Đã Mất Nay Lại Tìm Thấy

Chương 32: Thành phố không đèn



Trăng đã lên cao, ánh sáng bàng bạc của nó soi rọi căn phòng nhỏ. Anze tháo giày và yên vị trên chiếc ghế gỗ đặt giữa phòng, lo lắng nhìn về phía Herbert cùng Ludwig và Alfred đương đứng nép bên cửa sổ, rồi lại nuốt khô khi nhìn về phía Koroviev và con mèo đen. “Lạnh quá.” Anze gắng gượng một nụ cười bông đùa, cảm nhận dòng nước buốt giá mà Koroviev vừa đổ ra sàn và để nó chảy xuống chân ông ta. Nhấc chân lên, nhìn chúng sũng nước, Anze hỏi, “Nhưng tại sao phải đổ nước ra thế này?”

“Nước là chất dẫn truyền tốt nhất mà.” Koroviev nhún vai đáp lại, rồi đập vỡ chiếc đèn hồ quang[1] hắn cầm trên tay. Nó là một chiếc đèn sợi đốt kiểu cũ, chẳng thể biết Koroviev đã lôi nó từ đâu ra hay dùng nguồn điện từ chỗ nào, nhưng đầu dây tóc vẫn ánh đỏ lên và tỏa đầy nhiệt lượng. Nhận thấy vẻ bối rối của Anze, hắn tiếp, “Đã bao giờ nghe đến dòng điện chưa?”

“Rồi” là một câu trả lời ngắn gọn.

“Thế thì tôi tin ngài cũng phần nào đoán được chuyện gì sắp xảy ra rồi nhỉ?” Koroviev khẽ cười, bước đến trước mặt Anze. Ông ta miễn cưỡng gật đầu.

“Nước dẫn điện.” Ông ta nói. “Và tôi sẽ bị giật cho đến chết.”

“Về cơ bản là vậy.” Koroviev bĩu môi. Anze bật cười.

“Tôi chưa từng nghĩ ma cà rồng có thể bị điện giật chết.”

“Nói thế nào được, đây là đèn của quỷ mà.”

“Mà làm sao tôi có thể biết được mình đã đến đúng nơi?” Anze hỏi. “Như anh nói, Beghemot chỉ dẫn tôi đến cổng Địa Ngục. Tôi có được gợi ý hay phải lưu tâm điều gì không? Mà nhắc đến Beghemot, con mèo đâu rồi?”

Con mèo đen đã biến mất nhanh chóng và bí ẩn hệt như cách nó xuất hiện. “Nó đang đợi ngài đấy.” Koroviev bình thản trả lời. “Không thể tìm được người bạn đường nào nhanh nhẹn hơn nó đâu. Nó sẽ cho ngài biết mọi thứ cần biết khi ngài gặp nó.”

Anze chậm chạp gật đầu. “Tôi hiểu rồi.”

Koroviev nhoẻn miệng cười rộng hơn và hắn khom lưng xuống. “Giờ thì bắt đầu nhé?” Hắn hỏi, đưa chiếc đèn vỡ xuống gần sàn nhà. Anze nuốt khô trong cổ họng, nhưng vẫn chấp nhận gật đầu.

“Tôi sẵn sàng rồi.”

“À.” Koroviev bất chợt nói thêm. “Lời khuyên duy nhất của tôi thôi – đừng để bị bắt được nhé.”

Dứt lời, hắn lập tức dí thẳng phần sợi đốt của chiếc đèn xuống mặt đất sũng nước, dòng điện ngay tức khắc dẫn truyền đến chân Anze và mọi người trừng mắt kinh hãi chứng kiến ông ta co giật trên ghế. Koroviev chỉ đứng nhìn, lần đầu tiên người ta không còn trông thấy dáng vẻ cợt nhả của hắn và hắn chỉ tập trung quan sát Anze. Không ai biết cái cảm giác khi hồn lìa khỏi xác là như thế nào, ngay cả bản thân Anze cũng không chắc bởi quá nhiều luồng suy nghĩ và mối bận tâm đang chồng chéo lên nhau trong đầu ông ta, dẫu vậy, ông ta thừa nhận cơn đau ban đầu thực sự khôn tả. Tầm nhìn của ông ta đã tối lại trong ít giây và ông ta thấy mình rơi xuống một vực thẳm. Càng gần chạm đáy, hơi nóng càng cháy da, đến khi Anze tiếp đất một cách thần kỳ bằng hai chân mình và mở mắt một cách khó nhọc, ông ta thấy mình lọt thỏm giữa một vùng đất khô cằn khắc nghiệt của máu, lửa và diêm sinh[2].

[2]: Lưu huỳnh.

Anze nhấc chân. Ngay cả mặt đất cũng bỏng rát dưới đôi chân trần và ông ta bắt đầu bước từng bước khó nhọc về phía trước. Chỉ có một đoạn đường lát sỏi để đi, nhưng mặt đất nóng như nham thạch còn không khí lại mịt mù gió lốc, cuốn theo những bụi và cát và những vật chẳng rõ cắt qua da. Anze nhận ra mình không còn khả năng hồi phục khi ông ta vấp ngã, bởi hai bàn chân đã bị đất nóng thiêu cháy đến tận xương. Tầm nhìn lờ mờ của ông ta lúc này xuất hiện một bóng đen nhỏ ở phía trước. “Beghemot!” Anze gọi, nhưng cổ họng ông ta cũng bị biển lửa xung quanh làm cho khô khốc không nói được thành tiếng, và ông ta vội vã đứng dậy để đuổi theo khi con mèo bắt đầu chạy đi. Bước chân khập khiễng của Anze trở nên gấp rút khi từ phía xa vọng lại những tiếng gào và rên rỉ khóc lóc, càng hoảng sợ hối hả hơn khi ông ta cảm nhận được những bàn tay tóm lấy và cào cấu mắt cá chân mình. Dáng dấp của con mèo dần trở nên mập mờ như ảo ảnh ngoài sa mạc, thôi thúc Anze càng phải gắng gượng bước đi mặc dù ông ta sắp chẳng còn mở mắt nổi. “Cố lên, một chút nữa thôi.” Anze tự nói với bản thân mình, dùng chút sức lực ít ỏi hất văng một bóng đen chẳng rõ vừa trèo lên lưng ông ta. Ông ta chẳng có thời gian để suy nghĩ nhiều về nó. Khi con mèo đen hoàn toàn dừng lại, Anze mới dám thở phào, và nó ngước nhìn đầy tự hào lên gương mặt ông ta lúc này đã bê bết máu lẫn vết cắt.

“Chúng ta đến nơi rồi.”

Con mèo tuyên bố, lập tức, mặt đất rung chuyển dữ dội, và rồi trước mặt họ, một cánh cổng lớn bằng đá được chạm khắc trồi lên, luồng khí nóng tan biến đi và Anze thấy mình có thể nói được trở lại. “Tôi cứ lo ngài bị tụt lại phía sau ấy chứ.” Con mèo chép miệng, vuốt ria, xem chừng tự mãn về nhiệm vụ dẫn đường của mình lắm.

Anze chỉ thở hồng hộc, hẵng còn chưa hoàn toàn hồi phục sau chặng đường ban nãy. Mất một lúc lâu sau – mà may mắn thay con mèo lại bất chợt trở nên kiên nhẫn lạ kỳ; ông ta mới đủ sức trả lời, hỏi, “Bây giờ tôi phải làm gì?”

Con mèo chỉ tay lên. “Bước qua cánh cổng này, và ngài sẽ đặt chân đến âm phủ.” Nó vừa nói vừa vuốt ria, bắt chước phong thái đĩnh đạc của bất kỳ ai nó biết mà giả vờ ngẫm nghĩ. “Tuy nhiên, tôi không thể đảm bảo nó sẽ giống với những gì ngài tưởng tượng.”

“Khủng khiếp hơn sao?”

Con mèo liền trở về với bản tính của nó. “Định nghĩa từ “khủng khiếp” với một con quỷ đi xem nào.”

“Tôi xin lỗi.” Anze cúi gằm. “Sẽ giống như chặng đường ban nãy?”

“Còn tùy.” Con mèo nhún vai.

“Làm sao?”

“Địa Ngục sẽ không phơi bày hình dạng thật của nó với những vị khách vãng lai. Đó là ý của messir. Nếu ông ta vui, thì nơi tiếp đón của ông ta thậm chí có thể khá dễ chịu, và dễ chịu ở đây chính là dễ chịu đối với con người. Nhưng ông ta có phải lúc nào cũng vui.” Con mèo lại liến thoắng. “Chúa Quỷ mà, tính khí ông ta cũng ẩm ương lắm! Chỉ thích đè đầu cưỡi cổ bọn tôi là hay!”

“Thế… tôi nên làm gì?”

“Nói gì làm nấy!” Con mèo to tiếng. “Ông ta muốn gì thì cứ vâng theo, tốt nhất là cứ thuận theo ý của Quỷ Vương, ngài sẽ được an toàn. Woland là tên của ông ta, nhưng chớ có gọi, bởi như thế là không có phép tắc. Ông ta sẽ không trả lời nếu như ngài không kết thúc câu bằng chữ “messir”. Ngài không phải quỳ dưới chân Quỷ Vương, vì ông ta ghét sự khúm núm, nhưng cũng chớ nhìn thẳng mặt, và chỉ nên nhìn mắt trái, bởi nếu nhìn vào mắt phải, thì xem như ngài sẽ an phận ở dưới này.”

“Vậy tức là… tôi sẽ phải gặp chính Quỷ Vương sao?” Anze trở nên lo lắng. Con mèo nhướn mày.

“Đây là một vinh dự đấy! Messir đã sắp đặt cả rồi!”

“Nhưng bằng cách nào?”

“Tùy vào Địa Ngục mà ngài đặt chân đến sẽ trông ra sao.” Con mèo gãi tai. “Thường thì… nơi đón tiếp sẽ là điểm bất thường duy nhất ngài có thể phát hiện ra. Một căn nhà tranh giữa đồng cỏ. Một chuyến tàu hỏa không bao giờ chạy. Một cửa hiệu quần áo bên trong một rạp xiếc. Nó có thể là điểm nổi bật tầm thường cho đến sự việc lố bịch nhất. Nhưng dù có ra sao, khi ngài gõ cửa, nếu mở ra là một ma nữ tóc đỏ với cặp mắt xanh, thì ngài đã đến đúng nơi.”

Họ tạm biệt nhau tại đó, Anze cúi đầu chào con mèo và – dù vẫn còn một chút miễn cưỡng – bước qua cổng Địa Ngục.

Nơi ông ta tiến vào hoàn toàn tối đen, nhưng cánh cổng phía sau đã biến mất ngay khi nó khép lại, vì vậy, Anze chỉ có duy nhất một con đường là tiến về phía trước. Ông ta không biết mình đã đi bao lâu trong bóng tối ngập tràn, càng đi, ông ta càng cảm thấy thời gian trở nên mơ hồ hơn – dù rằng bản thân thời gian đã là một ý niệm khó mà giải thích. Đến một lúc dường như vô tận, những hình khối lờ mờ bắt đầu hiện ra, nhòe nhòe trước mắt cho đến khi Anze nhận ra ông ta bước vào một thành phố không có ánh đèn. Mọi thứ tối đen như mực, không có đèn đường, trên trời cũng không có trăng sao. Những tòa nhà chọc trời chỉ ánh lên sắc xanh kỳ lạ ở phần viền của chúng. Không có ai xuất hiện. Không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống. Không có âm thanh nào phát ra, kể cả tiếng gió, khiến Anze tin rằng ông ta cũng nên kiễng chân và bước đi thật nhẹ nhàng.

Sự cô quạnh và bóng đêm bao phủ của thành phố bỏ hoang chẳng mấy chốc khiến Anze muốn phát điên, bởi nó kéo căng mọi giác quan của ông ta và đè nén lồng ngực bằng một cảm giác bất an khó tả. Anze không biết thứ gì đáng sợ hơn – việc ông ta chỉ có một mình ở đây, hay nhỡ như đấy không phải là sự thật. Càng đi, Anze càng mất khái niệm về thời gian, bởi đôi chân của ông – bằng một cách nào đó – lại không còn cảm giác mỏi và chỉ biết tiến về phía trước. Chúng cũng đã lành lặn trở lại từ lúc nào. Sự ngột ngạt bóp nghẹt mỗi lúc một tồi tệ hơn khi những tòa nhà nhỏ dần và nhỏ dần, và rồi Anze nheo mắt nhận thấy bản thân đã đi đến phần rìa thành phố. Những ngôi nhà ở đây thưa thớt hơn, nhưng sự thoáng đãng của nơi này chẳng khiến Anze thoải mái hơn là mấy. Ông ta cố gắng nhìn ra xa. Nhưng dù có nỗ lực thế nào, Anze cũng không thể trông thấy được bên kia thành phố là gì, bởi nó chỉ có một màu đen kịt, ranh giới giữa thành phố không đèn với thế giới bên ngoài cũng chìm trong bóng tối.

Anze không biết mình đã lang thang mất bao lâu, nhưng ông ta chắc chắn mình đã đi đến mọi ngóc ngách nhỏ nhất của thành phố. Cuối cùng, đến khi tâm trí ông ta trở nên kiệt quệ và rơi vào trạng thái của một kẻ cứ chăm chú lắng nghe lẫn thèm muốn bóng dáng của một sinh vật sống, một căn hộ nhỏ ở vùng ngoại ô thành phố leo lét ánh đèn.

– —-

[1]: Trước khi ánh sáng điện trở nên phổ biến vào đầu thế kỷ 20, người ta sử dụng nến, đèn khí đốt, đèn dầu và lửa. Nhà hóa học người Anh Humphry Davy đã phát triển đèn sợi đốt đầu tiên vào năm 1802, sau đó là đèn hồ quang điện vào năm 1806. Đến thập niên 1870, đèn hồ quang của Davy đã được thương mại hóa thành công và được sử dụng để thắp sáng rộng rãi ở những nơi công cộng. Bối cảnh câu chuyện tại thời điểm này – như đã đề cập ở chương 9 – là năm 1873.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.