My Beloved

Chương 41



Sebastian tìm thấy nàng, không phải trong phòng ngủ nơi người ta thường mong đợi tìm thấy vợ mình, hay trong căn gác nơi nàng thường ở đó hầu hết thời gian, mà là ở sân trong. Chàng dừng bước và quan sát nàng. Nàng đang cúi người trước một cái vạc lớn, khuấy cái gì đó với một cành cây cao gần bằng nàng và sốt sắng giảng giải vài điều cho hai cô gái trẻ đứng trước mặt. Chàng tự hỏi liệu nàng có biết rằng mình đang gây kinh hoàng cho những người phụ nữ ở Langlinais. Nàng là nữ chủ nhân của họ, ngâm nga những điều xa lạ với họ.

Nhận thức được tình yêu của chàng dành cho nàng lớn đến mức nào giống như một cú đấm mạnh vào ngực chàng. Không, đó là một sự lựa chọn từ ngữ nghèo nàn. Cảm giác chàng có với Juliana lớn hơn bất cứ điều gì mà một nhà thơ có thể viết ra.

Ta thuộc về nàng từ đầu đến chân. Vĩnh viễn.

Chàng chưa bao giờ dám nghĩ đến khoảnh khắc này, sải bước qua thung lũng Langlinais trong trạng thái hoàn hảo và không còn bệnh tật. Chàng đã tự mình đi tìm dũng khí, và biết chàng sẽ có thể đủ can đảm để chấp nhận số mệnh của chàng. Nhưng chàng không một lần tin rằng lại có khả năng thay đổi được nó.

Có lẽ, không khôn ngoan khi tra vấn một kì tích. Nhưng chàng vẫn thường làm vậy. Chàng đã tốn cả năm qua để chuẩn bị cho cái chết của chàng, một vài tuần trước lẽ ra đã là thời điểm để chàng lên đường tha hương.

Mọi người hẳn sẽ biến mất ngay khi nhìn thấy chàng, nghe thấy tiếng bước chân của chàng. Những cánh cửa sẽ đóng sập lại, trẻ con bỏ chạy khỏi lối đi của chàng. Vậy mà, chỉ trong một khoảnh khắc, tương lai của chàng đã hoàn toàn thay đổi. Một kì tích. Tuy nhiên, chàng vẫn không ngăn được mình săm soi hai bàn tay, chà lên làn da ngực, phân vân không hiểu sao chàng lại may mắn đến thế.

Tương lai đang rộng mở trước mắt chàng, vẫn để trằng và chưa được tạo ra. Thậm chí còn chưa bao giờ mơ tới một việc như thế này. Có lẽ chàng cảm thấy đượm một nỗi lo sợ khi nhìn vào sự trống rỗng phía trước. Chàng đã sắp đặt quá sốt sắng cho cái chết, giờ thì chàng lại phải sẵn sàng cho sự sống.

Chàng đã cố gắng thực hiện những lời răn theo tinh thần hiệp sĩ—không tham gia vào các âm mưu làm phản, tôn trọng phụ nữ và sẵn lòng giúp đỡ họ hết mình. Cho đến khi chàng bắt đầu mắc bệnh và phải cảnh giác với Giáo hội, chàng đã luôn lắng nghe dân chúng mỗi ngày và chàng vẫn ăn chay vào mỗi thứ sáu. Chàng đã cố xử sự công bằng, để làm những điều đúng đắn trong đời. Nhưng chàng đã phạm lỗi, những hành vi mà chàng phải cầu xin sự xá tội. Những phẩm chất nên có ở một hiệp sĩ như sự khoan dung, lòng trắc ẩn, một tâm hồn tự do, ngay thẳng, và sự nhã nhặn còn khó đạt được hơn. Chàng đã tiếp tế cho người nghèo và sẵn sàng bảo vệ Juliana bằng mạng sống của chàng. Lòng trắc ẩn của chàng được dùng để phục vụ cho những người yếu đuối hơn và không có khả năng bảo vệ bản thân. Nhưng tâm hồn chàng không tự do, và những bí mật chàng nắm giữ ngăn trở bản tính ngay thẳng của chàng.

Chàng không phải là người mẫu mực về tinh thần hiệp sĩ. Chàng biết điều đó quá rõ. Chàng xem thường những việc đã xảy ra với những người theo đạo Cathar, trong khi một hiệp sĩ thực thụ lẽ ra phải ngăn cản những hành động của giáo hội thậm chí dù chỉ trong ý nghĩ. Chàng đã giao một cái chén thánh giả mạo cho quân Templar dù biết rằng nó sẽ được tôn sùng như một thánh tích. Chàng sắn lòng mặc cả thứ chàng biết để bảo vệ những người chàng yêu quý và Langlinais. Và chàng đã mang nguy hiểm về nhà trong lốt một chiếc giỏ rơm. Chàng không xứng đáng là một hiệp sĩ cao quý và thực thụ.

Vậy, tại sao chàng lại được miễn thứ?

Phải chăng vì chàng đã chạm vào những thánh vật? phải chăng chúng có một sức mạnh vượt qua cả sự tồn tại của chúng như bằng chứng của lòng trung thành của chàng? Hay là vì thực tế là chàng đã không mặc áo choàng len, mà là áo giáp?

Có một suy đoán có thể chứng thực, nhưng chàng không thể chịu được ý nghĩ phải mặc áo choàng tu sĩ vào một lần nữa. Hay là nhờ vào thứ thuốc mà sơ Agnes đã trao cho Juliana? Chàng đã thực sự dùng thứ thuốc đó. Có thể nó sở hữu một vài khả năng mà chưa được biết đến? hay, có lẽ, điều khó tin nhất là, liệu có phải tên thầy lang người nhìn thấy chàng lần đầu và phán rằng chàng bị hủi không thực sự có năng lực? có thể là ông ta đã nhầm lẫn chăng?

Sao chàng lại cứ phải tự đoạ đày với những phân vân này nhỉ? Sao không chấp nhận nó mà không thắc mắc gì? một nụ cười lướt qua trên mặt chàng khi chàng nhận ra là mình đã vừa định nghĩa được ý nghĩa đích thực của một kì tích.

Đúng lúc đó, Juliana quay người lại và tươi cười với chàng. Những người học việc của nàng lủi đi ngay khi thấy chàng. Họ e thẹn, và chàng thì quen với việc đem lại sự khiếp sợ hơn là niềm vui thích. Hơn nữa, chàng không có kiên nhẫn cho những thứ ngăn cách chàng với vợ chàng.

Chàng bước lại gần cái ấm đun, dừng lại khi ngửi thấy một mùi lạ. Chàng khịt mũi. “Cái mùi khó chịu đó là gì thế?”

“Đó là nguyên liệu em dùng để làm ra những mảnh giấy da.” Nàng đáp.

“Sao nó lại có mùi ghê thế?”

Nàng mỉm cười. “Anh không muốn biết đâu, Sebastian.”

Chàng nhướng mày lên.

“Đó là nước đấy, Sebastian.”

“Nước ư?” chàng nhòm vào trong vạc, thứ chàng nhận ra từ bộ sưu tập của người thợ rèn. Thứ đựng trong đó có màu vàng nhạt và sủi bọt. trong một thoáng, chàng không nói lên lời. Trông như thể hầu hết mọi người trong lâu đài đã ném những cái bô đi tiểu đêm của họ vào cái vại ấy. Chàng quay lại và nhướng một bên mày lên với cô vợ đang mỉm cười của chàng.

“À, cũng không phải chỉ có nước,” nàng thú thật.

“Sao em lại dùng một thứ như vậy?”

“Nó giúp loại bỏ những sợi lông còn sót lại khỏi tấm da sống, Sebastian ạ.”

“Vậy, chúng ta sẽ phải chịu cái mùi này trong bao nhiêu ngày?”

“Một vài ngày,” nàng thành thật. “nhưng anh sẽ quen với nó thôi mà.”

“Anh á?”

“Sau khi tấm da sống được luộc trong đó. Mùi của nó cũng đỡ hơn nhiều đấy,” nàng cười tươi roi rói. Tóc nàng lệch sang một bên, những lọn tóc ẩm ướt bết vào thái dương nàng.

Mắt nàng sáng rực với lòng nhiệt tình, má nàng đỏ bừng đầy lộng lẫy. Chàng thậm chí không cố che dấu sự say mê của chàng.

“Em có vui lòng dành cho anh một chút thời gian và tạm nghỉ khỏi những cái mùi ghê rợn này không?”

Khi chàng ngắm nhìn, màu đỏ trên má nàng càng sẫm màu hơn. Chàng bật cười, kéo nàng vào trong vòng tay chàng, và hôn nàng cho đến khi cả hai tai nàng cũng đỏ lựng lên.

Chàng không nói thêm gì nữa, chỉ chộp lấy tay nàng và kéo nàng đi theo chàng, gật đầu đáp lại nhưng khuôn mặt tươi cười mà chàng lướt qua. Chàng hoàn toàn biết rõ họ đang nghĩ gì, và chàng đã dự tính sẵn cho cả điều đó rồi, nhưng chàng muốn dành cho nàng một sự ngạc nhiên trước đã.

“Sao em lại phải nhắm mắt lại?” nàng thắc mắc khi chàng dẫn nàng vào trong phòng ngủ đã từng là của nàng. Chàng không trả lời, chỉ đẩy nàng vào giữa phòng.

“Anh biết em đang luyện tập,” chàng dịu dàng, “cho cái ngày khi em sẽ có thể viết lách lại. và khi em làm vậy, em nên có những vật dụng tốt nhất.”

Phòng ngủ cũ của nàng đã được sửa sang lại thành một phòng viết, nhưng không phải bất kì nơi nào một học giả cũng có thể làm việc được. Đây là một căn phòng sáng bừng lên nhờ những tia sáng mặt trời, rọi qua những lăng kính ngự trên trần nhà. Nhưng đó không phải là kì công duy nhất của những người theo đạo Cathar được sao chép lại. Cửa sổ trước đây nhìn xuống khu vườn bếp đã được thay thế bằng một loạt những lỗ hổng cho phép không khí trong lành tràn vào căn phòng. Nhưng nếu những lỗ hổng ở Montvichet được mở ra cố định, thì những lỗ hổng này có những mái hắt nhỏ có thể đóng lại được trong thời tiết giá lạnh.

Tuy nhiên, chiếc bàn làm việc mới là cuộc cách mạng lớn nhất. Thay vì chỉ là một mặt phẳng nhẵn nhụi mà nàng có thể ngồi viết, thứ đồ dùng này được tạo nên từ ba phần, một bộ phận ở trung tâm và hai bên hông có cùng độ cao.

Một cách chậm rãi, nàng bước quanh nó, rồi ngồi trên cái ghế đẩu độn bông và nhìn quanh. Bên phải nàng là nơi để chứa những bột màu mực của nàng. Còn bên trái, một cái giá cho những mảnh giấy da để trống. Mặt chính của bàn chia làm hai phần, một bên cho những mảnh giấy da nàng đang sao chép, bên kia là để những bản gốc, cả hai phẩn đều nghiêng về một phía. Có hai cái lỗ khắc trên đỉnh à trong đó đặt hai cái chén bằng thuỷ tinh, một sẽ đựng hỗn hợp mực nàng trộn trong ngày, cái còn lại để cắm những cây bút lông ngỗng của nàng.

Trên bàn còn có một cái tráp lớn. Nàng nhìn chàng dò hỏi, nhưng chàng chỉ mỉm cuời. Nàng từ từ mở cái nắp ra. Bên trong là một cái khay được chia làm hai phần. Nàng nhấc cái khay ra, và đặt nó sang bên. Phần thân tráp bị choán hết bởi một cái hộp vuông. Chàng không nói gì khi nàng liếc sang, chỉ lắc lắc đầu.

Chàng tựa người vào tường, khoanh tay lại, bị mê hoặc như nàng. Không phải vì món quà, mà vì phản ứng của nàng.

Chiếc hộp được tráng men, các góc của nó thon tròn. Nàng mở cái hộp ra một cách thận trọng. Một mảnh giấy da mỏng nằm trên cùng. một tiếng thở gấp kinh ngạc thoát ra từ nàng. “da của thợ dát vàng,” nàng thì thầm đầy kính sợ. Bên dưới tấm màng cứng mỏng là một trăm chiếc lá bằng vàng gò thành hình.

Nàng ngước nhìn chàng, vẻ mặt nàng là điều mà chàng ao ước giá chàng có thể lưu giữ mãi mãi. Sự kinh ngạc và niềm sung sướng, cả hai chan chứa trong mắt nàng và vẻ mặt sững sờ của nàng. “Làm sao anh biết được. Sebastian? Làm thế nào mà anh lại biết em luôn muốn làm việc với vàng?”

“Bà tu viện trưởng của em đã chuẩn bị nó đấy. Anh đã nhờ bà ấy gửi cho em tất cả những thứ mà một học giả sẽ mơ ước có được.”

“Nhưng em chưa bao giờ làm việc với vàng, Sebastian. Em có thể sẽ làm phí phạm nó mất.”

“Rồi em sẽ học được thôi,” chàng nói, nụ cười của chàng xuất phát từ sâu thẳm bên trong chàng. Nàng trông quá nghiêm túc, quá chân thật. Nếu nàng có lãng phí một vài lá vàng thì có sao đâu chứ? Chàng còn có thể trao cả tính mạng chàng cho nàng.

“Đây là một vụ thu hoạch bội thu, Juliana. Và món tiền chuộc của anh đã hoàn trả hết rồi. Đừng nói với anh em sẽ trở thành một cô vợ ưa cằn nhằn đấy nhé, cứ luôn miệng nói với anh là anh sẽ phải tiêu tiền của mình vào đâu?”

Nàng lắc đầu, mắt nàng mơ màng.

“Em còn chưa xem hết mà,” chàng nói, lời nói phải đi qua tảng đá chặn trong cổ họng chàng để thoát ra.

Nàng nhìn vào trong cái khay. Có năm cái túi da buộc dải rút, mỗi túi chứa một loại bột khác nhau. “Thần sa.” Nàng thì thào khi mở cái túi đầu tiên ra. Nàng ngước nhìn chàng.

“Sebastian, anh có biết chỗ này đáng giá bao nhiêu không? chỉ có bà tu viện trưởng mới được phép sử dụng nó.”

Chàng nhướng mày lên. Nàng mỉm cười và quay lại với cái khay. ” đá da trời và địa y, bột azurit và thư hoàng,” nàng nói, sau khi mở hết tất cả.

“Chúng sẽ cho ta những màu gì?”

“Đá da trời và bột azurit là màu xanh da trời, những sắc xanh da trời đẹp nhất. Và thư hoàng là màu vàng. Thần sa, dĩ nhiên là màu đỏ tươi.”

“Còn địa ý thì sao?”

“Màu đỏ tía,” nàng nói nhỏ. Những ngón tay nàng đùa nghịch trên cái khay, và khi nàng cuối cùng cũng quay qua nhìn chàng, nụ cười của nàng sáng chói.

“Anh có làm em hạnh phúc không?” chàng hỏi, và bước một bước về phía nàng, kéo nàng khỏi ghế và ôm nàng vào lòng.

“Ôi, Sebastian, dù anh không làm gì thì em vẫn thấy hạnh phúc mà.”

“Vậy cứ để anh làm theo ý mình nhé,” chàng nói, áp má nàng vào ngực chàng.

Một ngày thật tươi sáng, không khí trong lành, đã vào mùa thu hoạch và không có bóng quân Templar xuất hiện ở chân trời. Chàng đã đem lại cho vợ chàng niềm vui.

Chàng nhắm mắt lại. Một người đàn ông nên hài lòng với một ngày như thế này. Nhưng vẫn có những cuộn giấy, và một cuốn sách chép tay mà sự hiện diện của nó ngày một rộn ràng hơn như thể một thực thể có sự sống.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.