm Linh mục đến Vườn Lan thăm nhóm Tăng sĩ.

Chân Tâm và Thanh Liên đang ngồi mạng lại những tấm áo cà-sa của các huynh – đệ đã bị cây cỏ cào rách bươm. Ở đây không tổ chức Lễ Dâng Y – Kathina hằng năm, thường thì đúng một nhuận họ mới thực hiện Lễ trên. Ngay cả ngày Đức Bổn Sư đản sanh, đạt Đạo hay Niết-Bàn, họ cũng không làm gì để kỷ niệm hết; bởi lẽ, như Đấng Thế Tôn đã nói trước khi ra đi, cách tôn kính Ngài đúng đắn nhứt là thực hành y theo những gì mà Ngài đã thuyết và giữ nghiêm Giới-luật, cho nên những hình thức ngưỡng vọng thế gian đối với họ không cần thiết để thực hiện.

– Alleluia.

– Sadhu.

Hoàng Kỳ, Phá Vân và Thiện Sanh đang thi nhau chẻ những cây mục làm củi đốt sưởi ấm. Cơn mưa ban chiều đã khiến nơi đây lạnh lẽo và ẩm ướt khủng khiếp, không có lửa thì muỗi – mòng và cảm mạo sẽ tìm đến họ mất.

Đoạn Trần, Châu Lợi, Phú Lâm và Hỷ Tín thì ngồi thiền dưới tán cây-du già. Không có ai khỏe mạnh hết nên bữa nay họ được nghỉ làm việc.

– Trì Thương và Duy Hảo đâu? – Louis Quới vừa hỏi vừa trải chiếu.

– Cả hai đang đi kinh hành trong kia kìa.

– Còn thiếu Thủy Diệu nữa.

Phú Lâm bật cười:

– Nãy ảnh bị té nên quay về tịnh thất tắm rồi.

Thomas Tường hỏi:

– Ở đây có xài bột giặt và nước xả vải không?

– Có. – Phá Vân đáp thay.

Longiuns Kiến cắc cớ hỏi:

– Nhưng theo Giới luật thì không được xài hương liệu mà?

Thanh Liên lắc đầu cười:

– Phải, và tụi tôi làm vậy để giữ được y phục lâu hơn đặng khỏi cần sắm sửa đồ mới.

Augustino Dương hỏi:

– Nếu làm như vậy giữ được bao lâu?

– Khoảng đâu chục năm.

– Dữ vậy sao?

Thanh Liên phì cười:

– Cho nên tụi tôi không có tổ chức Lễ Dâng Y – Kathina hằng năm. Đồ còn mặc được thì bày vẽ làm gì.

Ignacio Cường và Stephen Đoàn đã bày xong bàn trà – bánh ở ngoài sân. Lúc này vầng trăng khuyết đã nằm chếch choáng sau đỉnh núi đằng xa, vài con chim lạc đàn hãy còn chao nghiêng đôi cánh mỏng trên nền trời nhuộm sắc tí́m huyền, dù vẫn còn sớm nhưng sao đã đặc rật trời.

Trước lúc bắt đầu cuộc đàm luận, dĩ nhiên bên phía Công Giáo sẽ đọc Kinh và làm dấu Thánh. Về phần Phật Giáo, chỉ có Thanh Liên và Chân Tâm là ngồi vào bàn; những người còn lại kiếm một góc ở xa mà ngồi.

Xong buổi Lễ, Matthias Hoàn hỏi Thanh Liên và Chân Tâm:

– Mấy cậu nghĩ sao về người chối Đạo?

Thanh Liên trả lời:

– Tôi có tình cờ quen một người qua mạng, người này tự nhận bản thân chỉ theo đạo đức chứ không theo Đạo nào, nhưng hành động lại mâu thuẫn với những gì đã giới thiệu. Cứ hễ Ma Tăng làm chuyện gì sai trái, người này viết bài đả kích rất hăng; nhưng hễ bên Công Giáo có làm điều chi không đúng đáng phải lên án, thì người này im ru. Ngoài ra, người này thể hiện lòng mến mộ Đức Chúa rất nhiều, và thích trích dẫn Kinh Thánh cũng như ca ngợi Cơ-Đốc; song lại không chịu đi rửa tội hay ghé nhà thờ.

Tôi không hiểu tại sao người này lại trốn lánh việc mình có theo Đạo như vậy.

Longiuns Kiến gật gù:

– Bên Đạo tôi cũng có hai câu nhắc về vụ này, ở “Khải Huyền – 3:15 và 3:16”.

Augustino Dương hỏi:

– Còn bên anh có chuyện gì mới mà đáng để suy ngẫm không?

Chân Tâm kể:

– Có một nữ thí chủ tình cờ đi ngang qua một khu chợ sầm uất thì thấy một vị Tỳ-Kheo đứng ôm y bát khất thực. Đã sắp tới giờ Thọ Thực mà trong y bát của thầy đó không có gì cả. Cổ bèn ghé chợ mua cho thầy một phần cơm mặn. Tới chừng cô trở ra thì thầy đó đã dợm bước ra về, cô phải chạy tốc lại mà dâng cơm cúng dường. Nhận được phần cơm của cổ, thầy đó có vẻ vui lắm…

Về nhà, cổ bị bịnh mấy ngày liền.

– Gì kỳ vậy? – Mấy ông Cha Dòng la lên gần như đồng loạt.

– Cổ bịnh vì cổ tức mà sanh tâm bịnh. Một người tu hành đàng hoàng chỉ nương nhờ nơi thiên hạ một bữa cơm thì không ai cho, còn bầy Ma Tăng hễ dỏng mỏ xin xỏ thứ chi thì con nhang ào-ào tới làm theo và nuôi cho mập thây. Cổ thấy được sự Vô Minh mà Đấng Thế Tôn đã từng đề cập tới trong Kinh Điển nên đau đớn phát bịnh.

Thanh Liên tiếp:

– Rồi không hiểu tại cớ làm sao, ngày cuối cùng cổ đã có một giấc mơ như vầy:

Cổ mộng thấy mình đi lạc vô một con đường rừng hoang vắng, trên người cổ ăn bận như phái nữ thời Ấn Độ cổ đại và đi chân không. Cổ thấy từ đằng xa có một Tăng sĩ gầy yếu, già nua đang chậm rãi đi khất thực. Cổ muốn phát tâm cúng dường, nhưng ngó xuống thì không thấy tiền mà ngó quanh đây cũng không có hàng quán nào. Đang lúc bối rối, cổ ngửng mặt lên thì thấy vị Tỳ-Kheo đó đã cách mình còn mươi bước nữa mà thôi. Thì bỗng dưng, trên tay cổ bỗng hiện ra một phần cơm nóng hổi. Cổ mừng quá mới sấn tới cúng dường. Chừng lại gần rồi cổ mới nhậnra đó là Tôn giả La Vân Châu. Cô khóc quá trời khóc vì vui mừng.

Và rồi, xuyên suốt con đường ấy, cổ đã lần lượt gặp được chín đại đệ tử của Như Lai và cúng dường cho chín người. Cổ vẫn nhớ như in lúc mà cổ dừng chân trước cửa hang động, nơi mà Tôn giả A-Nậu-Lâu-Đà đang ẩn tu, chứng kiến cảnh y phục của Ông vừa rách tả tơi vừa hết sức nhếch nhác, cổ đã tính vá áo cho Ông song nhớ tới Giới luật không cho phép nên thôi; và lúc đó Ông đã nhìn lại cổ bằng đôi mắt mờ đục với một nụ cười mỉm trên môi. Cổ nói cổ vẫn nhớ như in sự dễ gần và hiền hòa của Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, lẫn sự sợ hãi không dám lại gần vì ánh mắt quá đoan chính và uy mãnh của Tôn giả Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên và Ma-Ha Ca-Diếp.

Đợi cho Thanh Liên nghỉ xả hơi một đỗi, những người khách phương xa mới mời chàng Tỳ-Kheo nói tiếp.

– Người mà cổ không cúng dường là Tôn giả Ananda. Sau khi đi hết khu rừng, cổ nhìn thấy Tôn giả Ananda đứng trước một bên hàng rào của tịnh xá. Vì đây là người mà cổ quý mến nhứt nên cổ mừng lắm, thành thử bước chân đi gấp gáp hơn hẳn. Ông cúi đầu và chắp tay mà mỉm cười chào cổ, rồi chỉ tay vô tịnh xá… Đó tịnh xá Kỳ-Đà Viên… Và cổ đã tỉnh giấc…

– Vậy là cổ đã hết bịnh chỉ vì giấc mơ này? – Thomas Tường hỏi.

– Phải. Cổ bị tâm bịnh nên chỉ có liệu pháp tâm lý mới chữa được thôi.

Đức Trọng và Đình Nghĩa “chui” ra sau lùm sim dại. Dẫu đã được ánh trăng dẫn lối nhưng họ vẫn bị lạc đường mà đâm sầm vào lùm sim dại. Hoàng Kỳ và Phá Vân thấy vậy bèn lấy dao phát bớt vài lùm cây đang bấu lấy quần áo hai người đó để họ đi ra dễ dàng hơn.

Bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” cũng ghé đây chơi. Vì chỉ có Đức Hoàng khá giả nên một mình hắn đương luôn việc mua trà – bánh. Nguyên đám trải chiếu mà ngồi phía sau lưng hai người Đại Trưởng-Lão, do không có chơi thân với bên Công Giáo nên họ mới ngồi ở đây.

Châu Lợi đã đi kiếm Trì Thương và Duy Hảo từ nãy giờ. Sẵn đường ông đã gọi luôn Thủy Diệu và giờ thì hai người đang đi chung với nhau.

Augustino Dương hỏi:

– Anh nghĩ sao về Kinh Thánh?

Chân Tâm trả lời:

– Tôi nói thẳng luôn, tôi không cảm nhận được ý nghĩa và thông điệp sâu sắc của Kinh Điển bên anh, nên tôi không muốn bàn luận tới. Ngược lại, tôi cảm nhận được hai điều trên ở Ấn Độ Giáo nên tôi mới dành nhiều gian nghiên cứu nó và đem nó ra so sánh với Phật Giáo.

– Vậy anh có hiểu tại sao nhiều đền thờ Ấn Giáo lại có hình tượng nam – nữ giao hoan hay vũ nữ gợi cảm không?

– Vế đầu: Là nói về Âm – Dương hòa hợp làm một thể. Vế sau: Là những điệu múa tế Thần hay minh họa cho những tích truyện.

Thanh Liên giơ tay xin được ngắt lời. Chừng nhận được sự đồng ý của Chân Tâm, anh mới xây qua hỏi Ignacio Cường:

– Anh có đọc cái cuốn sách của cụ Bùi Giáng mà tôi đã giới thiệu cho anh không?

– Có.

Thanh Liên nghe xong, liền ngửng mặt tìm trăng, chừng nhìn thấy rồi mới quay lại nói với người tri kỷ khác Đạo rằng:

– Góc nhìn phương Tây đã giết chết triết học phương Đông. Trong con mắt người hiện đại thì đó là sự cấm kỵ và không nên lộ ra, trong con mắt dân xứ Ấn cổ đại đó chỉ là cách họ lưu lại về Kinh Phệ-Đà và những câu chuyện truyền miệng mà thôi.

Tôi may mắn được quen một người bạn Ấn Độ Giáo rất am tường kinh điển và truyền thuyết bên ảnh. Ảnh nói cho tôi biết cách sắp xếp đoàn vũ nữ trong tranh kỳ thực tạo ra hình dạng các con thú; và đôi lúc hình ảnh con thú kỳ thực là những người vũ nữ. Thí dụ như thay vì vẽ luôn con thỏ, thì họ lại vẽ các vũ nữ sao cho khi xếp lại cạnh nhau thì ra hình con thỏ.

Matthias Hoàn cười phá lên:

– À… à… hiểu rồi… Là nghệ thuật tranh trong tranh.

Thanh Liên chắp tay mà gật đầu xác nhận. Đoạn nói:

– Mắt người đương đại thường thấy vũ nữ ăn mặc khêu gợi và nhảy múa đầy nhục cảm trước tiên, sau rốt một hồi định tâm mới thấy được hình dạng con thú ôm vòng lấy đoàn vũ nữ hay vũ nữ đó.

Ngoài ra, họ còn thích vẽ con thú lồng trong con thú nữa hay một vị Thần có các bộ phận được xếp thành từ muông thú, thí dụ như hai tai là hai con bươm bướm, cái mũi là con kỳ đà, bộ râu là hai con cá ngát,… chẳng hạn.

– A…

Phú Lâm lên tiếng:

– Ấn Độ cổ đại đã phát triển được nghệ thuật tranh trong tranh từ rất lâu rồi. Mà phần đông tác phẩm toàn là điêu khắc trên bề mặt cứng mới ghê, sai một nét là phải bỏ luôn.

Augustino Dương bật ngón cái, đoạn hỏi:

– Còn về vấn đề Âm – Dương giao hòa là sao anh?

Chân Tâm đáp:

– Bản thân Ấn Độ Giáo có cách sắp xếp hình tượng các vị Thần rất hay. Tỷ như Chúa Brahma là đại biểu cho “Sáng tạo” thì phải có người vợ là “Kiến thức” đi kèm, vì giỏi sáng tạo cách mấy mà không có kiến thức thì sản phẩm đó không bao giờ được thành hình. Rồi Chúa Vishnu là “Bảo hộ” thì bên cạnh là Ngài là “Phú quý”, vì muốn có sự bảo hộ thì phải có sự phú quý và nếu có sự phú quý mà không có ai bảo hộ thì mọi thứ cũng sẽ tan tành thôi. Và Chúa Shiva tượng trưng cho “Hủy diệt”, đương nhiên Ngài cần “Sự sống”; hai điều này phải bổ trợ lẫn nhau thì Trái Đất mới được yên bình, thịnh cái này – suy cái kia quá cũng không được. Họ đã có cái nhìn rất sâu sắc về việc “Âm – Dương giao hòa” từ trước thời điểm Đức Jesus Christ giáng sanh rồi.

– Vậy tại sao lại có chuyện Thần nửa nam – nửa nữ hay có biến thân là nữ?

– Có nhiều khía cạnh đàn ông không thể nào làm được đâu, do đó họ cần xuất hiện trong trạng thái bản thể Nữ hoặc là song tính luyến ái.

Thomas Tường hỏi:

– Có nơi đâu mà Phật – Ấn giao thoa hôn mấy cậu?

Lần này Thanh Liên và Chân Tâm để cho đồ đệ của họ trả lời. Và người nhận phần là Thiện Sanh:

– Ngôi đền “Jetavanaramaya” bên Tích Lan, bên trên bức tượng Đức Bổn Sư đang nằm là các vị Chúa – Thánh – Thần Ấn Độ Giáo. Xung quanh đền cũng có vô số bức tượng Thần Linh Hindu.

Thanh Liên cười hỏi:

– Còn thiếu chi tiết nào nữa không?

Thiện Sanh gãi cái đầu trọc lóc một thôi một hồi mới vỗ đùi cười lớn:

– À, ở đó cũng có những hình tượng vũ nữ bán khỏa thân nhưng không những tạo ra hình dáng con thú mà còn là hình dáng cái bình ống loe nữa. Và ở đây có một cái bảo tháp rất lớn song không ai vô bên trong được vì có vẻ người xưa không có xây hay đã bịt kín hết lối đi rồi.

Thanh Liên lại cười hỏi:

– Tác phong của anh nãy giờ anh thấy sao?

Thiện Sanh cúi đầu gãi-gãi mũi, ra vẻ mắc cỡ lắm. Làm ai nấy được một phen cười đã đời.

Thomas Tường vừa lau nước mắt vừa cười tươi mà hỏi:

– Vậy Tăng sĩ phải có tác phong ra sao hả mậy cậu?

Chân Tâm trả lời:

– Một là ngồi xếp bằng, hai là ngồi quỳ gối, và ba nếu ngồi trên ghế thì phải ngồi khép chân hết mức có thể – có thể du di ngồi hơi chàng hảng nếu cấu trúc xương bị dị tật hoặc một hay cả hai chân đang bị đau hoặc bị thương. Tuyệt đối không được ngồi ngả ngớn, quàng tay ra sau ghế làm điểm tựa đỡ đầu hoặc gác một hay cả hai chân lên ghế. Khuyến khích ngồi trên tọa cụ hình vuông nho-nhỏ, không khuyến khích ngồi trên chiếu trải hay bạt như vầy. Ngoài ra, khi ngồi không được múa Apsara…

Chưa nói hết câu mà Chân Tâm đã khiến mọi người cười thêm một chập.

– … tức là vung chân múa tay, con mắt đảo lia đảo lịa hơn Thần Bài Macau, cũng nên hạn chế làm Tôn Ngộ Không, ăn nói liến thoắng y Eminem và cười giống Sở Khanh hay Bùi Kiệm. Tốt nhứt nên để hai bàn tay đặt sấp lên hai đầu gối hoặc đan vào nhau mà để gần vùng bụng dưới hay mượn hai bên đùi làm điểm tựa để gác đôi tay đang đan vào nhau.

Augustino Dương nhếch miệng cười khổ:

– Nói thiệt đừng giận chứ mấy ông sư thời nay sao tôi thấy lãnh hết mấy điều cấm kỵ trên.

Đoạn Trần gật đầu:

– Bởi vì họ chỉ mượn áo nhà sư để kiếm tiền chứ họ đâu phải là Sa-Môn của Cồ-Đàm. Đây là những điều mà một Sa-Di đã được học rất kỹ và phải trui rèn hằng ngày. Quản chế tác phong và nhiếp định hơi thở là hai trong rất nhiều việc mà một người tu hành phải giữ gìn tới chết.

Thanh Liên quay qua hỏi Ignacio Cường:

– Còn nhớ tôi nói gì không?

Ignacio Cường lắc đầu.

Thanh Liên lặp lại:

– Tôi nhớ hoài, nhớ mãi cảnh phim đạo diễn để cho Công-chúa Da-Du-Đà-La gục đầu trên đùi Đức Phật mà khóc tức tưởi, như thể đang dùng nỗi luyến ái để níu Ngài trở lại trần thế. Và rốt cuộc, sự ấy bất thành, và người bị cảm hóa là Bà, Bà đã theo chân Ngài mà trở thành một trong những Tỳ-Kheo Ni quán xuyến Ni-chúng xuất sắc.

– A, nhớ rồi.

Longiuns Kiến không muốn nhắc tới chuyện của Stephen Đoàn nên hỏi lảng sang chuyện khác:

– Các vị nghĩ sao về việc luận giải kinh điển?

Chân Tâm trả lời:

– Có nhiều người ngoại Đạo lẫn không có Đạo nào hết cứ hễ luận giải hay phân tích Phật Giáo là lại đem mấy cái clip giảng Pháp tào lao của Ma Tăng ra nói. Kinh Phật đâu có nằm trong miệng Ma Tăng mà cứ vin vào chúng để bài xích và nói năng nói nhẹ Pháp Phật. Muốn phân tích hay luận giải, xin hãy đem kinh điển chánh thống ra mà biện bác.

Trì Thương tiếp lời:

– Thay vì tốn hơi nhọc sức vào Ma Tăng, thiết nghĩ nên dành thời gian đó mà đi tìm đọc Theravada và kinh điển Đại Thặng.

Augustino Dương cười mà như mếu:

– Nhưng mà nghiệt ngã ở chỗ người ở xứ này đa số thích coi Ma Tăng nói tào lao để tìm niềm vui cho bản thân, còn kinh điển bên các vị thì họ đâu có ngó ngàng tới…

Trì Thương cười biểu:

– Cho nên mới có cái chuyện viết bài vạch mặt Ma Tăng mà đưa ra dẫn chứng cũng tào lao và tầm bậy không kém Ma Tăng.

Thanh Liên ôn tồn nói thêm:

– Đức Phật có một lời khuyên rất hay, mà tôi xin nói vắn tắt là “Pháp Tứ-Y – Catvarti Pratisaranena”. Đây cũng là câu trả lời mà các ông đang tìm kiếm từ tụi tôi hằng bao lâu nay.

Chân Tâm hỏi:

– Câu hỏi này sẽ khiến tình nghĩa đôi bên chấm dứt tại đây…

Nhóm Kitô Hữu đã sẵn sàng đáp-biện.

– Nhiều người nói Ấn Độ theo Ấn Độ Giáo nên mới nghèo và lạc hậu, vậy tại sao Phi Luật Tân phần đông theo Cơ Đốc mà đất nước chưa phát triển nhiều?

Những người Thầy Dòng im lặng.

– Đối với tôi, theo quan điểm cá nhân của tôi, tôn giáo đừng nên liên quan chánh trị hay mượn sự thạnh vượng của quốc gia để tô bóng vẻ ngoài của mình. Sự thạnh vượng của quốc gia hầu hết đến từ sự tài trí của nguyên thủ và cấp dưới của người đó; tôn giáo chỉ bổ trợ và dẫn dắt về mặt đạo đức mà thôi.

Và hơn nữa, biểu đồ hình tròn chia tỷ lệ theo Đạo của dân Ấn Độ có hai khung chiếm nhiều nhứt: Một là Ấn Độ Giáo và Hai là Hồi Giáo, hai tôn giáo này chiếm gần như trọn biểu đồ hình tròn. Cho nên chỉ đổ lỗi cho một mình Ấn Độ Giáo thì đó cũng là một cách nhìn rất phiến diện.

Thanh Liên tiếp:

– Có nhiều người nói theo Hồi Giáo nên đời sống nhân dân mới loạn lạc và lầm tham, hình như họ đã quên các Tiểu Vương Quốc Ả-Rập Thống Nhứt, nhứt là Dubai, thì phải?

Chân Tâm kết thúc cuộc tranh luận bằng cách để cho Duy Hảo lặp lại lời nói hôm nào:

– Một quốc gia cuồng tín luôn bạo loạn, và một quốc gia có đức tin đúng chừng mực luôn yên bình. Cho nên không phải quốc gia nào có quốc giáo thì con người ở đó sẽ hiền lành và tốt bụng đâu.

Longiuns Kiến gật đầu:

– Hãnh diện và bảo vệ đức tin của mình đó là lẽ dĩ nhiên ở những người có Đạo, nhưng đừng tự biến mình trở thành một người cuồng tín và không chịu học hỏi thêm từ các tôn giáo khác.

Stephen Đoàn không theo nhóm của mình về nghỉ mà lại đi lang thang một mình. Trưa mai anh sẽ về Giáo xứ và giã biệt với sự tĩnh lặng và hơi rừng thanh thản. Những gót chân của anh đạp trên thảm lá dày, có lúc lá còn tươi xanh, và có khi nó đã héo rũ thành bùn. Sương mờ đã phủ vây khắp chốn. Những con cú ăn đêm có mặt ở khắp nơi, từng tiếng kêu não nề của chúng cứ thể đầy tràn không gian. Anh tự nhiên nhớ tới ca khúc “Thất Tông Tội – Seven Sins” do Fancy trình bày, một ca khúc mang nhiều ý nghĩa và hết sức khó phân tích; tới tận bây giờ, anh vẫn không hiểu nhân vật trong bài hát có thoát được cám dỗ của Satan để không bị vướng vào tội lỗi cuối cùng không? “Những gì mà ngươi mong cầu đều sẽ được thực hiện, nhưng đổi lại linh hồn của người sẽ bị thiêu đốt.”

Rồi có lẽ vì quá khổ tâm, Stephen Đoàn vừa đi vừa hát “When Guardian Angels Cry”, mà anh đã từng nghe qua giọng ca của Fancy. “Mặt trái của Tình Yêu luôn ẩn giấu trong bóng tối. Và những giọt nước mắt sầu bi sẽ đến cùng với Nó.”

.oOo

Đêm nay, cũng như nhiều đêm khác, Martin Cảnh đi khám nghiệm tử thi và xét giấy chứng tử cho người ta. Bữa nay có một vụ đụng xe kinh hoàng bên Quận Hai; số ca tử vong lên đến ba người, hai nạn nhân đang trong tình trạng nguy kịch và ba nạn nhân khác chỉ cần ở lại theo dõi tình trạng sức khỏe là ngày mốt có thể ra về. Người nhà của các nạn nhân gào khóc và la hét ầm ĩ; và dù chưa rõ đầu cua tai nheo ra sao, ai nấy đều đã lao đầu vào cấu xé và đổ lỗi, bảo vệ phải ráng sức can ngăn nhưng vẫn xảy ra ẩu đả. Anh không có mặt ở đó song vẫn chưa mường tượng được khung cảnh hỗn loạn trên; vừa lấy dao rọc phần bụng cái xác nam giới chết do ngộ độc rượu pha cồn, anh vừa nghĩ như thế. Bên bàn bên cạnh, cô bạn đồng nghiệp kiêm luôn nghề trang điểm cho tử thi đang vẽ mặt cho một cô gái vừa lìa đời do băng huyết lúc sanh con; dẫu người nhà đã vuốt mắt và nhắn nhủ vài lời trấn an, nhưng hình như hương hồn của cô vẫn còn lưu luyến trần thế nên sắc diện thể hiện rõ sự không cam tâm và uất hận.

– Anh Chiêu.

– Chi My?

– Có thuốc nào làm giãn cơ mặt tử thi không? Cái mặt của cổ coi thấy sợ quá anh…

– Để lát nữa tôi qua coi thử. My tắm rửa và bận đồ đẹp cho cổ trước đi.

– Dạ.

Đáp rồi, Thảo My kéo màn che lại để tiện bề tắm cho cái xác. Vì ám ảnh với cái chết của bạn gái nên ảnh không thích nhìn những cái xác nữ còn nguyên vẹn lõa lồ. Vừa làm, cô vừa ca nho-nhỏ một bài hát tân thời có phần lời sáo rỗng cốt để phân tâm hòng không chú ý tới vẻ mặt đáng sợ của sản phụ kia. Cách một tấm màn, hết vang lên tiếng cưa rồi lại tới tiếng đục; mùi thúi do nội tạng bị trúng độc mà sanh thối-rữa bao trùm cả gian phòng, làm cho cô bụm miệng nôn trớ mấy lần.

“Cạch.”

– Chưa xong nữa hả pháp y Cảnh?

Người đến là bác sĩ Lưu, anh cùng với một người bảo vệ đẩy cái xác xuống.

– Xác của ai nữa đây?

– Ông già bán vé số. Bên phía cảnh sát coi máy ghi hình của gia chủ thì thấy ổng chết là do đụt mưa dưới hiên nhà rồi xui sao trúng gió “đi luôn”.

– Ổng có người thân không?

– Có, họ nói hiến xác luôn…

– Tại hổng có tiền chôn cất chớ gì?

– Ủa sao anh biết hay vậy?

Martin Cảnh nhếch miệng cười. Hai tay anh dính đầy phẩn dơ và máu huyết còn sót lại của người đã khuất. Dẫu đã đeo găng tay rất dày mà vẫn cảm nhận được sự nhơ nhớp đó.

– Bên Đại Học nhờ mình làm thủ tục lẹ-lẹ để họ đưa vô tiết thực hành cho sinh viên.

– Ừm… Độ rày ít có tiêu bản “tươi rói” và còn “nguyên-xi” như vầy lắm. Nhưng cũng phải coi người ta chết thật hay là bị chết lâm sàng không đã.

– Ủa mà bảo vệ đâu rồi?

– Tui đi ói rồi…

Bác sĩ Lưu đứng ngó về phía nhà vệ sinh nằm ở cuối hành lang mà cười ha hả, đoạn nói vọng xuống:

– Yếu dữ vậy?

– Hôi chết mẹ ai mà chịu cho nổi. Mới mở cái cửa ra là muốn “Li-vơ-phun” rồi.

– Rồi khỏe chưa?

– Để tui ói chút nữa đi rồi lên.

– Nhớ súc miệng nha? Cái miệng của ông cũng giống y chang cái xác này đó.

Không nghe bảo vệ trả lời nữa, chỉ nghe anh ta gọi “Huệ” một cách vô cùng trìu mến và da diết.

– Cha nội này mới vô làm mà anh nỡ lòng nào đưa chả vô đúng giờ làm việc của tôi?

– Cho chả quen. Còn không quen thì nghỉ đi.

Trần Cảnh Chiêu lấy những chiếc kim cố định hai bên da bụng để nhìn rõ bên trong hơn. Trái tim vẫn còn tốt, nếu chịu hiến tạng thì hay quá. Còn bộ đồ lòng thì coi như xong. Kế xuống tới vùng “Đường vào tình sử”, không có gì hư hao. Rồi xuống tới “Vùng đất cấm”, mới ngó tới ổ ruột, anh đã nôn lên mấy tiếng thảm sầu.

– Sao tới phiên anh ói rồi Chiêu?

– Chả chưa “xổ ruột”.

Bây giờ tới phiên bác sĩ Lưu rợn cổ.

– Phải làm sạch hả?

Martin Cảnh gật đầu.

– Ông ói xong chưa? Tới lượt tôi đi ói cái.

– Trời ơi, ói mà cũng giành nữa?

– Đi lên giùm con đi mấy cha.

Cửa phòng vừa khép lại, Martin Cảnh buông xuống một tiếng thở dài rồi mệt mỏi lại quầy đựng dụng cụ mà lấy đồ rửa ruột và muỗng múc phẩn dơ; trước lúc bắt tay vào làm, đương nhiên phải sát trùng dụng cụ một chập. Anh muốn người ta về với người thân thơm tho – sạch sẽ nhứt có thể nên chấp nhận lãnh hết phần dơ dáy và hôi tanh cho mình.

Thảo My đang cài lại nút áo cho sản phụ. Cái áo đầm này là món quà đầu tiên mà chồng cô mua tặng cho cô, tuy rằng hơi chật phần bụng một chút nhưng mấy chỗ kia thì vừa. Ý là đã giúp cô “xì-hơi” mà vẫn không giúp bụng cổ nhỏ hơn là bao.

– Anh ăn gì chưa anh Chiêu?

– Chưa cô.

– Vậy chắc tôi với anh nhịn đói chung luôn.

Martin Cảnh tỉ mẩn múc từng muỗng một. Anh đã đổi sang găng tay mới và thay luôn khẩu trang. Khẩu trang nào cũng được anh tẩm một chút tinh-dầu bạc-hà để át bớt mùi tanh. Nhưng cũng giống như vừa đi cầu vừa xức dầu gió, cái mùi nào nặng hơn thì nó sẽ đè bẹp mất mùi kia.

– Người nhà đòi lấy xác gấp hay sao mà anh vừa khám nghiệm xong đã vệ sinh xác rồi?

– Ừ. Mấy cái ca tự chết và có bằng-chứng chứng-minh tự-chết như vầy làm lẹ lắm. Coi đúng với kết quả ở trên thì tiến hành xác nhận rồi vệ sinh thôi. Nhưng mà cũng phải tới sáng mốt mới trả xác được.

Vả lại, phần ruột chứa đầy phân như vầy không làm sạch là không được đâu…

– Dạ.

Thảo My chợt cười khúc khích:

– Anh còn dám ăn thú linh không?

– Còn.

– Tôi thì chắc sẽ nghỉ ăn một năm.

– Cô mới vô nghề nên nói vậy, chứ chừng vài năm là cô sẽ ăn tỉnh rụi như thường.

Thảo My xin phép đàn anh cho mình đi tắm rửa cái xác ông già bán vé số trong lúc đợi anh qua làm giãn cơ mặt của sản phụ.

Vừa đẩy cái xác của ông già đáng tuổi ông cố mình đến khu vực tắm rửa, Thảo My vừa lẩm bẩm tụng “Chú Vãng Sanh”. Hồi ông cố mất, cô còn nằm trong nôi nên không biết mặt mũi ngoài đời ông ra sao; thành ra mỗi khi thấy ông nào trạc tuổi ông cố cô thường quan sát rất lâu, cốt để hình dung ra thuở sanh thời ông như thế nào. Trước lúc bắt tay vào việc, cô bỏ găng tay và khẩu trang cũ vào thùng rác, không quên đi khử trùng đôi tay thật sạch sẽ rồi đeo găng tay và khẩu trang mới.

Phải đến bốn giờ sáng, Martin Cảnh mới làm sạch xong cái xác “ma men”. Anh ra ngoài uống nước một lát trước khi trở vô tìm cách làm giãn cơ mặt của nữ tử thi. Cái mùi cơ thể của anh y hệt như mùi cương thi đời nhà Thanh, thành thử anh phải gọi điện thoại nhờ bảo vệ đi xuống căn-tin mua giùm anh ly cà-phê đen đá cỡ lớn ít đường và cây xúc-xích nhỏ. Trong lúc chờ đợi, anh ngồi bệt dưới sàn nhà và săm soi đôi bàn tay đã được khử trùng kỹ càng của mình.

Người bảo vệ mới vô làm sợ bị mích lòng mà mất việc nên cắm đầu cắm cổ thi hành mệnh lệnh.

– Ủa? Sao mặt mày trẻ măng vậy? Tưởng đâu phải ngoài bốn mươi mấy rồi chớ?

– Ừ, tại yêu nghề nên học sớm, với lại thiếu người nên được đặc cách nhảy vô luôn.

Martin Cảnh đưa luôn tiền dư, không quên cảm ơn anh ta một tiếng. Dẫu chỉ nhận ít bạc lẻ, nhưng người bảo vệ này đã mừng ra mặt.

– Tối giờ có ăn gì chưa?

– Có, ăn cơm nhà rồi mới vô làm, anh.

Martin Cảnh cho luôn tiền đi ăn sáng, và dặn trước không phải ngày nào anh cũng rủng rỉnh để mà đãi cơm đâu.

Vừa ăn xúc-xích vừa uống cà-phê, đó là cái công-phu mà cái nghề pháp y đã dạy cho Martin Cảnh. Thói quen này anh bị mấy ông bác sĩ la hoài vì rất có hại cho bao tử, nhưng anh đâu có thời gian rảnh để mà nhai xong rồi mới uống? Người chết thì cả đống, mà pháp y thì lẹt đẹt được chục người, mà lại còn thay phiên nhau nữa chớ?

– Anh Cảnh…

– Tôi xong rồi, cô My. – Nói đoạn, Martin Cảnh lấy khăn giấy lau miệng.

– Cổ trợn mắt lên dòm tôi nãy giờ.

Martin Cảnh chưa kịp lên tiếng đã nghe Thảo My tiếp lời:

– Tôi học ngành Y đàng hoàng nên tôi biết hết các “phản-ứng” có thể xảy ra của một cái xác. Nhưng lần này lạ lắm…

– Cô về trước đi. Tôi vô vuốt mắt cổ một lần nữa.

Trước lúc về nhà, Thảo My đem nhang ra đốt: Cô đặt ba cây nhang lên đầu nằm của sản phụ rồi chắp tay xá lấy xá để. Martin Cảnh che mặt lắc đầu.

Đợi cho cô rời khỏi phòng, Martin Cảnh mới bắt tay vào việc. Anh đã thử đủ mọi cách mà các thầy đã dạy anh nơi giảng đường, nhưng vẫn không sao làm cho sắc diện của cái xác trở nên dễ coi hơn. Thêm nữa, sản phụ chỉ chịu nhắm hờ mắt chứ tuyệt nhiên không chịu khép lại hoàn toàn. Hết cách, anh đành chắp tay xá một cái rồi bỏ qua giường khác; có thể, thân nhân của cổ sẽ giúp cổ chịu nhắm mắt xuôi tay mà về cõi vĩnh hằng.

Làm thêm chừng hai tiếng nữa, Martin Cảnh mới yên tâm ra về.

Thảo My để lại cho Martin Cảnh một gói kẹo Mỹ tên là “Mini Starburst” màu hồng đa sắc rất đáng yêu; có lẽ đây là quà tặng cảm ơn của cô em đồng nghiệp.

Ngoài đường đã sáng bảnh mắt, nơi tầng hầm vẫn xài đèn điện để thắp sáng, thành thử khi tới bãi giữ xe để lấy chiếc xe của mình – Martin-Cảnh đã bị chói mắt, anh phải nheo-nheo một hồi mới quen dần với luồng ánh sáng cao xanh kia. Và cũng biết mùi cơ thể của mình rất hôi nên anh trả tiền giữ xe lẹ-lẹ rồi mau chóng dắt xe ra khỏi cổng Cuộc Pháp-Y.

Đường xá đông như mắc cửi. Chiếc xe thời Bàn Cổ của anh vừa chạy vừa rú om sòm, có lẽ sang năm anh sẽ đổi xe khác. Một chiếc xe chở nước mắm đã giúp anh “ẩn thân”, những người chạy gần anh tưởng đâu mùi hôi nồng mũi nãy giờ là do thằng quỷ tài-xế gây ra nên anh đỡ bị người ta dòm ngó bằng ánh mắt khó chịu.

Sau hơn tiếng mấy ruổi rong và luồn lách trên những con đường đông nghẹt, Martin Cảnh cũng toàn mạng về đến nơi ở trọ. Đây là nhà của vợ chồng thầy anh, tức Bạch Lãng và Phạm Đình Vân. Phạm Hải và Triệu Kiếm Phong thì ở tầng trên; dù biết Phạm Hải ưa giỡn nhây nhưng chàng pháp y vẫn không tài nào chấp nhận được mấy trò đùa động chân – động tay, thành ra cứ hễ cậu ta có mặt ở nhà là anh lại trốn trong phòng hay đi ra ngoài, nhờ vậy bây giờ cậu ta mới thôi làm mấy cái trò đó với anh.

– Mới về hả anh Cảnh?

Là Phạm Hải. Thằng chả sợ bị chửi nên chỉ dám đứng trên lầu nói vọng xuống.

– Ờ.

– Anh Phong đi làm tối qua có mua cái bánh pate-chaund với hủ-tíu Nam Vang và hủ-tíu gà ăn kèm pa-tê; anh muốn ăn cái gì thì xuống tự hâm nghen?

– Cảm ơn.

Vừa đóng cửa phòng cái sột, Martin Cảnh liền lột hết quần áo ra rồi soạn đồ đi tắm. Do tính chất nghề nghiệp nên anh mua luôn hai cái máy giặt: Một dành cho quần áo thường ngày và một dành cho đồng phục ở sở làm; đồ thường thì anh phơi ngoài sào, còn đồ Y thì anh xài máy sấy rồi đem đi phơi thêm vài nắng cho chắc ăn. Trong phòng anh lúc nào cũng có nước xịt phòng, viên xả vải làm thơm và tẩy sạch trang phục, bột giặt loại thượng hạng giữ được mùi hương lâu tận một tuần và thuốc tẩy làm sạch giày – dép.

Trước lúc đóng cửa phòng tắm, Martin Cảnh xịt chai “Febreze Air – Mist: Refresh and Energize” khắp phòng; mùi này là hoa cam-trắng, rất dễ chịu và không quá nồng. Số chai này là quà mà bà Ái Liên tặng cho anh thay lời cảm ơn đã đưa đồ giùm con trai bà. Ngoài ra, bà còn tặng anh nước xịt vải nữa, chút xíu anh sẽ xịt lên giường nằm và màn cửa cho thơm phòng.

Chừng đâu một tiếng rưỡi, Martin Cảnh mới gột rửa thân thể xong. Sẵn đang rảnh nên anh cạo luôn râu và da mặt, cũng như lấy máy xỉa răng bằng tia nước làm sạch khoang miệng. Kể từ ngày vào ngành Pháp Y – Pháp Chứng, anh biết xài lăn khử mùi; mặc dầu đã mua loại “Calvin Klein”, nhưng sau mỗi ca làm “Châu vẫn về hợp phố”. Về các loại sản phẩm khác trong nhà tắm, anh chuộng thương hiệu “Old Spice” và “Irish Spring”.

Bữa nay anh chọn nước xịt vải “Febreze Fabric – Unstopables Touch: Spray Breeze”, mùi này thể theo dòng sản phẩm xả vải của hãng “Downy”, rất sang trọng và thơm dai. Loại mà anh đang xịt rất dễ gây hư chất vải, nhưng bởi cái tánh không câu nệ tiểu tiết nên anh không bận tâm, miễn thơm và khử trùng là được rồi.

Kế, anh xuống nhà sau lục coi có cái gì ăn được không.

Phòng anh cách nhà bếp một khoảng sân bé con. Do vậy anh mắc dây-sào phơi đồ rất thuận tiện. Hôm qua bị gọi lên Cuộc khẩn-cấp nên anh quên phơi đồ, chắc giờ đống đồ thường ngày đã bị thâm kim hết rồi.

– Ủa?

Có ai đã phơi hết đồ của anh. Dòm qua cách máng là biết liền Phạm Khải; tuy đầu óc hơi tưng-tưng nhưng bù lại rất khéo tay và kỹ tánh. Nói cho tâm phục – khẩu phục, thì cậu này luôn treo đồ lót ở hướng nắng nhiều nhứt, kế đó là quần và sau rốt là áo. Khô bong rồi, lát anh ăn xong sẽ gom đồ vô.

Má nuôi của Phạm Hải là người Tiều, tên là Hoàng Ái Vân, đứa con trai của bà là Mộ Khuynh Chiêu là người đồng tính nên không có con cái chi sất. Hiện nay bà sống với gia đình đứa cháu nội Mộ Dĩ Hoàn bằng nghề bán quán cơm. Trước đây bà sống cùng đứa cháu nuôi Phạm Hải, sau này nhận thêm đứa nữa là Triệu Kiếm Phong, tức Hác Đăng Khôi – Con trai ruột của Tổng thống Khánh (nhưng thể theo ý của cố Tổng thống Bàng Đông Quân nên gã có tên là Vũ Quân). Mà người chồng đã mất tích của bà, tức Mộ Duyệt Chiêu, cũng có liên quan tới “Thảm án Hai Mươi”; nghe đâu đã bị trừ khử do để lộ bản thân là cảnh sát chìm.

Dù lâu-lâu mới có cuộc sum vầy nhưng vợ chồng Vân – Lãng vẫn sắm bộ bàn ăn có hai mươi chỗ ngồi, do đó ngày nào cũng phải để rô-bốt mini hút bụi dưới gầm. Qua khỏi “phòng ăn” là tới liền quầy bar tại gia, nơi đây trưng bày rất nhiều rượu: Quý có mà chỉ có mã bề ngoài cũng có. Gian bếp nằm sau hai khu này, bên ngoài còn có một sàn nước lộ thiên rất rộng rãi. Và bởi nhà hay có khách, thầy Lãng sắm tới hai cái tủ lạnh nhiều cửa và một cái tủ cấp đông để trữ đồ; thường thì đồ ăn hâm lại sẽ cất ở cái tủ lạnh nhiều cửa có số đánh dấu là Một, và quả nhiên là như vậy, vừa mở ra Martin Cảnh đã thấy những món mà Phạm Hải giới thiệu với mình, sau một hồi lựa chọn, anh quyết định ăn hủ-tíu gà với pa-tê.

Vừa hâm hủ-tíu, Martin Cảnh vừa soát điện thư. Hộp thư của anh có đủ thể loại nhắn tin đến, cũng may thời buổi công nghệ tân tiến nên “nó” tự động sắp thư của anh vào đúng trương mục, cho nên anh lọc thư rác rất mau và không sợ bị lạc thư quan trọng. Vẫn còn vài bức anh chưa gởi đi, có thể ngày nào được nghỉ thì anh mới viết nốt đặng hồi âm cho người ta…

Trở về phòng vào lúc gần mười giờ, hương thơm ban nãy đã bay biến đi mất, thay thế nó là mùi hủ-tíu và nước-tương tỏi – ớt. Anh lẹ tay đặt xuống cái bàn gấp rồi đem cái điện thoại đi sạc; ổ cắm nằm ở kế bên, anh chỉ cần day qua trái là xong. Bữa nay anh để cái bàn gấp hướng ra cửa sổ để ngắm những chùm phượng vĩ cuối Hè; nhà này ở ngay đầu hẻm, cửa sổ phòng anh trổ ra con đường hẹp té nhưng vẫn được hưởng sái rất nhiều bóng cây từ ngôi nhà bề thế nằm ở phía đối diện, ai quạu vì cây đổ lá rơi không biết, chứ riêng anh thì yêu mến điểm này vô cùng. Vào mỗi đêm Rằm Trung-Thu, nhà hàng xóm sẽ chăng đèn – kết hoa lên trên đó; anh như nghe tuổi thơ đang ruổi ngựa tìm về, nào là sao rụng bên hè, nào là tiếng hát ngọng nghịu, và nào là “Tình thương nơi mái lá” yên ả lặng trôi.

Ăn đâu được vài đũa hủ-tíu, Quý Tâm gởi cho anh một đống tài liệu liên quan tới cuộc khám nghiệm hiện trường ở lò mổ heo bỏ hoang hôm bữa, làm anh hết còn hứng thú dùng bữa. Anh đẩy tô hủ-tíu còn ê hề sang một bên, rồi mở Laptop lên đặng coi cho rõ hơn.

Một tệp tin đã làm chàng Pháp y để tâm tới. Nó chứa đựng một đoạn băng ghi hình kỳ lạ, kể về hai người đang thảo luận với nhau về việc có nên lấy bối cảnh lò mổ heo làm địa điểm quay phim ma hay không. Tiếng nói của một trong hai người đó rất quen tai, hình như anh đã từng nghe đâu rồi thì phải; còn người kia thì thật kỳ lạ, cứ hễ Số Một quay sang chỗ khác là anh ta lại trưng ra vẻ mặt rất ghét bỏ và dường như đang ganh tỵ, nhưng hễ Số Một day lại là anh ta lại đổi sang sắc diện hòa ái như cũ. Phẩm chất của thước phim quá thấp nên Martin Cảnh không thể coi rõ hình tướng hai người…

Điện thoại của Martin Cảnh bất ngờ đổ chuông. Chưa kịp ừ hử gì hết đã nghe tiếng mắng chửi của ai đó vọng vào điện thoại và tiếng phân trần của ông Cuộc trưởng.

– Sao?

Ông Cuộc trưởng vô đề luôn:

– Người nhà sản phụ tới đây mắng vốn mình không lo cho con gái của họ. Chỉ còn hai ngày nữa là đem hạ huyệt mà giờ mặt mày chưa làm nữa. Đã vậy còn vạch con mắt ra coi cho đã rồi không chịu kéo lại giùm người ta.

– Kêu họ lại vuốt mắt đi. – Martin Cảnh vừa nói vừa bắt gió nơi ấn đường. – Nhờ họ nói giùm vài câu cho cổ yên tâm đi.

– Okay… Okay… Được thì qua giúp cái nghen?

Martin Cảnh ngó tô hủ-tíu mà thở dài thườn thượt. Đoạn mệt mỏi nói lời đồng ý. Ông Cuộc trưởng hẹn sẽ đãi anh một bữa ngon nếu giúp ông dẹp loạn ở đây.

Trước khi làm “tráng sĩ Kinh Kha”, Martin Cảnh lấy chai thuốc trị bịnh bao tử hiệu “Kremil-S” ra uống. Anh uống dạng nước cho mau thấm. Tô hủ-tíu kia lát về dọn vậy.

– Ủa đi làm nữa hả anh Cảnh?

– Ờ.

Không đợi Martin Cảnh nhờ vả, Phạm Khải đã ra đóng cổng giùm. Ở chung một nhà tới nay cũng đã năm mấy mà đôi bên vẫn mãi hát bài “Ngăn cách” của Y Vân.

Bụng đang đói quặn mà đi đâu mà Martin Cảnh cũng ngửi thấy mùi đồ ăn thơm phức. Dường như mùi nào cũng đang cù rủ anh vào quán đó dừng chân một lát. Nhưng nghĩ tới chuyện bị thất nghiệp, anh không còn tâm trí nào mà ở lại cả. Anh chạy nhanh hơn ngày thường một chút, lòng thầm khấn Đức Mẹ sẽ che chở cho anh thoát khỏi cơn họa vô đơn chí này.

“Tin…”

– Đ* má, bị đui hả mày?

Gã lơ-xe trạc tuổi Martin Cảnh chửi thề một tiếng, rồi đưa mắt ngó coi anh có bị trầy xước gì không. Chừng thấy anh toàn thây, gã mới day qua nói với ông tài-xế; cả hai thở phào nhẹ nhõm, nhưng trước khi chạy tiếp, cả hai đồng lòng chửi cái thằng ngu thêm một chập nữa.

Martin Cảnh làm dấu Thánh rồi chắp tay tạ lỗi với họ. Anh mà nằm dưới bánh xe của họ là coi như thêm mấy gia đình đi cạp đất ăn. Chân anh bị trật nhẹ, lát nữa nhờ ông Cuộc trưởng bẻ lại là êm.

– Trời đất ơi, sao đi về thẳng thớm mà đi tới xiêu vẹo rồi?

– Bị quẹt xe hàng.

– Bây cũng lựa xe để quẹt quá ha?

– Rồi, mấy người đó đâu?

– Ở dưới phòng nhận xác, trời ơi tôi điếc lỗ tai này giờ, mà qua bây với con My có banh mắt cô đó không?

– Banh làm giống gì ông nội? Coi mắt cổ màu gì hay là chi?

– Người ta chết oan chết uất quá mà…

– Có chuyện gì khuất tất phải không chú?

Ông Cuộc trưởng ra hiệu cho Martin Cảnh ngồi xuống ghế để ông nói nhỏ-nhỏ cho nghe.

Thì ra người mổ cho cổ là một bác sĩ tay mơ, nghe đâu là người nhà của khứa nào bên Bộ Y Tế, bữa đó ông phụ trách ca mổ bị té xe nên phải nghỉ vài ngày dưỡng thương. Cha nội này tài-lanh tài-lẹt nhảy ra đỡ đẻ, nhưng do không có nhiều kinh nghiệm ứng biến trên bàn mổ nên đã khiến sản phụ từ ngoắc ngoải sang đi luôn. Người nhà không hề biết chuyện này, chỉ nghĩ con mình không may gặp tai biến mà thôi.

– Giờ tôi giúp con nhỏ này thì người nhà tôi chết đói. Mà không giúp thì lương tâm cắn rứt. Theo cậu nên giúp hay là không?

Sau một bàn tính kỹ càng, hai người mới xuống gặp gia đình của sản phụ. Vừa biết Martin Cảnh phụ trách ca của con gái mình, ba má của cô đó thiếu điều muốn nhào vô cấu xé anh. Anh bình tĩnh mà nói với họ rằng có lẽ ca mổ có điều chi bất thường nên cổ mới không cam lòng mà ra đi. Người chồng tỏ thái độ bàng quan, khác hẳn với sự sừng sộ nãy giờ.

Ba của cô đó gật đầu:

– Được. Tạm thời tụi tôi sẽ dừng chuyện hạ huyệt nhỏ con.

Má của cô đó ầng ậc nước mắt ngắn dài:

– Trời ơi, hổng lẽ lại mổ nó ra nữa!

Martin Cảnh lắc đầu:

– Chưa chắc sẽ mổ lại…

Rồi thôi, tự nhiên chàng Pháp y sanh nghi ông chồng thông đồng với bác sĩ để mưu sát vợ mình hòng đoạt lợi chi đó từ cô này. Thành thử, anh không muốn nói rõ ràng.

Ở lại đàm luận với gia đình sản phụ gần hai tiếng hơn, Martin Cảnh mới được “phóng thích”. Nguyên đêm qua không ngủ, ăn uống bậy bạ được vài miếng, lại làm việc trong môi trường độc hại, giờ đây anh bị phát bịnh luôn. Ông Cuộc-trưởng đưa anh lên Phòng Y-Tế để anh lấy thuốc uống, rồi đưa anh đi ăn ở một quán nhỏ để anh bồi bổ cơ thể.

– Thằng bạn tôi đi Mỹ định cư nên đã để lại chiếc “Jeep – Grand Cherokee” bảy chỗ cho tôi với giá rất được.

– Xe Mỹ có khác, rộng rãi – khoảng khoát quá chừng.

– Bị một cái là quá trời hao xăng. Nhứt là xe cũ còn hao xăng bà nó nữa.

Quán này của bạn thân một người bà con bên vợ của ông Cuộc, diện tích chỉ độ năm mươi mét vuông, nhưng do bán đắt nên gia chủ trổ thêm một gác nữa để kiếm thêm khách và tăng thêm độ sáng lẫn gió trời.

Trong quán đang phát bản “Thu Sài Gòn” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên qua tiếng hát của Duy Quang. Ca – nhạc sĩ Trường Hải cũng có một bài cùng tên nhưng so về độ thịnh hành thì không bằng bài của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên. Trong tình khúc này, ông Miên sử dụng mẫu câu “Em có bao giờ thấu cho lòng Anh?” như trong tác phẩm “Em còn nhớ mùa Xuân” của mình; đây là câu hỏi mà ông dành tặng người vợ “Mắt biếc” của mình.

“Em hỏi Anh mùa Thu Sài-Gòn

Nắng còn vương trên hè phố vắng?

Em hỏi Anh mùa Thu Sài-Gòn

Nước mắt bây giờ có như mưa tuôn?”

– Sắp hết Hè rồi há bây?

Vừa lần giở từng trang thực đơn, Martin Cảnh vừa gật đầu cười.

– Hổng biết cha Khánh sang năm còn “Mùa Xuân trên đỉnh bình yên” hay không nữa. Lên hứa cho dữ mà không thực hiện được, chúng đá xuống mấy hồi.

Rồi bây ưng được món gì chưa?

Martin Cảnh gật đầu cười. Rồi nói mình sẽ ăn mỳ sợi với phá-lấu lòng bò và cà-ri cá viên kiểu Hồng Kông, uống thì lấy một ly sữa đậu nành lá-dứa ít đường có tẩy.

Ông Cuộc-trưởng gọi thêm cho mình và thằng đệ một dĩa cải thìa luộc và một dĩa xào chay thập cẩm cho mát người. Riêng ông, ông ăn cơm thố heo quay kho khoai môn và canh câu kỷ tử nấu với củ sen, hột sen, nấm tuyết và táo tàu.

– Uống thuốc rồi hẵng ăn, mậy.

– Dạ.

– Chiều nay không khỏe thì nghỉ một bữa đi. Coi như sáng giờ mày làm nửa buổi rồi.

Martin Cảnh cảm ơn người đàn anh luôn đối xử tốt với mình.

– Mà sao không kêu cơm cho chắc bụng? Ngày nào tao cũng thấy mày ăn mỳ gói suốt, không ngán hả?

– Dạ, tôi thích ăn mỳ hơn.

Đồ ăn vừa dọn lên bàn, chưa kịp đọc Kinh và làm dấu Thánh, đã nghe ông Cuộc hỏi:

– Vẫn chưa kiếm ra người đó sao?

– Chưa.

– Tôi hy vọng sẽ không có thêm người chết nữa. Và Đoàn Tòng sẽ chịu hợp tác với chúng ta.

– Ông đó không muốn làm mích lòng ai đâu. Tôi không hiểu bằng cách nào mà Stephen Đoàn giống hệt như tấm gương phản ngược của ổng vậy.

– Bây không nghĩ cha nào con nấy sao?

– Ai chứ tôi không tin Cha Mỹ sẽ như vậy.

oOo

Gabriel Đinh Thái bữa nay xuống Kiến Hòa tham dự Thánh Lễ ở Giáo xứ Padre Pio của hai đứa nhỏ Tấn Khải và Phước Thạnh. Ông đem theo chục lít đậu phộng và đậu phộng luộc làm quà ăn lấy thảo. Phận Linh mục nghèo nên đào đâu ra tiền để ông mua kẹo – bánh thượng hạng. Nhờ một tín hữu chuyên cho mướn xe mà ông được đi bằng chiếc xe tốt hiệu “Chevrolet – Trailblazer” bảy chỗ ngồi; đáng ra ông đi xe thường, nhưng vì chứng gai cột sống của thằng bạn nên phải chọn xe ngồi êm hơn một chút.

Longiuns Kiến nhận phần lái xe, Raphael Lễ ngồi kế bên. Băng nhì là của Augustino Dương, Thomas Tường và Gabriel Thái. Và băng chót là của Matthias Hoàn, GB Thành và Simon Tử.

Vừa rời khỏi Sài-Gòn, đã nghe thằng bạn tên Thái nói:

– Đừng có chở tụi tao qua Cao Miên như hồi đó nữa nghe.

Longiuns Kiến trề môi dài cả thước:

– Giờ tao già rồi, sức mấy mà lạc đường nữa… Còn mày nữa Hoàn…

Mặc cho Longiuns Kiến léo nhéo bên tai, Matthias Hoàn vẫn cắm cúi lần chuỗi Mân Côi, xin Đức Mẹ che chở đàn con đi đến nơi – về đến chốn, đừng có lạc sang Cao Miên, Ai Lao hay Thái Lan.

– Làm gì mà tao lái xe còn tụi bây thì đứa nào đứa nấy y như sắp lên “Đoạn Đầu Đài” vậy?

GB Thành khổ sở nói nhỏ:

– Lái hổng được thì để cho thằng Dự nó lái.

Simon Tử gật đầu lia lịa.

Longiuns Kiến đập nhẹ lên bánh lái:

– Trời ơi, hổng có sao đâu, hãy cứ tin ở tao…

Augustino Dương lắc đầu nguầy nguậy:

– Ở dưới đất thì tao tin mày, ở trên xe thì không…

Lớp hậu bối như Raphael Lễ không hiểu chuyện gì, nhưng nhờ thái độ của lớp “Tre già” nên cũng bị quíu lây.

Augustino Dương biết thằng con đang thắc mắc nên vỗ vai nó và cười hỏi:

– Bây muốn nghe sự tích sang Miên hả?

– Dạ.

– Chuyện kể rằng, trước lúc người đi xa, người muốn đi lên Tây Ninh tìm hiểu Đạo Cao Đài, lái sao hay quá, người chở chúng sanh qua luôn Cao Miên rồi mém bị nhốt luôn bên bển. Cũng nhờ trường Dòng bảo lãnh mới được bình yên trở về.

Thomas Tường cười lớn:

– Cũng may hồi xưa mày không đi thỉnh kinh với ông Huyền Trang, không là mày đưa ổng qua Châu Mỹ, thay thế Columbus luôn rồi.

Raphael Lễ quýnh quáng nói:

– Vậy thôi để chú Dự lái đi Thầy ơi. Con chưa có chuẩn bị sổ thông hành gì hết á.

– Mệt mấy người quá! Chuyện “Đường xưa lối cũ” mà lôi ra nhăn hoài!

Qua rất nhiều “Những nẻo đường Quê Hương”, rồi phải chờ phà chở qua sông nữa, nguyên đoàn mới tới được Giáo xứ ấy. Lúc đến nơi thì đã gần tám giờ, nguyên đoàn hết sức lo lắng sẽ bị trễ mất Thánh Lễ.

Ngôi nhà thờ dựng bằng cây nhà lá vườn, tức sau hè có cây gì cất được là đem vô làm vật liệu. Nhà thờ dựng theo kiểu nhà tiền chế, mái tranh – vách ván, sàn nhà lót gạch tàu đời mới nên không bị trơn và đóng rong theo thời gian, trên trần không đóng la-phông nên bao nhiêu cốt dầm đều lộ ra hết, những cây cột trụ được đổ bê-tông đàng hoàng nên rất vững chắc và chịu lực rất khỏe. Về phần bày trí, những băng ghế ở khán đài được đóng từ mớ cây tạp trong vườn rồi đem đi chà nhám và sơn mấy lần nước; Cung Thánh cũng được đóng từ mớ cây hệt vậy, duy chỉ có tượng Chúa Chịu Nạn trên cây Thánh Giá là được chạm trổ từ gỗ xá-xị – đây là món quà của một Giáo dân sống ở Đà Lạt. Ngoại trừ phía sau gian Cung Thánh, còn lại ở đâu cũng đều trổ cửa sổ và lắp chấn song để gió và nắng trời ùa vào khuôn viên nhà thờ, hòng tiết kiệm được một mớ tiền điện. Thêm một điểm đặc biệt ở nhà thờ này nữa, là không có cửa lớn, đến tối là Cha – con lấy hàng rào đan từ cây tre dựng qua thôi. Và còn chưa kể đến, bồn bông được xây vòng quanh nhà thờ, ngồi ở đâu nhìn ra cũng thấy sắc màu của loài hoa đồng dễ thương như sao nháy, móng tay, mồng gà, dừa cạn, bướm bà, chiều tím, mười giờ, thiên điểu, vạn thọ,… Để lấy ánh sáng cho bục giảng, thay vì lắp bóng đèn trần, thì ở đó nhường chỗ cho giàn bông giấy Cẩm Thạch và bầu hồ lô mũm mĩm, những tia nắng xuyên qua vòm cây tạo nên hiệu ứng ánh sáng đẹp mắt hơn nhiều; vào mùa mưa, chỉ cần đậy nó lại bằng một hộp kiếng mi-ca trong suốt, nước đầy hộp rồi sẽ theo máng xối mà chảy xuống bồn bông.

– Trời ơi, cái nhà thờ độc nhứt vô nhị! – Augustino Dương nói trong sắc diện thảng thốt cực kỳ.

– Tiền đâu mà tụi con xây nhà thờ kiên cố hả Cha? Ý là có gì làm nấy mà nó còn ngán đây…

Nói đoạn, Henrico Thạnh quay qua nhờ hai người Giáo dân khiêng ghế ra cho các Cha và khách mời ngồi.

GB Thành hỏi nửa đùa nửa thật:

– Sao con không viết bài kêu gọi xây nhà thờ?

Henrico Thạnh nhếch miệng cười:

– Con thấy phát cho mỗi Giáo dân một sợi dây thòng lọng mau hơn đó Cha.

Augustino Dương phạt ngang:

– Nói gì bậy vậy Thạnh?

– Xây cái gì thì cũng là chúa đẻ ra cái khác. Xây xong nhà thờ cái bày vẽ thêm tháp chuông. Hết tháp chuông rồi kiếm đường xây tới tượng các Thánh. Hết tượng các Thánh lại bắt quàng sang Đài Đức Mẹ. Rồi đủ thứ công trình khác nữa.

Mà đời sống Giáo dân có dư dả gì đâu mà làm “họa sĩ” hoài? “Rút máu” mỗi ngày một chút, thôi thì phát luôn sợi dây thòng lọng cho rồi.

Bây giờ các Thầy của chàng Linh mục xứ dừa mới thấy đôi tay chàng ta bị thương cùng khắp. Đôi tay này đã dựng lên nhà thờ cùng với Giáo dân và người bạn đồng quản xứ, và tuyệt nhiên không tơ hào một đồng một cắc của tín hữu nơi khác hay Mạnh Thường Quân ngoại Đạo.

– Khải đâu? – Longiuns Kiến vừa hỏi vừa đưa mắt ngó ra sau gian Cung Thánh.

– Qua leo lên lắp cái chuông sao té trật giò rồi. Hiện đang ở trỏng bôi rượu thuốc với nắn gân đó Thầy. Chắc cũng gần ra rồi.

Hai người Giáo dân ban nãy trở lại với một nhóm lương dân. Cứ hai người là khiêng một cái ghế đơn chạm trổ hết sức công phu, ước tính giá trị mỗi cái cũng phải bằng một chiếc xe SH đời cũ chứ chẳng chơi.

Gabriel Thái hỏi:

– Ở đâu ra vậy Thạnh?

– Con đi mượn bà con quanh đây nè Cha. Lát có gì trả họ mấy trái sầu riêng hay trái mít. Giáo xứ ở chỗ con y hệt bộ lạc nguyên thủy vậy đó Cha, hổng có xài tiền, toàn lấy rau cải – trái cây với hột này – hột kia ra trao đổi không hà.

– Khóc cái gì mà khóc hả Hoàn? – Augustino Dương vừa nói lấy ống tay áo dụi mắt.

– Mày nói tao, sao mày hổng dòm lại mày đi, thằng quỷ?

Thomas Tường hỏi:

– Giáo dân được mấy người hả con?

Henrico Thạnh giơ một bàn tay lên:

– Năm gia đình. Cũng được đâu ba mươi mấy người.

Thomas Tường lại hỏi:

– Nhà thờ này chứa được khoảng bao nhiêu người hả con?

– Hai trăm là cùng.

Thomas Tường ngó quanh:

– Không có Ca Đoàn hả con?

– Có. Hai thành viên: Con với cha kia.

Augustino Dương cười mà đôi mắt ướt rượt:

– Biết vậy rủ thêm Sáu Quới cho nó thỏa sức hát hò rồi.

Henrico Thạnh le lưỡi:

– Thôi, ông đó mà ca chắc Thánh Lễ giải tán sớm.

Nói tới đây, ai nấy thi nhau cười rộ lên.

Giáo dân đến bây giờ mới tề tựu. Trễ hơn Thánh Lễ ở những nơi khác tới gần hai tiếng đồng hồ. Người nào người nấy đều không chưng diện và sực nức dầu thơm, ngày thường sao thì hôm nay cũng y chang vậy.

Nhựt là đứa bé giúp Lễ hôm nay. Ăn bận sạch sẽ, tóc tai láng mướt nên trông nó coi bô trai lắm; khác rất xa với cái vẻ lưu manh, bụi đời trước đây. Mới hôm trước còn như con trao trảo chí-cha chí-chách trên ruộng lúa, mà nay nó lại hiền ngoan như con bồ câu đậu trên nóc Giáo đường. Ông Tía nuôi của nó cũng thôi đùa giỡn, sắc diện của Henrico Thạnh ra dáng một người Cha Đạo hoàn toàn, anh đứng nghiêm sau lưng người bạn đồng quản xứ JB Khải mà đợi ông Cha Sở sai sử mình. Đương nhiên, Gabriel Thái được mời lên phát biểu đôi lời; thông qua buổi giao lưu ngắn ngủi này, ông nhận thấy Giáo dân vẫn còn chưa nắm được Giáo lý và thậm chí chỉ biết vài bài Thánh Ca thịnh hành, hèn chi mà Ca Đoàn chưa thể thành lập.

Đến phần hát Thánh Ca, Gabriel Thái ngỏ ý lên hỏi Giáo dân vài câu về nhạc Đạo, và được nhận lại toàn những câu trả lời bật ngửa, đại để như vầy, “Kêu ca cải lương hay Bolero thì tui biết, chớ ca mấy bản kia thì tui mù tịt hà.”

– Thôi để con ca luôn cho.

Bài hát mà Henrico Thạnh biểu diễn cho các tân Giáo dân nghe bài Thánh Ca bằng tiếng La-tin tên là “O Sanctissima”, ca khúc này đã từng được Bing Croisy trình bày trong bộ phim “The Bells of St. Mary’s”.

Giọng hát của Henrico Thạnh hay không kém gì Stephen Đoàn. Vậy mà thường ngày anh lúc nào cũng cố tình ca lạc giọng và rớt nhịp tùm lum. Chừng anh im tiếng rồi mà ai nấy vẫn chưa hoàn hồn lại được.

– Giờ muốn về hay muốn ngồi đây dự Lễ?

Ông già ngồi hàng đầu chưng hửng hỏi:

– Ủa ca xong rồi hả mậy?

Bà thím bán hủ tíu tặc lưỡi:

– Ca thêm bản nữa đi chớ.

– Hết hơi rồi bà con ơi.

– Nãy giờ toàn thằng Khải nói, mày có nói tiếng nào đâu?

Thomas Tường cũng khuyên con trai nên ca thêm một bản nữa.

– Chúa ơi, con biết ca bài gì bây giờ?

Một thai phụ mặt mày non choẹt nói:

– Bài gì chúc phúc đó Tía.

Henrico Thạnh quay qua hỏi Đức Cha Thái:

– Con trình bày bản “Diễm Tình Ca 3” do Linh mục Thành Tâm biên soạn được không Cha?

Sau một đỗi suy xét, Gabriel Thái tặc lưỡi mà gật đầu chấp thuận. Dẫu sao cũng trưa trờ trưa trật rồi, ngồi tìm bài hát thích hợp thể nào cũng khiến bà con lỡ dỡ bữa cơm.

Hết buổi Thánh Lễ, bà con lục tục kéo nhau ra về, cái màn “tiền giỏ”, “tiền vợt” không xuất hiện ở đây.

Đợi Giáo dân đi hết rồi, Gabriel Thái mới kéo hai đứa con quản Giáo xứ này mà hỏi:

– Rồi hai đứa lấy gì mà sống?

Henrico Thạnh trả lời:

– Mấy gia đình này vừa rời Bình Dương về Bến Tre ở chưa được mấy tháng. Công ăn việc làm chưa ổn định. Mà sắp tới mùa đóng học phí rồi. Tụi con lấy một cắc cũng là lấy mất một miếng cơm nhà người ta. Chừng nào đời sống Giáo dân khá hơn, tụi con mới tính tới chuyện tiền nong. Còn bây giờ, tụi con sẽ sống như người thời tiền sử.

– Lạy Chúa tôi!

JB Khải đang giúp thằng Nhựt cởi áo Lễ ra. Nó được sắm cho bộ đồ vía là quần tây – áo sơ-mi với đôi giày giả da, nhưng không chịu thấu với cái nóng ban trưa nên vừa thoát khỏi tấm áo Lễ là chạy ù về nhà thay sang đồ thường.

Henrico Thạnh mời các Cha và thầy Dự lại nhà mát ăn cơm. Anh đã nấu sẵn hết rồi, chịu khó hâm lại một xíu là xong.

Bữa trưa hôm đó có ơ cá rô kho tộ với tóp mỡ, canh rau đay nấu mướp hương và tôm khô, rau cải xào dầu hào, bí đao hấp, khô cá chỉ vàng nướng, vịt nấu chao môn và gà quay chảo với nước cốt dừa.

Simon Tử vừa dẻ miếng cá vừa cười nói:

– Bắc Kỳ chúng tôi khoái ăn cá kho rục, nhừ cả xương lắm.

Henrico Thạnh gật đầu:

– Còn dân Nam Kỳ thích ăn cá kho còn dẻ được, hay còn gọi là kho cứng khứa cá, chớ ít ai ăn cá kho rệu và kho rục lắm.

Thomas Tường cười biểu:

– Nhưng kho theo kiểu nào cũng nên có khúc mía đập dập rồi bỏ vô nồi kho chung, kho vậy cá mới ngọt và không bị tanh.

– Dạ, con lót một mớ ở dưới rồi đó.

Gabriel Thái nêu ý kiến:

– Rất có thể là do sông nước ngoài ấy là nguyên nhân khiến cho ít có cá lớn, thành ra ngoài đó hay chế biến mấy món cá rục xương để dễ ăn và đỡ mắc cổ.

– Hèn chi họ “phát minh” ra con cá rô cây. – Augustino Dương vỗ đùi cái đét.

Ai nấy thảy đều cười ngất. Simon Tử vào Nam từ hồi mới lọt lòng nên chưa hề biết mặt mũi con cá rô cây ra làm sao, chỉ biết đến nó thông qua lời truyền miệng và những mẩu chuyện đăng trên mạng xã-hội mà thôi.

JB Khải chợt hỏi sang chuyện khác:

– Cường – Mỹ sao rồi mấy Cha?

GB Thành đáp trong lúc gắp cái phao câu vịt:

– Giờ phải kiếm đứa nào bảo vệ tụi nó chớ thằng nào thằng nấy xi-ba-chao hết rồi.

JB Khải hỏi:

– Chiều nay mấy Cha có ghé Giáo xứ trên trển không?

– Có. Coi tình hình sao rồi về họp bàn nữa. – Gabriel Thái thở dài.

Augustino Dương hỏi Henrico Thạnh:

– Dân xứ mày có câu nói nào đáng lưu tâm không con?

– Dân Bến Tre hễ nói câu “Cái mặt mày y chang trái dừa éo” là biết bị chửi rồi đó.

Simon Tử hỏi:

– Nghĩa là gì thế cậu?

Vừa gắp cho Thầy Dương một miếng cá kho, Phước Thạnh vừa giải thích:

– Trái dừa éo khô quắt mà có chút xíu, ý chỉ cái bản mặt của người đó nhăn nhó, khó coi hoặc nói về cái thứ dòng ăn ở tính toán từng đồng từng cắc. Nói vắn tắt hơn, ý chỉ thứ đồ hãm tài.

Augustino Dương bật cười khanh khách:

– Mỗi tỉnh có một câu chửi khác nhau…

JB Khải trở vô bếp đặng bưng ra nồi mắm kho với rổ rau sống. Sau hai đũa cơm, Henrico Thạnh cũng lục tục xuống bếp để phụ thằng bạn bưng món.

– Nè, tui có làm riêng cho thầy một dĩa thịt-đông và cà-pháo chấm mắm tôm.

Simon Tử cảm động mà nói lời cảm ơn Linh mục Thạnh.

Augustino Dương bình luận:

– Có lẽ người miền Bắc nhân tiết Đông lạnh căm nên đã sáng tạo ra món thịt-đông, vừa giữ cho thịt không hư vừa đỡ ngán nữa.

Ngoài rạch, một chiếc tác-ráng chở dừa đang rẽ nước mà đi. Tiếng ồn và luồng khói của nó nếu ai một lần đã thấy sẽ khó có thể quên được. Trên thinh không cao vợi tịnh không một bóng mây, màu trời xanh thẳm như màu men gốm pháp lam, mặt trời sáng-quắc trông hệt khuôn cái bóng-đèn tròn. Nắng đổ từng cơn hanh-hao xuống mọi nơi, đứng ở đâu cũng nghe mùi nắng oi nồng xông lên tận óc.

Nơi nhà mát, dầu đã bật ba cây quạt với số lớn nhứt, song mồ hôi mồ kê ai nấy tuôn ra đi xông-hơi. Và mặc dù như vậy, nhưng vì cơm – canh ngon quá nên chưa ai muốn dừng đũa hết.

Augustino Dương kể:

– Đáng ra năm đó tôi đã bị từ chối rồi. Nhưng Đức Cha nói Chúa luôn cho người ta thêm cơ hội nữa, thì tại căn cớ nào mình lại loại bỏ một người muốn được phụng sự Ngài và tha nhân suốt đời chỉ vì người đó có chút khiếm khuyết.

Gabriel Thái bùi ngùi:

– “Đó là điều kiện của con người, còn đây là điều kiện của con tim.” Lúc nào Đức Cha cũng đứng ra bảo vệ những chủng sinh yếu kém và những người bị từ chối Rửa Tội hay Rước Lễ.

Matthias Hoàn tiếp:

– Thành ra Đức Cha mới bị vu khống là muốn “Kháng-Cách”, muốn làm Martin Luther.

Từ ngoài rạch vọng tới tiếng ca của Hương Lan trong bài “Màu nắng Quê Hương” của nhạc sĩ Khánh Băng. Màu nắng làm tươi thêm sắc bông điên-điển và lục-bình. Hàng dừa cao nghệu đang đứng khựng vì trời đột nhiên lặng gió. Những cánh diều tuổi thơ đành vắng bóng trên nền trời thẳm xanh ít mây.

oOo

Nhận được tin của Đức Hoàng, Xương Tuyết và Hớn Mai mau chóng khăn gói xuống An Giang để viết phóng sự.

Đức Hoàng đã chuẩn bị sẵn phòng ốc cho hai người đàn anh. Thay vì ra khách sạn thì hắn lại mời họ về nhà ở. Nhà của hắn có khu khách-phòng nằm tách biệt với nhà lớn nên chủ – khách sống với nhau rất thoải mái và không sợ bị làm phiền.

Do bữa nay Đức Hoàng không có cảnh quay nên bộ tứ mời hai người đàn anh đi ăn lẩu gà-nòi hầm sả – ớt và gà-xác chiên. Để đáp lễ, hai anh em kết nghĩa đãi lại họ hột vịt lộn xào me, cơm cháy ăn với kho quẹt cùng rau sống và ếch xào lá-cách.

– “Phong cách phóng khoáng” mà ghi là “Phong cách phóng túng”. Riết nhà báo mà không hiểu nghĩa tiếng Việt để mà xài chữ cho đúng. – Đức Hoàng nhăn mặt bình phẩm.

Ernest Nguyễn hỏi Xương Tuyết:

– “Bảo trì” và “Bảo hành” có sách nào nhắc đến không anh?

– “Việt Nam tự điển – Quyển thượng” của Hội Khai Trí Tiến Đức, trang 75.

– Còn “Nội hàm” và “Nội tại”?

– “Việt Nam tự điển – Quyển Hạ”, trang 992 – 993. Hai chữ này chỉ dùng trong Triết Học chứ thời xưa đâu ai đem ra làm ngôn ngữ thường ngày.

– “Ẩm thực”?

– “Việt Nam tự điển – Quyển thượng”, trang 39.

– Còn chữ “Ấn tượng” thời nay xài có đúng không anh?

– Trang kế bên: 40.

– Còn chữ “Trầm cảm”?

– Thời xưa dùng chữ “Trầm uất” để nói về những người bị bịnh thần kinh thất thường. Có thể kiểm chứng ở “Việt Nam tự điển – Quyển hạ”, trang 1660.

– Còn “Nhục quốc thể” hồi xưa xài chữ chi?

– “Quốc sỉ”, trang 1216, “Việt Nam tự điển – Quyển hạ”.

Anh Ba Hói nhếch miệng cười:

– Cuốn này đã từng được chọn làm tài liệu về Quốc ngữ cho Viện Hàn Lâm. Điểm hay ở cuốn này là họ ghi luôn cách dùng chữ của cả ba miền, thí dụ như “Biển” thì kế bên giải thích là “Bảng” hay “Đánh quờn” thì kế bên viết thêm “Đánh quyền”.

Xương Tuyết thêm:

– Nhờ có sách này mà tôi mới biết chữ “Tiền còm” là cách viết trại và nói tắt từ chữ “Commission”.

Đức Trọng không biết vì sao mà biết đường đến đây. Anh gọi hai con gà hấp xì-dầu để làm món mời mọi người. Trên đầu anh còn quấn một vòng băng trắng xóa như báo tang.

– Cuốn này đó nghe anh Ba Hói, tôi không ưng ở chỗ định nghĩa về “Tư bản” phiến diện quá.

– Thì đó. Cái gì mà mình không rành thì dễ mắc lỗi phiến diện lắm. Giờ đưa Ngô Bảo Châu hay Elon Musk vô bàn chuyện chánh trị coi hai người đó nói đúng được bao nhiêu phần.

– Vậy ra anh cũng biết sách này giải nghĩa sai kha-khá chữ.

– Phải, họ chưa kịp bổ túc hay hiệu đính thì… banh rồi.

Nhân đó Đức Trọng mới kể chuyện một số người trẻ sống ở xứ này chuyên môn nói “Tư bản chống lưng” và đổ mọi thứ lên “Tư bản”.

Nghe vậy, anh Ba Hói mỉm miệng cười bình phẩm:

– Tư bản không phải là tốt nhứt hay tệ nhứt. Nó là đường lối kinh tế thích hợp nhứt để một quốc gia đi theo mà thôi.

Tống Ngạn hỏi:

– Nhiều người cho rằng thời nay ít có sách dành cho con nít mà do tác giả trong Nước viết, hai anh nghĩ sao?

Xương Tuyết trả lời:

– Ngày xưa có “Cô tiên Xanh” và “Tâm hồn cao thượng”, thường là do họa sĩ Hùng Lân vẽ chính; nội dung cũng hay và giúp ích cho trẻ nhỏ rất nhiều, tiếc rằng giờ được mấy đứa con nít chịu coi.

– Vậy ra là có sách hả anh?

Xương Tuyết gật đầu:

– Tôi mua cho con em tôi coi hoài. Có cả trăm cuốn chớ không ít, sau này dọn nhà phải bán bớt đi…

Khán Bình hỏi:

– Anh có sách nào về các sắc tộc không?

– “Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam” của nhà biên khảo Nguyễn Trắc Dĩ.

– Anh có thể chứng minh cách gọi “người Kinh” là của xứ Đàng Ngoài không?

– “Cao Nguyên miền Thượng” của nhà biên khảo Bắc Kỳ Cửu Long Giang – Toan Ánh. Ở ngay phần mở đầu, anh sẽ thấy liền khái niệm “người Kinh”.

– Và anh vẫn sẽ giữ nguyên quan điểm của mình?

– Phải. Tôi sẽ không thay đổi quan điểm của mình. Và người khác muốn gọi sao thì tùy ý họ.

Ernest Nguyễn hỏi:

– Ở tòa soạn của anh có đăng tin về hội con nhà giàu không?

Anh Ba Hói cười khinh:

– Đăng bài về đám đó để làm chi?

Xương Tuyết kể:

– Nhờ có một người bạn trên Facebook mà tôi hân hạnh được biết quý danh của một đứa nhỏ đáng tuổi em tôi mà giỏi hơn tôi gấp vạn lần. Nó mới qua Mỹ chưa đầy năm năm mà đã đạt được rất nhiều thành tích xuất sắc trong học tập; thậm chí còn được Elon Musk bảo trợ quốc tịch Mỹ và đặc cách mời về tập đoàn của anh ta làm việc luôn. Tên đầy đủ của cậu đó là Đỗ Trọng Khoa, quê ở Đà Nẵng.

Anh Ba Hói gật gù:

– Tin này mới là tin đáng đăng, chứ còn cái đám kia có cái gì mà đáng để cất công biên bài?

Người nhân viên đang dọn bàn nghe vậy “tức cảnh sanh chuyện”:

– Một đứa thì vô Đại Học nhờ xét tuyển theo kiểu đậu vớt, một đứa thì gia đình giàu có nên lo nổi tiền học phí; rồi anh kêu tôi khâm phục, khâm phục ở chỗ nào đây?

Nghe anh ta kể đầu đuôi mới hay, thì ra do không có tiền nên anh ta phải thôi học mà ra đây chạy bàn, dẹp luôn ước mơ thành kỹ sư Điện Toán.

Xương Tuyết vừa phụ bồi bàn dọn món vừa nói:

– Cậu kia vô Đại Học nổi là nhờ giành được học bổng từ việc đứng nhứt trường và làm Freelancer để tự nuôi sống bản thân mình chứ không dựa dẫm vào nguồn tài chánh của ai hết.

Người nhân viên hiếu kỳ hỏi:

– Mà sao anh biết hai trường hợp kia rõ vậy?

Anh Ba Hói nhún vai cười khan:

– Có người mướn tụi tôi viết mà, ông chủ nhiệm thấy tin vô bổ nên lắc đầu từ chối rồi.

Anh ta lại bình phẩm:

– Mà cũng ngộ, tin này tôi chưa thấy báo chí trong Nước đăng. Còn cái hội con nhà giàu kia thì lên bài búa lua xua.

Có tiếng đằng-hắng của quản lý vang lên sau gốc cây me già. Anh ta cuống quýt bày biện, với sự giúp đỡ của Xương Tuyết và Đức Hoàng, nên anh ta đã kịp thời trở gót xuống nhà bếp để qua bàn khác dọn món mà không bị quản lý mắng chửi hay đe nẹt trừ lương.

Tống Ngạn hỏi:

– Hai anh nghĩ sao về các ca sĩ thời trước 75? Ý của tôi là họ hát trực-tiếp có hay như thâu âm không?

Xương Tuyết trả lời thay anh Ba Hói:

– Tôi từng nghe Chế Linh, Tuấn Vũ, Đan Nguyên, Hoàng Thùy Linh, Quốc Khanh,… hát trực tiếp rồi. Ngồi sát sân khấu luôn chứ không xa xôi chi. Nên có thể dám nói chắc ngoài đời các ca sĩ ấy hát giống như trong băng được gần tám mươi phần trăm; riêng ông Chế Linh vì tuổi tác đã cao nên chỉ có nhiêu đó thôi, hồi trẻ chắc giọng của ông trong và ngoài chẳng khác nhau một xíu nào đâu.

Anh Ba Hói bổ sung:

– Chương trình đó tổ chức ở một nhà hàng trong Quận Cam.

Xương Tuyết tiếp:

– Đan Nguyên ngoài đời ước chừng mét bảy đổ lại hà; đẹp trai mà thiếu thước tấc. Và vợ chồng cô Linh – anh Khanh hình sao ngoài đời y chang vậy, không khác một nét nào hết. Còn ông Vũ thì vẫn hát sai lời như mọi khi, và vẫn phải uống rượu rồi mới cầm micro lên biểu diễn được.

Anh Ba Hói thêm:

– Ai cũng trân trọng khán giả hết.

Tống Ngạn vừa giúp thằng Hoàng múc hột vịt lộn vô chén vừa hỏi:

– Anh nghĩ sao về thái độ “Sao đổi ngôi” của nhiều ca sĩ thời xưa?

Xương Tuyết cười khổ:

– Chuyện chính trị trong nội bộ nhà tôi còn y hệt thời vua Lê – chúa Trịnh – chúa Nguyễn – vua Quang Trung thì trông mong chi người ngoài.

– Thôi, đừng nhắc chuyện buồn, mau ăn đi mấy anh – mấy bây… – Ernest Nguyễn cười hiền. Rồi cúi xuống cho con mèo hoang một miếng thịt ức gà đã bỏ xương.

Xương Tuyết bèn kiếm chuyện vui để kể:

– Hồi đó xuống Cà Mau chơi, vô trúng cái nhà hàng có một không hai. Bàn của tụi tôi ở giữa, bên trái tổ chức sinh nhật và bên phải diễn ra đám cưới; dĩ nhiên, dù muốn dù không, tụi tôi phải ngồi nghe cả hai bên hát rồi. Cánh tả thì hát mấy bài chúc tụng cô dâu – chú rể, còn bên hữu thì hát mấy bản “Thất tình ca” như “Chỉ riêng mình Ta”, “Tình là sợi tơ”, “Tình xưa xa rồi”,… Trời ơi, bên đám cưới liếc bên sinh nhật muốn lọt tròng!

Đức Hoàng cười run cả hai. Chừng bớt mắc cười rồi, mới hỏi:

– Sao anh không lên hát Nhạc Đỏ để giải tán hai bên?

– Ờ há…

Tống Ngạn kêu thêm sáu dĩa chân gà rút xương nướng sa-tế và trứng chim-cút nướng mỡ-hành.

Xương Tuyết lên cơn khùng nên không lo ăn mà ngồi nói nữa:

– Tôi nhớ có năm tôi bị đau bụng dưới dữ dội nên phải đi cấp cứu. Ông bác sĩ trẻ thì nói tôi bị viêm ruột thừa nên phải truyền nước biển gấp rồi bắt nằm đó đợi mổ. Nằm đâu tới sáng mơi, ông bác sĩ già vô tái khám rồi phán rằng, “Ruột thừa hổng có sao hết. Cái này là nhiễm trùng đường ruột nặng thôi.”

Ernest Nguyễn hỏi trong lúc lặt rau răm:

– Vậy rốt cuộc anh bị cái gì?

– Nhiễm trùng đường ruột.

Đức Hoàng vỗ bàn la lớn:

– Trời ơi, vậy mà kêu mổ ruột thừa?

– Ờ.

Ăn xong vài xâu trứng chim-cút nướng, Khán Bình mới hỏi:

– Vậy dưới tỉnh của anh có bác sĩ giỏi không?

– Có. Nhưng vì đây là chuyện nghề nghiệp của người ta mà tôi chưa hỏi qua ý kiến nên sẽ giấu tên và giấu luôn chỗ làm của người đó.

Bộ tứ thảy đều đồng ý.

– Còn nhớ cái năm sốt xuất huyết hoành hành, có một ông bác sĩ đã kiên quyết giữ lại một bé gái bệnh nhân với lý do nó mà về thì sẽ chết. Người nhà dụ dự không muốn nghe theo, nhưng ông A nạt và bắt phải vô nhà thương liền, không được chần chừ thêm một giờ khắc nào nữa. Rốt cuộc, người nhà phải đưa nhỏ con của họ đi bệnh viện. Mới làm thủ tục xong xuôi, con nhỏ hốt nhiên rơi vào trạng thái mê man vì bị biến chứng đông máu, tức là máu bị đặc nghẹt y như huyết luộc vậy. Không còn kịp để đưa vào phòng cấp cứu nữa, bác sĩ phụ trách ca trực đành để nó nằm trên băng-ca ở ngoài hành lang luôn và tiến hành các phương pháp chữa trị. Toàn bộ đội ngũ nhân viên y tế đêm hôm đó hết hồn hết vía chạy đôn chạy đáo đi lấy thêm nước biển đặng giúp cho máu trong người con nhỏ đó được lưu thông. Anh có tin một mình nó mà xài hết hơn năm thùng đựng bịch nước biển không? Cầm cự tới sáng, con nhỏ đó hồi sinh.

Ernest Nguyễn hỏi:

– Ông bác sĩ đó xuất thân sao anh? Cái ông hồi đầu mà bắt nhập viện đó.

– Con nhà nghèo rớt mồng tơi.

Anh Ba Hói hướt lời để thằng em chịu ngồi ăn:

– Hồi đó, mẹ tôi bị rối loạn tiêu hóa, ói suốt một tuần, không ăn không uống được cái gì. Vậy mà thay vì để mẹ tôi vô phòng nằm nghỉ và để cho ba tôi đi lo thủ tục với đóng tiền, họ bắt mẹ tôi phải tới từng nơi để mà ký tên và lăn tay xác nhận, xong xuôi hết rồi mới cho nhập viện. Ba tôi phải cõng mẹ tôi leo từng tầng một để làm hài lòng quy định chỗ họ.

Đức Trọng sẵn có Xương Tuyết đây hỏi luôn:

– Anh nghĩ Kiến Hòa sao?

– Có một điều mà tôi muốn thay đổi và giữ gìn nhưng tự bấy lâu nay chờ hoài mà chưa thấy đâu.

– Điều gì?

– Bảo vệ thương hiệu dừa Bến Tre và chỉ dẫn bà con cách làm sản phẩm từ dừa bằng máy móc tân-tiến.

– Anh làm tôi nhớ tới vụ thạch dừa…

– Ừ, nhiều chỗ làm dơ lắm, tôi biết mà. Nên tôi mới cho rằng thay vì chú tâm vô mấy công trình vui chơi – giải trí thì nên dành nguồn vốn đó mà giúp bà con xây những xí-nghiệp và nhà xưởng sản-xuất thì tốt hơn, cũng như hướng dẫn bà con cách ủ phân bón từ các loại cây mục, lá úa,…

– Và xây cầu nữa…

– Còn nhiều thứ cần xây lắm.

Rồi gã trai xứ dừa chợt nói bằng giọng rầu-rầu:

– Nếu chỉ nhìn vô những tấm ảnh chụp khu vui chơi giải trí hay hàng quán sang trọng thì anh sẽ không bao giờ biết được đâu là đời sống thực tại của dân xứ tôi đâu.

– Anh thích điều chi ở xứ anh nhứt?

– Tôi lớn lên cùng những cơn mưa bất chợt, nên tôi thích mưa. Đi đâu mắc mưa cũng tự nhiên bồi hồi nhớ quê.

– Tôi cần anh giúp dựng cảnh ở dưới Ba Tri. Hứa sẽ trả thù lao xứng đáng. Anh chịu hôn?

– Thành giao.

Sau một hồi trầm ngâm, chợt Xương Tuyết nói với mọi người:

– Tự nhiên tôi nhớ tới một nơi ở dưới quê tôi, xây cất đẹp đẽ và lộng lẫy lắm, không thua gì các khu đô thị ở các nước phát triển hết, nhưng mà đếm đi đếm lại được có bao nhiêu gương mặt vô ở.

– Vậy ai ở đó sướng rồi. Sống ở đó y chang như khu tự trị luôn vậy. – Đức Hoàng bỡn.

Ai nấy thảy đều bật cười thành tiếng.

Xương Tuyết cười biểu:

– Nếu anh muốn có cảnh đẹp cho thước phim sắp tới thì nên xuống đây ghi hình.

Đức Trọng lắc đầu:

– Cảm ơn anh. Nhưng tôi không muốn khán giả nhàm chán nên sẽ chọn một ngôi nhà ở trong miệt vườn, nằm cạnh sông ngòi – kinh rạch càng tốt.

Anh Ba Hói vừa bỏ cái phao câu vô chén thằng em kết nghĩa vừa nói:

– Nhiều người có cái tật thích ghé mấy nơi sang trọng ăn uống rồi chụp hình cả ngàn tấm để từ-từ viết bài đăng lên mạng.

– Ừ, lâu lâu đi một bữa nên phải chụp hình nhiều. – Đức Trọng vừa nói vừa mở điện thoại lên đặng đọc tin nhắn.

Chuyện chưa vãn mà đã phải chấm dứt vì quản lý của nhà hàng mời nguyên đám vô trong nhà ngồi do gió ngoài trời lớn quá mà xung quanh đây trồng cây rất nhiều. Nguyên đám đồng ý làm theo, sẵn bưng phụ các nhân viên luôn.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.