Sau khi Khung Dực về tới Khúc Băng chừng nửa tháng, tuyết cũng bắt đầu ngừng rơi, báo hiệu mùa đông đã đi về cuối. Những ngày trời có nắng đẹp cũng nhiều hơn, mặt đất cũng không còn là một màu trắng xóa mà đã bắt đầu lộ ra sắc xanh của cỏ non, của cây lá đâm chồi nảy lộc.
Những ngày này ngoài việc luyện binh như thường lệ, Khung Dực còn cho người điều tra thêm tin tức của Hỏa Xà, tuy nhiên tạm thời vẫn chưa có thêm gì mới. Con Hỏa Xà đó vẫn chỉ là một linh vật trong những lời sấm truyền của dị tộc, có người tin có người không. Chỉ có một điều chắc chắn rằng rất nhiều năm nay chưa ai tận mắt nhìn thấy nó bao giờ.
“Kỷ Phong, chắc chúng ta phải vào sâu trong núi để tìm nó thôi.” Khung Dực đưa mắt nhìn lên Tuyết Nhạn, đỉnh núi quanh năm một màu trắng xóa rồi nói.
Chuyện Hỏa Xà này trong Nhạn Quân tạm thời chỉ có Khung Dực và Kỷ Phong biết. Từ sau lần năm đó giả thương nhân, giả say rượu rồi moi được tin từ đám người tộc Kỉ Di, tộc Dao Tán, hai người bọn họ vẫn một mặt giữ kín, một mặt âm thầm điều tra.
Kỷ Phong kinh ngạc quay lại nhìn Nhị vương tử nhà hắn: “Cái gì?”
Khung Dực trầm ngâm không đáp. Hắn cũng biết rõ làm vậy quá mạo hiểm, quá khinh suất. Chưa nói đến việc có thể sẽ tìm không thấy, gặp được nó rồi thì thế nào? Lời sấm nói khi nó xuất sơn, Đại Thương sẽ vong, tộc Hồ cũng diệt, chứng tỏ nó là một con vật cực kỳ nguy hiểm. Tuy nhiên thẳm sâu trong lòng, Khung Dực lại có một ý niệm điên rồ rằng hắn sẽ lùng giết bằng được con rắn đó, chặn lại điềm báo vong quốc của Đại Thương.
Việc mở cõi ban đầu xuất phát từ lý tưởng chinh phục những miền đất mới của riêng mình hắn, đến bây giờ lại biến thành xâm lược lãnh thổ của người kia. Nếu con Hỏa Xà kia chết rồi, vậy có phải việc nam tiến cũng sẽ không cần nghĩ đến?
Nhị vương tử thở dài, xoay lưng nhìn về phía Vương Đô. Hắn biết rõ, từ đây không thể nhìn thấy vùng đất xinh đẹp đó, nhưng vào những ngày nắng đẹp trời trong, từ Vương Đô chắc chắn sẽ thấy ngọn núi này.
Giờ này người kia đang làm gì nhỉ?
Thấm thoắt đông qua xuân tới, các nơi bước vào mùa thu hoạch vụ đông xuân. Lúc này đã tầm tháng tư, khí trời mát mẻ, trăm hoa đua nở trên rừng dưới ngõ, thế nhưng tâm trạng của Nhị vương tử lại chẳng tốt chút nào. Lý do là vì năm nay cả Khúc Băng lẫn dải Chinh Sa đều không được mùa.
Hai vùng đất này trồng được ít loại lương thực hơn Vương Đô, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ có lúa mì, lúa mạch và vài loại khoai, dăm ba loại rau củ thông thường. Lúa gạo thì chỉ có Vương Đô trồng được, thế nên năm nào không được mùa thì việc quân lương chỉ có thể trông chờ Vương Đô tiếp ứng.
Từ khi Khung Tuấn nêu ra vấn đề quân lương và ảnh hưởng to lớn của nó đối với tính khả thi của việc mở cõi, đặc biệt là thành lập đội quân chinh tây, đội quân vượt biển, Khung Dực luôn để tâm suy nghĩ việc này. Hôm nay hắn đặc biệt cùng phó tướng Nhạn Quân là Lâm Sách đi thăm đồng lúa mì, lúa mạch của Khúc Băng. Khung Dực bước xuống sát mép ruộng, đưa tay ngắt một bông lúa mì chín vàng rồi tước một ít hạt ra bàn tay.
Lâm Sách đứng bên cạnh bảo: “Năm nay hạt không mẩy lắm. Thửa này còn đỡ, mấy thửa bên kia còn bị vỡ, bị rụng sớm, hạt khô nữa.”
Khung Dực đưa hạt lúa lên miệng cắn thử. Đúng là hạt không mẩy.
“Nếu muốn giải quyết việc quân lương lâu dài, Khúc Băng và Chinh Sa phải tự cung cấp được phần lớn quân lương, nếu không muốn nói là gần như toàn bộ. Chúng ta không thể cứ mãi trông chờ vào cứu viện từ Vương Đô.” Nhị vương tử trầm ngâm.
Lâm Sách tỏ ý khó xử: “Thống Lĩnh nói phải, nhưng làm sao mà thực hiện? Mấy năm trước chúng ta có thử trồng một ít lúa gạo nhưng khí hậu quá khô, trồng không được. Mấy loại lương thực hoa màu hiện giờ sống nổi đã là may mắn lắm rồi. Chúng ta cũng đâu phải như Vương Đô, có đất đai màu mỡ tốt tươi, có ngô ngọt trái vừa to vừa chắc, còn lúa mì thì năm nào cũng căng mẩy chín vàng.”
Ngô ngọt của Vương Đô?
Khung Dực chợt đứng phắt dậy. Hắn vừa nghĩ ra một ý, nếu có thể thực hiện thì đối với hắn mà nói, chuyện công lẫn chuyện tư đều tốt. Thế nhưng… không biết người kia có nguyện ý hay không? Vả lại, trong tương lai nếu Đại Thương thật sự xuất binh đánh chiếm Kinh Lạc, những việc hắn định nhờ người kia làm quả thật… có chút khốn nạn.
Tối đó Khung Dực suy nghĩ rất lâu, sau cùng vẫn quyết định chạy về Vương Đô một chuyến. Nếu người đó không đồng ý cũng không sao, đã bốn tháng rồi, cũng nên về thăm người ta như lời đã nói.
Sáng hôm sau, Nhị vương tử thân khoác binh phục, vai quấn khăn mỏng thay áo choàng, trong gió xuân phơi phới cưỡi ngựa quay về Vương Đô.
Cùng lúc này ở sâu trong thôn bản Hồ tộc trên Tuyết Nhạn, Hồ Nhất Niệm đang cau mày nhìn vào vật vừa mới được dâng lên. Hắn đưa tay sờ thử, lật đi lật lại xem rồi ngẩng lên hỏi thuộc hạ: “Là ai tìm thấy?”
“Bẩm đương gia, là một toán tiều phu hay đi sang mạn rừng phía tây đào tuyết sâm. Bọn chúng nhìn thấy nó trên mặt đất, liền nhặt mang về đây.”
“Lúc đó họ có nhìn thấy gì khác không? Xung quanh có gì bất thường không?”
“Bẩm đương gia, có vẻ như không ạ.”
Hồ Nhất Niệm đứng dậy, giắt dao găm bên hông, đeo cung tên lên vai rồi bước ra ngoài. “Đưa ta đi gặp bọn chúng. Việc này tuyệt đối không được truyền ra cho ai khác biết, rõ chưa?”
“Tuân lệnh!” Tên thuộc hạ ngập ngừng một lát rồi hỏi: “Đương gia có phải cũng nghĩ, thứ này là của Hỏa…”
“Câm miệng!” Hồ Nhất Niệm quắc mắt khiến tên kia lập tức cúi đầu im bặt. “Trước khi chưa điều tra rõ ràng, không được suy đoán lung tung.”
Đi được một chốc, hắn nhỏ giọng hạ lệnh: “Tập hợp những tay thợ săn giỏi nhất trong bản, dắt theo vài con chó dò đường. Ngày mai chúng ta sang mạn phía tây xem thử.”
Tối hôm đó, sau khi tra hỏi đám tiều phu xong, Hồ Nhất Niệm quay về căn nhà gỗ của hắn. Tuy là một đại đương gia nhưng hắn lại khá giản dị, chỉ ở một căn nhà gỗ nhỏ nằm ở rìa nam của bản, gần với một trong các đường mòn dẫn xuống núi. Hắn cài then cửa cẩn thận rồi nhún nhẹ chân, hai tay bám lên xà nhà. Mò mẫm một chút, hắn đã lôi ra một ống tre bọc da, bên trong chứa rất nhiều cuộn giấy nhỏ. Hắn thổi bớt đèn, chỉ để lại một ngọn nến leo lắt rồi từ từ trải những cuộn giấy đó ra, soi dưới ánh nến, nhìn nét chữ mà hắn đã thuộc đến nằm lòng. Ngày mai sẽ là một chuyến đi cực kỳ nguy hiểm. Nếu bọn họ thật sự gặp được thứ mà bọn họ nghĩ, chưa biết hắn có thể toàn mạng quay về hay không.
Hồ Nhất Niệm xếp gọn mớ giấy đó vào trong ống, giấu lại chỗ cũ trên xà nhà. Xong xuôi, hắn lại lôi một cuộn da nhỏ ra, hạ bút viết xuống hai dòng. Bình thường hắn và người đó chỉ trao đổi cực kỳ ngắn gọn, đêm nay Hồ Nhất Niệm lại có chút không đành lòng, nghĩ đi nghĩ lại bèn viết thêm ba chữ.
Hãy yên tâm.
Hắn nhất định phải sống sót quay về.
Thời tiết mát mẻ thuận lợi, Khung Dực đi hơn hai ngày là đã nhìn thấy những trang trại vàng óng của ngoại ô Vương Đô. Hắn cho Tiểu Hổ phi chậm lại một chút, đồng thời đưa mắt ngắm nhìn những ruộng lúa mì chín vàng trĩu hạt dập dìu sóng lượn dưới ánh hoàng hôn. Đúng là đất đai, khí hậu ưu đãi nơi này. Ngay cả ruộng nho, ruộng ngô kế bên cũng vô cùng xanh tốt.
Đang mải ngắm nhìn, bất chợt hắn nghe một giọng cười trong trẻo từ phía giữa ruộng ngô vọng lại. Giọng cười cứ như thanh âm khi hai chiếc vòng ngọc thượng hạng khẽ chạm vào nhau. Khung Dực dừng ngựa, đưa mắt kiếm tìm.
Ngọc Huyên hôm nay vận một tấm áo lụa màu lục nhạt, áo bên trong màu trắng thuần, tóc dài thả ra chỉ cột một nửa sau đầu. Trên tay y ôm một giỏ đầy ắp những bắp ngô xanh mướt, chắc mập, vừa đi vừa trò chuyện với hai ba người nông dân khác, vẻ mặt cực kỳ vui vẻ. Chỉ mới không gặp nhau bốn tháng mà trông y dường như lớn hơn một chút, cũng cao hơn một tẹo.
Khung Dực thấy tim đập rộn ràng, hơi thở cũng gấp gáp hơn. Hắn chụm hai tay lên miệng bắt thành một chiếc loa nhỏ rồi gọi: “Ngọc Huyên!”
Chất giọng cứng cáp của hắn truyền đến bên tai, Ngọc Huyên giật mình ngẩng lên dõi mắt nhìn về phía phát ra tiếng gọi. Khi ánh mắt chạm được vào nhau, Khung Dực mỉm cười.
Ngọc Huyên từ ngỡ ngàng chuyển sang vui sướng, bật thốt ra một tiếng reo gì đấy, nhưng mà khoảng cách quá xa, Khung Dực nghe không được. Y đặt giỏ ngô xuống đất rồi chạy vội ra rìa thửa ruộng. Khung Dực cũng vội vàng nhảy xuống ngựa mà sải những bước dài đến bên y.
Khi còn cách nhau chừng năm sáu bước chân, Ngọc Huyên như sực nhớ ra điều gì. Y không chạy nữa mà vội vàng lấy lại bình tĩnh, chân cũng thả bước chậm hơn, chỉ có nụ cười và niềm vui long lanh trong mắt là không hề che giấu.
“Nhị vương tử, ngài đã về rồi sao?”
Khung Dực hơi khựng lại, lòng có chút mất mát. Chẳng phải lần trước khi chia tay hắn đã chuyển sang dùng cách xưng hô đầy tình cảm của Kinh Lạc mà gọi người ta rồi sao, sao người ta vẫn còn dùng cách xưng hô đầy xa cách này với hắn chứ?
“Ừ, ta về rồi.” Mặc dù vậy, hắn vẫn giấu đi cảm xúc mà cười tươi với Ngọc Huyên. “Sao em lại ở đây?”
Ngọc Huyên định trả lời nhưng lại thoáng có chút phân vân, bối rối. Hai má của y cũng rạng hồng dưới ánh tà dương.
“À… Em… Ngọc Huyên đang cùng nông dân thu hoạch ngô ngọt ạ. Đây là loại ngô ngọt mà Ngọc Huyên đã nghiên cứu rồi đề xuất cách canh tác mới, đã bắt đầu áp dụng từ mùa thu vừa rồi ạ.”
Khung Dực thấy y bối rối và xấu hổ lựa chọn cách xưng hô, trong lòng cũng mềm lại. Thôi vậy, khi nào người ta sẵn sàng, người ta nguyện ý thì gọi, hắn sẽ không ép.
“Nhị vương tử nhìn này!” Ngọc Huyên vui vẻ chỉ vào một cây ngô gần đó. “Lần thu hoạch này cho kết quả cũng rất tốt, bắp ngô chắc và to, khỏe. Lát nữa Ngọc Huyên lấy một ít về luộc lên thử xem ăn có ngọt không, còn lại có thể dùng làm bánh ngô hấp hoặc bánh ngô chiên tẩm đường, Tiểu Huyền sẽ rất thích.”
Khung Dực mỉm cười, đưa tay vén những lọn tóc lòa xòa trước trán của người kia: “Ngọc Huyên thật giỏi. Ta cũng rất thích.”
Nhị vương tử không cố ý thốt ra những lời mập mờ như thế, cơ mà nói rồi hắn cũng chả hối hận là bao. Dù sao hắn cũng nói thật mà, cách hiểu nào cũng là thật hết.
Ngọc Huyên da mặt mỏng, quả nhiên đỏ mặt bối rối, y bèn cố gắng chuyển đề tài: “Nhị vương tử… ngài đang chuẩn bị về Trích Nguyệt sao?”
Dĩ nhiên là đang về cung rồi, Khung Dực bật cười. “Ừ, về cùng nhau nhé?”
Sau bốn tháng, Ngọc Huyên có vẻ đã hoàn toàn thu phục được Tiểu Bạch. Y đeo giỏ ngô lên vai rồi nhẹ nhàng nhảy lên lưng nó, khi đã yên vị thì cúi xuống khẽ vuốt bờm nó mấy cái rồi cười bảo: “Chúng ta về nhé, Tiểu Bạch.”
Trong nắng chiều dịu dàng mà vàng rực, Khung Dực cùng Ngọc Huyên cưỡi ngựa sánh vai nhau đi, phía sau có hai tên lính gác biết điều mà giữ khoảng cách kha khá. Khung Dực quay đầu lại nhìn bọn chúng tỏ ý hài lòng rồi lại liếc sang nhìn trộm người kia. Dưới ánh hoàng hôn, cả người y như phủ một lớp vàng óng ánh. Thiếu niên trẻ tuổi rạng rỡ ngồi trên lưng con hắc mã, mắt lấp lánh như sao, thật đẹp.
“Mấy tháng qua, Nhị vương tử vẫn khỏe chứ? Có vất vả không?” Ngọc Huyên quay sang hỏi.
“Không vất vả, ta quen rồi.” Khung Dực cười, mắt vẫn ngắm người nọ. “Ngọc Huyên, thật ra lần này ta quay về là có việc muốn hỏi em. Nói cho đúng thì… ta có việc cần nhờ em giúp.”
“Sao ạ?” Ngọc Huyên ngạc nhiên quay sang nhìn hắn.
Trong tiếng vó ngựa lộc cộc, Khung Dực chậm rãi kể đầu đuôi sự tình cho Ngọc Huyên nghe. Khi vừa kể xong thì cũng đã về đến Trích Nguyệt từ bao giờ. Cả hai xuống ngựa, toan dắt vào chuồng thì chợt có tiếng gọi sau lưng vang lên:
“Nhị đệ, Ngọc Huyên?”
Quay lại bắt gặp vẻ mặt vô cùng ngạc nhiên của Khung Tuấn, Ngọc Huyên có chút giật mình nơm nớp. Dù gì y cũng chưa hề nói qua với Khung Tuấn việc y biết cưỡi ngựa, mà cũng không rõ Đại vương tử có biết hay không. Khung Dực trái lại hoàn toàn bình tĩnh, hắn khẽ bảo Ngọc Huyên dắt Tiểu Hổ và Tiểu Bạch vào chuồng trước rồi về cung, tối nay Khung Dực sẽ ghé qua ăn tối cùng hai người Ngọc Huyên và Tiểu Huyền.
Ngọc Huyên cúi chào Khung Tuấn rồi quay đi, mới được hai bước thì Khung Dực chợt níu tay áo y lại: “Chuyện lúc nãy…”
Ngọc Huyên như nhớ ra, quay đầu lại mỉm cười với hắn, mắt đong đầy ý tứ dịu dàng: “Dĩ nhiên là Ngọc Huyên bằng lòng rồi ạ.”
Khung Dực thở phào một hơi, lòng tràn ngập niềm vui khó tả, trước khi buông ống tay áo người ta ra còn làm như vô tình khẽ chạm vào bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại kia một cái.
Mọi diễn biến này Khung Tuấn không thấy cũng không nghe được, hắn chỉ đứng từ xa, nén giận chờ nhị đệ cho mình một câu trả lời.
“Đại ca.” Khung Dực đợi Ngọc Huyên đi khuất rồi bước lại.
“Đệ dạy y cưỡi ngựa?” Khung Tuấn hỏi luôn, giọng nói tỏa ra hơi lạnh. Không nói đến Hoàng đế, khắp Đại Thương này kẻ có gan làm trái ý Đại vương tử chỉ có mỗi Nhị vương tử mà thôi.
Lần này Khung Dực quay về kinh đô mà chưa thông báo với phụ hoàng lẫn đại ca, thế mà Khung Tuấn cũng chẳng mảy may để ý nguyên do, chỉ lập tức hỏi thẳng đến việc Ngọc Huyên cưỡi ngựa, chứng tỏ hắn cực kỳ lưu tâm.
“Đúng vậy đại ca. Y cũng lớn rồi, đâu thể suốt ngày đi cùng huynh được, huynh còn bận trăm công nghìn việc. Vả lại, đệ cũng cần y có thể chủ động đi lại một chút, đệ có việc cần y làm.”
“Là việc gì?” Khung Tuấn nhíu mày, vẫn chưa vừa lòng lắm với cách giải thích của nhị đệ mình.
“Chúng ta đi gặp phụ hoàng luôn đi, việc này cần người chuẩn tấu.”
Lát sau, trong cung điện của Hoàng đế, Khung Vũ tỏ vẻ ngạc nhiên mà hỏi lại Khung Dực:
“Con muốn đem Ngọc Huyên đến Khúc Băng để y giúp nghiên cứu cách cải thiện hoa màu?”
Nhị vương tử vòng tay, cúi đầu: “Bẩm phụ hoàng, đúng vậy. Ngọc Huyên có vẻ có năng khiếu, vả lại chẳng phải vừa rồi y cũng đã giúp cải tiến năng suất của ngô ngọt Vương Đô đó sao?”
Khung Tuấn tỏ vẻ hoài nghi: “Quả thật là vậy, nhưng dù sao khí hậu và địa chất của Vương Đô cũng khác Khúc Băng nhiều. Chưa chắc y có làm được hay không…”
Khung Dực điềm nhiên đáp: “Không thử làm sao biết? Chúng ta tạm thời cũng chưa có giải pháp gì tốt hơn kia mà?”
Lần này thì Khung Tuấn không nói gì nữa, dù sao tiếp tục phản đối cũng không có lợi gì. Hắn không tin Ngọc Huyên có thể xoay chuyển càn khôn, mảnh đất đó bao nhiêu năm nay đã khô cằn giá lạnh như vậy rồi.
Hoàng đế thì ánh mắt có chút xa xăm, dường như ngài đang hồi tưởng lại việc gì trong quá khứ. Thấy phụ hoàng suy tư, Khung Dực quyết tâm thuyết phục:
“Chỉ cần Khúc Băng cải thiện được vấn đề lương thực thì áp lực chu cấp của Vương Đô sẽ giảm đáng kể, hơn nữa cũng là nền tảng tốt cho kế hoạch mở cõi ạ.”
Khung Vũ nghe vậy bèn ngẩng lên hỏi lại: “Làm sao con thuyết phục được y? Dù sao chúng ta cũng là địch quốc, y lại đang là con tin.”
Khung Dực cười cười, tỏ vẻ vô tội mà gãi gãi trán: “Con hỏi y rồi, y đã đồng ý ạ. Có lẽ… y ở Trích Nguyệt mãi cũng cảm thấy buồn tẻ nên mới nhận lời để có thể đi đây đó cho khuây khỏa chăng? Dù sao thì việc y thích nghiên cứu cách trồng trọt cũng là thật, vậy sao lại không thử?”
Dĩ nhiên Nhị vương tử không thể để lộ ra lòng riêng của mình. Trong ba năm tới, hắn chỉ muốn gần gũi y thêm một chút, chăm sóc y, làm y vui. Bởi vì tương lai… không phải, giữa hai người bọn họ làm gì có tương lai ngoài ba năm ngắn ngủi này kia chứ?
Đều đã định sẵn như vậy rồi.
Khung Vũ im lặng một chút rồi gật đầu: “Được rồi, ta chuẩn tấu. Con nhớ để ý chăm sóc Ngọc Huyên cho tốt, đừng để y có chuyện gì đấy. Nó dù sao cũng là một đứa trẻ thuần lương, ngoan ngoãn.”
Khung Dực mừng thầm trong bụng nhưng ngoài mặt vẫn tỏ vẻ điềm tĩnh, quỳ xuống tạ ơn: “Nhi thần tuân lệnh.”
Sau khi Nhị vương tử lui ra rồi, chỉ còn Hoàng đế và trữ quân tương lai ở lại. Khung Vũ bước ra ban công, nhìn xuống toàn cảnh Vương Đô đang sáng đèn về đêm, đoạn nói nhỏ với Khung Tuấn bên cạnh: “Con để ý một chút, Ngọc Huyên tuyệt đối không thể xảy ra chuyện gì.”
Khung Tuấn khom người: “Nhi thần hiểu rõ.”
Sau này Đại Thương khởi binh, chắc chắn Ngọc Huyên sẽ biết. Đến lúc đó, rất có thể y sẽ tự sát để tránh Đại Thương dùng mạng sống y mà uy hiếp Kinh Lạc trên chiến trường. Nếu Ngọc Huyên chết, Đại Thương sẽ mất đi một ưu thế vô cùng quan trọng.
“Chuyện nam tiến con đã bắt tay vào chưa?” Khung Vũ chợt hỏi.
“Bẩm phụ hoàng, nhi thần đã bắt đầu nghiên cứu về Tam Đại Soái của Kinh Lạc. Các gián điệp chúng ta cài vào bên kia cũng sẽ bắt đầu để ý đến tình hình quân lực và các biến động trong quân đội của Kinh Lạc nhiều hơn. Ngoài ra, tháng sau nhi thần dự định đích thân xuống phương nam gặp mặt phó tướng Quảng Ngân Trình ở Mạc Bắc, tìm hiểu bố trí quân sự của chúng ta tại đó và so sánh với quân đồn trú của họ tại ải Bạch Vân.”
Hoàng đế gật đầu. Sau vài giây trầm mặc, ngài bỗng lên tiếng: “Thật ra Kinh Lạc vốn có Tứ Đại Soái, thế nhưng giờ chỉ còn ba.”
“Ồ, người thứ tư là ai ạ? Đã bỏ mạng sa trường rồi sao?”
“Hahaha, không phải. Kinh Lạc phân chia quân đội theo chức năng, không phải theo địa phận như Đại Thương ta. Tứ Đại Soái ngày xưa có Trần Lượng chủ quản Tượng Binh, Nguyễn Giang chủ quản Thủy Binh, Tống Cơ Long chủ quản Bộ Binh và người cuối cùng chủ quản Kị Binh.”
“Người đó là Chu An.” Khung Tuấn lúc này đã hiểu.
“Đúng vậy.” Hoàng đế gật đầu ra vẻ hài lòng. “Hắn thân là Thái tử nhưng cũng là một chủ soái trong quân đội. Sau khi hắn lên làm vua thì Kị Binh giao cho Tống Cơ Long quản, sáp nhập vào Bộ Binh.”
“Khung Tuấn, Quảng Ngân Trình không thể nào so sánh với lão tướng Lưu Mục. Trong Tam Đại Soái hiện giờ, chỉ có Trần Lượng là tuổi cao sức yếu, còn lại Chu An và Tống Cơ Long đều có thể xông pha chiến trường. Chúng ta sẽ đụng độ trên đất liền nên tạm bỏ Thủy Binh qua một bên, không tính đến Nguyễn Giang. Tuy nhiên nếu thật sự chúng ta phải nam tiến để tìm một con đường sống, thoát khỏi hiểm họa diệt vong thì chắc chắn phải có hai điều kiện nữa để gia tăng phần thắng. Con biết là hai điều kiện gì không?”
Khung Tuấn im lặng một lát rồi nhìn về phía Tuyết Nhạn, đoạn đáp lời: “Bẩm phụ hoàng, là Ngọc Huyên và cánh quân trợ lực của nhị đệ. Danh tướng phía nam chưa hề giao chiến với Nhạn Quân cũng như quân đồn trú dải Chinh Sa, chúng ta sẽ có lợi thế bất ngờ. Nhị đệ cũng chưa từng đụng độ với Tam Đại Soái, bởi vậy ba năm này nhị đệ cũng phải tập làm quen với cách hành binh của phương nam.”
“Khá lắm.” Hoàng đế gật đầu, thế nhưng gương mặt lại đậm nét ưu tư.
Hôm nay có trăng nên bầu trời còn lờ mờ sáng. Xa xa nơi chân trời cuồn cuộn nổi lên một đám mây đen, báo hiệu cơn mưa đầu mùa đến sớm trên Đại Mạc.