Bọn Vương Quới, Thang Hoài, Trương Hiển nhìn Nhạc Phi như muốn nói: XinNhạc huynh đừng khiêm nhượng nữa, chúng tôi cũng đang nóng lòng muốnnghe đây!
Biết không thể từ chối được, Nhạc Phi nói:
– Khitrước tôi có nghe tiên sư dạy rằng “Phàm kiếm chi lợi giả, thuỷ đoạngiao long, bộ hoa tây tượng. Hữu long tuyền“ Thái A, Bạch Hồng, Tử Điển, Mạc Gia, Cang Tướng, Ngư Trường, Cự Khuyết mỗi cây gươm đều có mộtnguồn gốc tiểu sử riêng của nó. Riêng cây gươm này hễ rút ra khỏi vỏ thì toát ra một hơi lạnh thấu xương, ấy quả thật là gươm thời Xuân Thu.
Ngừng một lát chàng tiếp:
– Hồi ấy Sở vương muốn thâu tóm các nước chư hầu, lại nghe đến nước Hànchỗ Thất Lý Sơn có tên thợ rèn Âu Dương chuyên môn đúc gươm, Sở Vươngvội sai người đến đòi y về triều phán:
– Trẫm đòi ngươi đến đây để nhờ ngươi rèn cho trẫm một cây gươm.
Thợ rèn Âu Dương tâu:
– Chẳng hay Đại vương muốn thứ gươm gì?
Sở Vương đáp:
– Trẫm muốn một cây Thư, một cây Hùng thật tốt, và hai cây gươm ấy phảibiết bay và tự bay đến giết địch thủ theo ý muốn của trẫm, chẳng biếtngươi có thể rèn được không?
Người thợ rèn nghĩ thầm:
– „Sở Vương này bạo ngược lắm, nếu không chịu thì bị giết ngay“.
Rồi vội quỳ tâu:
– Gươm ấy, kẻ tiện dân này có thể rèn được, nhưng phải tốn một thời gianlâu lắm e đại vương chờ không được, nghĩa là rèn gươm ấy phải tốn thờigian ba năm mới xong.
Sở Vương nói:
– Thời gian ba năm có lâu chi? Được rồi, ta hẹn cho ngươi ba năm phải làm xong cặp gươm báu này.
Nói rồi, vua truyền lấy gấm nhiễu cùng vàng bạc ban thưởng. Người thợ rèntạ ơn ra về nói cho vợ hay và để tiền bạc lại cho vợ, lên núi đúc gươm.Sau ba năm hắn đúc được một cặp gươm Thư, Hùng nhưng lại rèn them mộtcây gươm tầm thường nữa đem về bảo vợ rằng:
– Nay ta đến Sở quốc dâng gươm, nhưng ta tiên đoán rằng Sở Vương được gươm này sẽ giết ta mất.
Vợ hỏi:
– Tại sao vậy?
– Chỉ vì Sở Vương muốn một mình có gươm báu ấy thôi để thâu tóm các nướcchư hầu nên sợ ta truyền nghề cho kẻ khác nên phải giết ta. Vì thế tarèn thêm một cây gươm giả này để thay thế vào cây Hùng gươm kia cho đủcặp, còn cây Hùng gươm thật ta sẽ chôn giấu tại nhà.
– Để làm gì vậy?
– Vì vua Sở có một cây Thư thôi thiếu cây Hùng thì không thể bay được,vua Sở lại cho ta là dở nên giết ta. Mối thù ấy sau này con ta lớn lênsẽ dùng cây gươm này mà báo oán. Như hiền thê có hay được tin dữ thìđừng than khóc mà mang họa, đợi cho mãn kỳ thai nghén sinh con, nếu congái thì thôi, bằng con trai thì ráng nuôi nó để nó báo thù cho ta.
Dặn rồi, từ biệt vợ đi qua nước Sở dâng gươm.
Sở Vương thấy tên thợ rèn đến mừng rỡ cho đòi các quan văn võ họp tại giáo trường để thử gươm. Nhưng gươm không bay được, vua bị mất công chờ đợingót ba năm, nguồn hy vọng nay biến thành mây khói nên nổi giận truyềnquân giết chết tên thợ rèn ngay.
Vợ người thợ rèn nghe tin chồng bị Sở Vương giết cũng không dám khóc than. Thấm thoát đến tuần khai hoanhuỵ sinh được một trai. Khi đứa nhỏ được bảy tuổi, mẹ nó cho vào trường học. Một hôm nó gây lộn với bạn học, mấy đứa kia mắng:
– Mi là đứa không cha.
Thằng bé tức mình khóc, trở về hỏi mẹ cho biết cha mình đâu? Mẹ bèn kể hếtcâu chuyện xưa cho con rõ. Đứa bé sục sôi máu hận xin lãnh cây gươm vàmột mình mang sang nước Sở để rửa hận.
Đi đến Thất Lý San đường sáhiểm trở, đứa bé không biết đường nào đi nữa, nó ngồi khóc mãi, ba ngàysau con mắt chảy máu ròng ròng.
Bỗng có một lão đạo sĩ đi qua thấy thế thương hại hỏi:
– Vì sao cháu khóc đến nỗi chảy máu mắt như vậy?
Nó liền thuật lại câu chuyện sang nước Sở báo thù cho cha mà đến đây không biết đường đi.
Lão đạo sĩ nói:
– Mi còn nhỏ, còn Sở vương thì binh hùng tướng mạnh yểm hộ trước sau, làm sao mi báo thù được? Nhưng ngươi đã có chí như vậy thì ta cũng xin tình nguyện đi báo thù cho ngươi, nhưng muốn đạt được ý nguyện, ta cần dùngmột vật của ngươi chẳng biết ngươi có bằng lòng không?
Bằng giọng cương quyết, thằng bé nói:
– Ông có lòng tốt giúp tôi việc này thì dù ông muốn dùng cái đầu của tôi, tôi cũng xin dâng ngay lập tức.
– Đúng đấy, quả thiệt ta muốn dùng cái đầu của ngươi đấy, ngươi có bằng lòng không?
Thằng bé quỳ xuống ngửa cổ ra nói:
– Ông đã không ngại gian lao báo thù cho tôi thì cái đầu này đâu dám tiếc?
Ông đạo sĩ còn lưỡng lự thì thằng bé đã nhanh tay rút gươm tự vẫn. Ông đạosĩ vội cắt thủ cấp nó và cầm cây Hùng kiếm đi thẳng qua nước Sở.
Đến được cung vua, lão đạo sĩ cười lên ba tiếng ra vẻ khinh mạn rồi khóclên ba tiếng nghe thảm não. Quân sĩ thấy chuyện lạ kỳ như vậy vào báovua Sở hay. Vua Sở sai quân ra hỏi, đạo nhân đáp:
– Ta cười là cười cho thế gian không ai biết quý trọng người tài. Chính ta đây là thầy cho thuốc trường sinh bất lão đây.
Quân sĩ vào tâu lại cho Sở Vương hay, Sở Vương cho mời vào, đạo nhân lấy cái đầu thằng nhỏ giơ ra trước mặt Sở vương.
Sở Vương ngạc nhiên hỏi:
– Ấy là cái đầu lâu, sao ngươi gọi là thuốc trường sinh?
Đạo nhân bảo:
– Đây chính là thuốc trường sinh đấy chứ. Xin bệ hạ sai lấy vạc dầu đemtôi nấu cho mà xem. Nấu độ một khắc thì môi nó đỏ, răng nó trắng, chừnghai khắc thì mắt nó đỏ, răng nó trắng, chừng ba khắc thì mắt nó nháy,bốn khắc thì nó kêu lên danh tính nội trào, năm khắc thì cây Diệp Hà trổ ra hoa, đến sáu khắc thì biến thành bụi sen, bảy khắc sen ấy có hột, ăn mỗi hột, sống được một trăm hai chục tuổi.
Sở Vương nửa tin nửangờ, sai đem vạc dầu ra, lão đạo nhân thực hiện thì quả nhiên đến bảykhắc có trổ hột sen, cả triều đình văn võ bá quan đều khen ngợi.
Đạo nhân chắp tay mời vua Sở xuống hái hột sen mà lấy thuốc trường sinh.
Sở Vương mừng quá bước xuống chẳng đề phòng, bị đạo nhân rút gươm ra chémmột nhát đầu rơi vào vạc dầu. Các quan văn võ thấy vậy liền áp tới bắttên hành thích, nhưng lão ta tự chặt đầu mình trước. Cái đầu lão ta cũng rớt chung vào vạc dầu ấy. Các quan vớt ra thì ba cái đầu ấy giống hệtnhư nhau không biết cái nào là của Sở Vương cho nên phải đem chôn hết cả ba cái đầu vào một chỗ. Bởi vậy lời xưa có nói “Sở hữu tam đầu mộ”,nghĩa là: Nước Sở có cái mả ba đầu. Còn cây gươm ấy để đến nay tên làTrảm Lư, qua triều Đường thì về tay Tiết Nhân Qúy, chẳng biết sao đếnnay lại về tay ông.
Sự tích gươm này theo tôi được biết là như vậy, chẳng biết có đúng không?
Châu Tam Huý nghe qua mừng rỡ bảo:
– Quả thật tinh sinh là người thông kim, bác cổ, quảng văn.
Vừa nói, Tam Huý vừa cầm gươm đứng dậy dâng lên hai tay nói với Nhạc Phi:
– Cây gươm này thất lạc đã lâu đời, nay gặp được người biết, tất nhiên là chủ của nó, vậy xin tiên sinh hãy thâu nhận để ra công giúp nước, thìtôi mãn nguyện vì đã thực hiện lời dặn dò của ông tôi.
Nhạc Phi cũng đứng dậy khiêm nhường từ chối:
– Vật báu của người khác, tôi đâu dám lãnh?
Châu Tam Huý nói:
– Đây chỉ là tiền nhân tôi dạy bảo, tôi đâu dám trái lời.
Nhạc Phi từ chối năm bảy phen rồi mới chịu nhận gươm. Chàng bái tạ Châu TamHuý rồi xin kiếu từ ra đi mua gươm cho các sư đệ mỗi người một cây.
Khi về đến quán trọ trời đã sẩm tối. Cơm nước xong, Nhạc Phi kêu chủ quán dặn:
– Việc thi cử của chúng tôi ba năm mới có một kỳ, vậy xin người hãy locơm nước cho sớm để sáng mai anh em tôi nhập trường cho kịp.
Chủ quán nói:
– Xin chư vị chớ bận tâm, việc ấy tôi hứa sẽ lo chu đáo.
Trống vừa điểm canh tư, chủ quán đã gọi anh em dậy dùng cơm, đoạn sửa soạnthương giáp chỉnh tề cùng nhau thẳng đến giáo trường.
Đến nơi đã thấy võ sinh từ các tỉnh về tề tựu đông đảo. Nhạc Phi nói nhỏ với chư huynh đệ:
Chỗ này đông đúc, ồn ào quá, chúng ta hãy tìm chỗ khác nghỉ, chờ gọi đến tên sẽ nhập trường.
Chợt thấy một người quảy gánh chạy vào gọi:
– Nhạc tướng công đâu?
Vương Quới ứng tiếp đáp:
– Có đây.
Tên quân để gánh xuống nói:
– Thức ăn trong gánh này của Tông Lưu Thú lão gia sai tôi đem đến cho các vị dùng đỡ đói.
Anh em Nhạc Phi đều bái tạ rồi cùng nhau ngồi lại ăn uống.
Trời vừa sáng, đã thấy ba quan chủ khảo: Trương Bang Xương, Vương Đạt vàTrương Tuấn đến giáo trường trước, còn ông Tông Trạch chậm bước đến sau. Mấy ông mời nhau ngồi trà nước xong, Trương Bang Xương hỏi Tông Trạch:
– Tông đại nhân, người môn sinh của đại nhân ghi vào bảng rồi chứ?
Tông Trạch nói:
– Môn sinh của tôi là ai đâu?
Trương Bang Xương nói:
– Tên Nhạc Phi ở Thang Âm huyện không phải là môn sinh của đại nhân là gì?
Tông Lưu Thú nghe nói biến sắc mặt, đáp:
– Việc này là quốc gia chọn anh tài để ra gánh vác giang san chứ khôngphải chúng mình khảo thi riêng, vậy thì trước khi khảo hạch, chúng tanên lập bàn tuyên thệ để chứng tỏ là công tâm, công đức.
Nói rồi vội sai quân sĩ lập bàn đốt nhanh đèn lên. Tông Lưu Thú quỳ lạy trời đất rồi cất tiếng thề:
– Tôi là Tông Trạch ở Tích Giang, Kim Huê phủ, Nghĩa Điền huyện, đượcThiên Tử giao cho nhiệm vụ khảo hạch võ sinh chỉ lấy công tâm mà chọnhiền tài. Như tôi có lòng khi quân ngộ quốc, ăn hối lộ, thì cho tôi thác về nghiệp đao tiễn.
Tông Trạch thề rồi mời Bang Xương cùng thề với mình. Bang Xương nghĩ rằng:
– “Lão này sao lại bày ra chuyện thề nguyền làm chi, nếu mình không thề ắt lão ta nghi kỵ”.
Nghĩ đoạn, lão ta quỳ xuống lẩm bẩm:
– “Tôi là Trương Bang Xương ở Hồ Quảng, người Huỳnh Châu, nhờ thánh âncho làm giám khảo võ sinh, nếu như tôi có khi quân ngộ pháp, ăn của hốilộ thì cho tôi đời này hoá thành con lợn của phiên bang, chiết vì đaokiếm”.
Bang Xương thề xong tự nghĩ:
– “Ta đường đường là một quan đại thần thế này thì đời nào có thể làm lợn Phiên bang sao?”
Nghĩ vậy nên lão lấy làm đắc kế cho lời thề của lão, còn Tông Lưu Thú thì cố bày ra việc thề nguyền như vậy để chứng tỏ lòng mình ngay thẳng mà thôi chứ không thèm để ý đến lời thề của Bang Xương lèo lá ra sao.
Khi Bang Xương thề xong, Vương Đạt cũng quỳ xuống nói:
– Tôi là Vương Đạt cùng ở một làng với Bang Xương, lòng tôi có khi quân thì cho tôi hoá ra làm dê mà cùng thác như vậy.
Trương Tuấn thì thề rằng:
– Tôi là Trương Tuấn ở Nam Trực Lệ, người Thuận Châu, nếu tôi có lòng khi quân thì tôi chịu chết nơi miệng muôn người.
Ba lời thề của ba người thật là kỳ quặc, chúng tưởng thề như vâỵ cho quachuyện, ngờ đâu về sau lời thề ấy ứng nghiệm chẳng sai.
Khi bốn vị chủ khảo tuyên thệ xong liền lên ngồi chỗ cũ. Tông Lưu Thú nghĩ thầm:
– Thế nào bọn này cũng vị tình để cho Sài Vương giật giải Trạng võ chớchẳng không, chi bằng ta đòi Sài Vương đến khảo hạch trước.
Nghĩđoạn, sai kỳ bài quan ra đòi võ sinh tên Sài Quế ở Nam Ninh Châu đếnngay. Một lát sau Sài Quế bước vào xá Tông Lưu Thú rồi đứng lại một bênchờ lệnh.
Tông Lưu Thú hỏi:
– Có phải ngươi là Sài Quế không?
– Dạ phải.
– Ngươi đã đến đây chịu khảo thí sao chẳng quỳ? Nếu muốn cướp bảng đềdanh thì phải làm theo nghi lễ, bằng cứ hợm mình là một vị Phan vươngkhông chịu khảo hạch thì ta mời ngồi khỏi phải thi cử gì. Ta thiết tưởng người đã tới bực Vương hầu rồi lại nghe lời sàm nịnh tranh giành chứcVõ Trạng làm gì? Có ai bỏ địa vị lớn theo đuổi chức vụ nhỏ nhen không?Hơn nữa chốn này là tứ phương anh hùng đủ mặt, chẳng lẽ không có kẻ caocường, có đâu lại để chức Võ Trạng về tay người được? Chi bằng đừng màng chi việc ấy, danh vọng mình có mất đi đâu. Ngươi nghĩ kỹ xem lời ta nói có phải chăng?
Sài Quế đành ngậm miệng không biết nói gì hơn, vội quỳ xuống ngay.
Vì sao Sài Quế đang đường đường một vị Phan vương lại hạ mình tranh chứcVõ Trạng và chịu nhục như vậy. Nguyên vì khi trước, Sài Vương đi vềtriều chầu Thiên tử, khi đi ngang qua núi Thái Hành có một tên cướp cầmKim Bối Đao xưng là Kim Mao Đại Vương tên là Vương Thiện, sức địch muônngười, xung quanh hắn có bọn bộ hạ tâm phúc là Mã Bảo, Hà Lục, Hà Nhân,lại còn có tả hữu quân sư là Lưu Võ và Điền Ký.
Toàn là những bọntúc trí đa mưu tụ tập lâu la hơn ngàn vạn tên chiếm cứ núi Thái Hành,cướp phá nhiều nơi, nhưng quan binh không làm gì nổi.
Vương Thiệnlại muốn cướp đoạt cả giang sơn của nhà Tống, ngặt vì không người nộiứng. Ngày kia Sài Vương nhập triều, Vương Thiện mời vào trà nước tử tếrồi Quân sư Điền Kỳ nói:
– Buổi Nam Đường suy thoái thì bị TriệuKhuông Dẫn lập mưu soán đoạt thâu tóm thiên hạ. Đến nay Đại Vương bấtquá chỉ là một ông Phan Vương còn phải xưng thần quì bái. Nay tôi đâybinh nhiều, lương đủ sao Đại vương không về triều thông mưu với kẻ gianthần đoạt cho được chức Võ Trạng nắm binh quyền trong tay làm nội ứngrồi gửi cho tôi một phong thư, tức tốc tôi đem binh giúp cho Đại vươngdấy nghiệp. Kế ấy có phải là hay không?
Vương Thiện và quân sư hắnnói vậy là để lừa Sài Quế chớ lẽ nào khi nên việc rồi Vương Thiện lại để cho Sài Quế làm vua sao? Thế mà Sài Quế ngây thơ đem lòng mừng rỡ đáp:
– Lời của các khanh thật là chí lý, để cô gia về triều sẽ tính. Như thành công rồi thì cô gia với các khanh cùng hưởng.
Vương Thiện mừng rỡ bày tiệc thiết đãi rồi đưa Sài Quế xuống núi. Khi về đếnkinh thành, Sài Quế bèn hối lộ với các vị chủ khảo. Mấy tên gian thầnđều nhận của lót bằng lòng cho Sài Quế đoạt chức Võ Trạng, duy chỉ cómột mình Tông Lưu Thú là lòng ngay, dạ thẳng quyết tâm chọn anh tài nênkhông chịu nhận, ông lại biết rõ mấy vị đại thần kia ăn hối lộ nên ôngchỉ mặt Sài Quế nói mấy điều làm cho Sài Quế cứng họng quỳ gối làmthinh.
Trương Bang Xương thấy thế giận lắm, nghĩ thầm:
– “Lão ta chơi cú xỏ như vậy, để ta cũng đòi môn sinh của lão ra mắng cho bõ ghét”.
Bang Xương vội sai kỳ bài quan ra đòi Nhạc Phi ở Thang Âm huyện vào. NhạcPhi bước vào thấy Sài Quế quì trước mặt Tông Lưu Thú, chàng cũng đến quì trước mặt Trương Bang Xương.
Bang Xương hỏi:
– Ngươi là Nhạc Phi phải không?
– Vâng, Nhạc Phi chính tên tôi.
Bang Xương nhìn chàng từ đầu đến chân rồi bĩu môi nói:
– Ta xem hình thù ngươi chẳng phải con nhà võ, mong gì đạt được chức Trạng võ?
Nhạc Phi đáp:
– Tiểu sinh đâu dám mong đoạt chức ấy, và chăng trong hội thi này hàngmuôn ngàn cử tử đến đây chịu khảo hạch ai lại chẳng muốn đoạt chức Trạng võ, nhưng có phải ai đi thi cũng đoạt được sao? Vì thế đã là võ cử thìphải tuân theo luật lệ mà ứng thí, chứ tôi đâu dám vọng tưởng?
Trương Bang Xương tưởng kiếm chuyện mắng Nhạc Phi cho đã giận, ngờ đâu chàngtrả lời trôi như nước chảy khiến lão ta lúng túng bèn nói:
– Vậy thì bây giờ khảo hạch hai người này trước rồi sau sẽ khảo hạch người kia.
Rồi Bang Xương quay lại hỏi Nhạc Phi:
– Ngươi dùng binh khí gì?
– Dạ tôi dùng cây thương.
– Còn Sài Quế, dùng món binh khí gì?
– Tôi thì dùng đao.
Bang Xương liền bảo Nhạc Phi làm bài thương luận còn Sài Quế thì làm bài đao luận.
Hai người vâng lệnh vội hạ bút ngay giữa giáo trường.
Tài văn học của Sài Quế cũng không phải dở lắm, xong vì bị Tông Trạch nhụcmạ nên lửa giận bốc lên tối tăm cả mặt mày, tay chân run rẩy khiến chữviết không minh bạch, chữ đao không ra chữ đao, chữ lực không ra chữlực. Cho nên bài thương luận của Nhạc Phi được dâng lên trước còn bàiđao luận của Sài Quế phải dâng sau.
Bang Xương xem bài của Sài Quếtrước rồi đút vào tay áo mới xem bài của Nhạc Phi sau. Ông ta thấy bàicủa Nhạc Phi nghĩa lý cao siêu, chữ lại tốt nên nghĩ thầm:
– Người này văn học có kém chi ta, hèn chi lão Tông Trạch yêu chuộng cũng phải.
Tuy nghĩ vậy nhưng ông cũng vẫn nạt lớn:
– Chữ nghĩa của ngươi như vầy mà dám tranh chức Trạng võ?
Dứt lời lại quăng bài xuống đất truyền quân đuổi ra.
Quân sĩ vừa ra tay, Tông Trạch nạt lớn:
– Hãy khoan, còn phải đợi lệnh ta nữa mới được thi hành.
Quân sĩ thấy quan Tông Lưu Thú quát, vội dãn ra chẳng dám trái lệnh.
Rồi Tông Trạch bảo quân sĩ lấy bài của Nhạc Phi đem cho mình xem. Quân sĩđứng nhìn nhau chẳng ai dám đi lấy vì sợ Trương Thái sư giận. Nhạc Phithấy vậy vội lấy dâng lên.
Tông Trạch trải bài thi lên bàn xem thì thấy lời lẽ như vàng đá, chữ viết như hạt châu. Tông Trạch nghĩ thầm:
– Ai ngờ kẻ gian thần nó khinh tài mà trọng lợi như vậy!
Liền lấy bài Nhạc Phi cất rồi hỏi Nhạc Phi:
– Tài năng ngươi như vậy mà vọng cầu công danh sao? Vậy ngươi có biết TôTần dâng thư vạn chữ và Ôn Đình Huân làm bài Nam Huê phú không?
Sởdĩ Tông Trạch hỏi Nhạc Phi hai câu ấy là vì khi trước Tô Tần đến nướcTần, Thương Ưởng thấy người tài cao thì ghét, lại sợ Tô Tần tài giỏichiếm đoạt quyền thế của mình nên không dùng Tô Tần mà chỉ dùng TrươngNghị thôi. Còn ông Ôn Đình Huân là người nước Tấn khi vua Tấn mời thừatướng Hoàn Văn vào ngự chốn hoa viên để xem hoa Nam Huê và truyền làmbài phú cho ngài xem. Hoàn Văn xin đem về nhà làm và sáng hôm sau đemnạp, chỉ vì Hoàn Văn không làm được bài ấy nên đem về mượn người trongnhà là Ôn Đình Huân làm hộ. Khi Ôn Đình Huân làm xong, Hoàn Văn xem quathất kinh nghĩ thầm:
– Trong đời này lại có người tài giỏi đến thế, nhất định người này trước sau gì cũng được trọng dụng và khi ấy sẽ đoạt mất quyền thế của mình. Vì vậy ông bỏ thuốc độc giết chết ông Huân ngay rồi mang bài phú dâng vua bảo là của mình làm, ấy là những chuyện ghenghét kẻ hiền tài.
Khi Bang Xương nghe ông Tông Trạch hỏi Nhạc Phihai câu ấy thì biết rằng Tông Lưu Thú đã mắng khéo mình trong lòng vừahổ thẹn vừa giận dữ nên đã quyết kiếm chuyện làm khó dễ cho Nhạc Phi.