Chu Chẩm Nguyệt cầm lấy chúng khẽ vuốt ve.
Cô tháo xuống chiếc khuy măng sét ban đầu trên ống tay áo sơ mi, cài lên chiếc khuy măng sét làm bằng đá mắt hổ, cẩn thận căn chỉnh rồi thắt chặt tay áo.
Mục Tuyết Y ngồi bên cạnh cô, chống sofa nghiêng người qua thăm dò, đèn pin chiếu vào đôi mắt của nàng, sáng lên một tia dịu dàng khiến lòng người rung động.
“Chị lúc nào cũng mặc âu phục, nếu tặng chị một đôi khuy măng sét, bất kể chị có mặc áo sơ mi dạng nào cũng có thể đeo chúng nó theo bên người.”
Chu Chẩm Nguyệt nhìn cổ tay của mình, khóe môi không nhịn được mỉm cười.
Mục Tuyết Y: “Nhìn nó đẹp chứ?”
Chu Chẩm Nguyệt: “… Rất đẹp.”
Mục Tuyết Y: “Dĩ nhiên rồi, đồ em chọn chắc chắn rất ưa nhìn.”
Chu Chẩm Nguyệt cười nhạt: “Em cũng khá tự tin.”
“Em đối với ánh mắt của mình vẫn luôn có tự tin.” Mục Tuyết Y nghiêng đầu, tập trung nhìn vào hàng lông mi nhỏ dài của cô: “Người em yêu tốt như vậy, em chọn quà làm sao lại không tốt?”
Chu Chẩm Nguyệt mỉm cười sâu hơn, kéo tay áo xuống, che khuất ống tay áo sơ mi và chiếc khuy măng sét làm bằng đá mắt hổ trên cổ tay: “Miệng lưỡi trơn tru, tôi cũng không đổi 65 điểm thành 100 điểm ngay lập tức đâu.”
“A…” Mục Tuyết Y cố ý tỏ ra ảo não: “Lại bị chị nhìn thấu mục đích rồi.”
Chu Chẩm Nguyệt nhíu mày: “Được rồi, em diễn tuồng còn hay hơn cả diễn viên trên sân khấu. Xem biểu diễn đi, đây là chuyến lưu diễn toàn quốc của đoàn kịch ở Ngạn Dương, sau này muốn xem cũng không có cơ hội xem nữa.”
Mục Tuyết Y cũng không tiếp tục đùa giỡn, ngoan ngoãn nghe lời, chuyên tâm nhìn về phía sân khấu.
Vở kịch đã qua được một nửa.
Nội dung vở kịch lấy bối cảnh con đường tơ lụa* thời cổ đại, nam nữ chính không hề có gia thế hiển hách mà chỉ là một đôi trai gái bình thường trong thôn. Khi nàng và cô bắt đầu xem là cảnh mà A Muội tiễn A Huynh tiến vào đội lạc đà, đội lạc đà đi qua phố xá sầm uất xa hoa, vượt qua những ngọn núi tuyết nguy nga hùng vĩ, lại đi đến hoang mạc rộng lớn ngập tràn bão cát.
*Con đường tơ lụa là con đường thương mại lịch sử có từ thế kỉ thứ hai trước Công nguyên cho đến tận thế kỉ 14 sau Công nguyên, trải dài từ châu Á đến Địa Trung Hải, đi qua Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư, Ả Rập, Hy Lạp và Ý. Con đường thường diễn ra hoạt động buôn bán tơ lụa, ngoài lụa, tuyến đường cũng tạo điều kiện cho việc buôn bán các loại vải, gia vị, ngũ cốc, trái cây và rau củ, da động vật, gỗ, kim loại, đá quý và các mặt hàng khác có giá trị.
*A Huynh với A Muội chỉ là cách xưng hô, không phải tên thật.
Lúc A Huynh rời đi, A Muội đã làm một cái bánh lớn cho chàng, để dành ở trên đường lót dạ. Nhưng A Huynh không nỡ ăn, vẫn mang theo sau lưng, trong hoang mạc đói khát thức ăn cũng không hề động tới một phần, ngày nào chàng cũng ôm vào trong ngực, cho rằng đây là chỗ dựa tinh thần duy nhất của mình.
Sau khi đi ngang qua hoang mạc, đội lạc đà bị một bầy sói tập kích, A Huynh vì bảo vệ đồng đội mà bị đàn sói vây quanh. Một người bình thường, dù có dũng cảm thế nào cũng không thể đơn độc một mình một ngựa chống lại cả bầy sói hung mãnh. Cuối cùng, A Huynh vẫn bỏ mạng dưới miệng của bầy sói, trong lúc bị sói kéo lê, chàng đã tháo túi vải có chứa cái bánh ném cho đồng đội.
Mọi người đều cảm kích trước sự dũng cảm của chàng, cũng không ai nỡ ăn cái bánh kia, đành gói nó lại bỏ vào trong túi bảo quản.
Đội lạc đà vượt qua hoang mạc, đi đến Tây Vực, khai thông buôn bán, giúp đỡ nhà sư, mở ra một con đường thương mại nối liền từ phương Đông đến tận phương Tây.
Một chuyến đi kéo dài mười năm.
Mười năm sau, bọn họ mệt mỏi sương gió trở về cố hương, đem cái bánh bị hỏng đã biến thành màu đen từ bao giờ giao cho A Muội đã khổ sở đợi chờ mười năm trước cửa thôn. Lúc đấy, bọn họ mới có thời gian nói cho nàng, người mà nàng chờ đợi kỳ thực đã chết từ mười năm trước rồi.
Nữ chính ôm cái bánh quỳ trên sân khấu khóc đến không thể đứng thẳng, Mục Tuyết Y nhìn nàng, trọng tâm lại không đặt ở diễn biến vở kịch: “Một cái bánh có thể tồn tại đến mười năm ư? Tại sao lại không hóa thành tro bụi?”
Chu Chẩm Nguyệt: “… Có khả năng là một cái bánh sắt.”
Mục Tuyết Y: “Cũng có thể đã trở thành hóa thạch.”
Chu Chẩm Nguyệt: “Hoặc là bánh nén trà, có thể bảo quản trong thời gian dài.”
Mục Tuyết Y: “Không đúng, lúc nãy nữ diễn viên cầm bánh màu trắng. khẳng định không phải là bánh nén trà.”
Chu Chẩm Nguyệt: “…”
“Khán giả dưới sân khấu đều lau nước mắt, còn em lại ở đây thảo luận với tôi chuyện mấy cái bánh.” Chu Chẩm Nguyệt cười nàng: “Tôi còn tưởng màn kịch này sẽ khiến em cảm động, còn gọi Tiểu Ngải mua mấy bao khăn giấy chuẩn bị trước.”
Mục Tuyết Y nhìn sân khấu, nhàn nhạt cười: “Thật ra vừa nãy em cũng sắp khóc, nhưng chị ngồi kế bên, khóc thật xấu hổ.”
Chu Chẩm Nguyệt: “Cho nên lúc sắp khóc lại bàn chuyện cái bánh với tôi?”
Mục Tuyết Y: “… Ừm.”
Chu Chẩm Nguyệt đỡ sofa đứng lên, cầm bao khăn giấy còn chưa khui trên bàn trà, mở ra miệng bao nhét vào trong tay Mục Tuyết Y: “Vậy tôi ra ngoài trước, em khóc xong tôi sẽ vào.”
“Đừng.” Mục Tuyết Y theo bản năng kéo ống tay áo của Chu Chẩm Nguyệt, bật thốt: “Chị đừng đi.”
Gò má nàng ửng hồng, dừng một chút, âm thanh nhỏ đi: “Em… em chẳng qua cảm thấy có chút mất mặt.”
Chu Chẩm Nguyệt nhìn nàng chăm chú, nhẹ giọng nói: “Khóc trước mặt tôi, không mất mặt.”
Mục Tuyết Y khịt khịt mũi, đôi mắt ướt át nhìn cô: “Vậy chị không được đi.”
Chu Chẩm Nguyệt rũ mắt, lông mi phủ bóng ở dưới mi mắt.
“Tôi không đi.”
Mục Tuyết Y ậm ừ, kéo tay áo Chu Chẩm Nguyệt, để cô ngồi xuống bên cạnh mình, Chu Chẩm Nguyệt thuận theo ngồi xuống, nàng vẫn chưa chịu buông tay, vẫn bám chặt lấy ống tay áo của cô.
Chu Chẩm Nguyệt hơi do dự, vẫn quyết định rút ống tay áo ra khỏi đôi tay của Mục Tuyết Y, lại nâng tay lên, cúi đầu vuốt nhẹ chiếc khuy măng sét bằng đá mắt hổ cài trên ống tay, khẽ cau mày.
“… Cẩn thận tí đi, đừng làm hỏng nó.”