Chưa bao giờ Herbert – hay Ludwig, hay bất cứ ai – lại nghĩ rằng có ngày mình sẽ thấy sự hiện diện của một con quỷ là một sự cứu cánh. Tuy vậy, họ cũng không khỏi cảm thấy lo âu, bởi ai lại dám đặt lòng tin ở quỷ sứ bao giờ, huống hồ chi Koroviev và Beghemot lại còn là những kẻ luôn thích bày trò nghịch phá, và cái thái độ nhởn nhơ của Koroviev có bao giờ thôi khiến người ta cảm thấy bất an. Song, con mèo đen lần này lại tỏ ra vô cùng nghiêm túc – dù cho nó lúc nào cũng mang điệu bộ hách dịch và trịch thượng – và nó ra lệnh cho mọi người đặt Johannes vào cỗ quan tài. Sau một hồi lưỡng lự, Herbert đánh bạo hỏi:
“Vậy bây giờ, chúng tôi phải làm gì?”
Con mèo đáp lại bằng một giọng oang oang hơi tỏ vẻ phật ý, “Tất nhiên là xuống địa ngục rồi! Chẳng phải ông ta bảo các người tìm ông ta ở dưới đó hay sao?”
“Nhưng cậu nói rằng đó là việc không thể?”
“Nào, nào, nào.” Con mèo chống hông, trừng mắt nhìn lên Herbert đầy vẻ trách cứ. “Tôi là mèo của Quỷ vương đấy! Cậu nghĩ tôi sẽ không có cách sao? Cậu khinh thường tôi đến vậy à?”
“Tôi không có ý đó.” Herbert cúi gằm. Con mèo lại kêu:
“Ấy vậy mà tôi biết trong đầu cậu lại có cái suy nghĩ đó đấy!”
“Tôi xin lỗi.”
Con mèo nhướn mày lên. Koroviev phải cản nó lại và ẵm nó vào lòng, vuốt ve bộ lông vừa dựng ngược của nó. “Anh bạn Beghemot của tôi ơi, không việc gì phải nóng. Cậu chàng này chỉ không biết điều một chút thôi, mà theo như Kinh Thánh, thì không biết đồng nghĩa với không có có tội.”
Lời châm chọc của Koroviev khiến Herbert hơi càu mày, nhưng cậu ta chấp nhận bỏ qua. Con mèo ngoác mồm lên với người bạn của nó, “Khủng khiếp, hôm nay lại nói chuyện Kinh Thánh với tôi nữa cơ!”
Nhưng Koroviev không thèm để ý đến cơn thịnh nộ của nó, mà chuyển sự chú ý qua những người còn lại. Anze cẩn trọng hỏi:
“Vậy tức là… có cách nào để chúng tôi được đặt chân đến thánh địa của quỷ?”
“Bạn tôi ơi, không thiếu gì cách đâu.” Koroviev gật gù, hai mắt híp lại. Hắn cong môi thành một nụ cười, lần này lại nói thật chậm, nhấn mạnh từng câu từng chữ bằng một giọng thoáng lộ ý thách thức, “Nhưng câu hỏi là: các người có thật sự dám đánh cược hay không,” hắn đảo mắt qua mọi người một lượt, đôi nhãn cầu vàng ánh lên dưới lớp kính vỡ tròng khiến người ta bất chợt lạnh gáy, “và ai mới là người đi xuống đấy?”
Sẽ là một sự ngạo mạn đớn hèn nếu nói rằng không ai trong số họ sợ hãi trước ý nghĩ phải đặt chân xuống địa ngục, mà lý do rành rành nhất chính là – chẳng phải lời nguyền bất tử của họ được sinh ra để trốn tránh chốn âm phủ đó hay sao? Mặc dù tất cả mọi người đều lên tiếng tự nguyện, nhưng bất kỳ ai quan sát kỹ cũng đều sẽ thấy rằng Herbert không thể chớp mắt còn Ludwig không ngừng tự cào lấy hai cánh tay, trong khi Alfred gặm nhấm đầu ngón tay mình đến bật máu và Anze thì chết lặng không cử động gì. “Tôi sẽ đi.” Bọn họ lại đồng thanh khẳng định, nhưng Koroviev chỉ thả con mèo đen ra để bước đến gần hơn và hắn khom lưng xuống nhìn Herbert.
“Tôi không nghĩ địa ngục là một nơi dành cho cậu, Herbert von Krolock.” Hắn chép miệng, lắc đầu tiếc nuối. “Chí ít là tại thời điểm này. Messir cũng sẽ không tiếp cậu đâu.”
“Như thế là sao?” Herbert khẩn khoản.
“Linh hồn của cậu sẽ không trụ lại âm phủ được lâu đâu.” Koroviev giải thích, từ từ đứng thẳng người lên. Alfred buột miệng thắc mắc:
“Linh hồn?”
“Có gì khó hiểu sao?” Koroviev nhướn mày. Alfred giật mình liền lí nhí:
“Tôi cứ nghĩ ma cà rồng không còn linh hồn nữa.”
“Và làm sao cậu lại nghĩ như thế, bạn tôi?”
“Chúng tôi không có ảnh phản chiếu, cũng không có cái bóng khi bước đi dưới ánh đèn hoặc ánh trăng. Loài người truyền miệng nhau đấy là vì chúng tôi chỉ còn là những cái xác rỗng.”
Con mèo nghe thế liền nhảy tót lên vai Alfred. “Loài người có lúc nào là thôi đồn thổi những điều xằng bậy!”
“Phải, phải, chỉ toàn những chuyện được thêu dệt nên.” Koroviev bật cười, đi đi lại lại khi hắn nói. “Nếu không còn linh hồn, các người đã giống như ông ta.” Hắn chỉ vào cỗ quan tài của Johannes. Herbert ngập ngừng:
“Ra vậy…”
“Các người mất đi ảnh phản chiếu lẫn cái bóng của mình bởi các người mất đi mối liên kết với thế giới của người sống.” Koroviev giảng giải. “Quỷ hút máu chẳng phải người, cũng chẳng phải quỷ. Vì vậy mà bản thân Cái Chết – hay Tử Thần, nếu cái tên này giúp các người dễ hiểu hơn – không chạm đến linh hồn của các người được, bởi hắn chỉ có thể lấy đi sinh mạng của sinh vật sống. Linh hồn các người chỉ được chào đón ở địa ngục sau khi các người thật sự “chết” đi, tức là, trong trường hợp các người bị đóng cọc vào tim, hoặc mất đầu, hoặc phơi thây dưới ánh nắng.”
“Và điều đó đồng nghĩa với việc ông bạn già của chúng ta chẳng hề chết hẳn, và sẽ sớm được messir trả về thôi.” Con mèo chen ngang. Herbert hỏi:
“Nhưng nếu linh hồn tôi không được đón tiếp ở địa ngục, thì ai mới được phép, bởi vì chúng tôi đều là ma cà rồng?”
Lúc này, Koroviev bỗng dưng lại cười khúc khích. “Tất nhiên không phải cậu. Cũng không phải anh bạn này,” hắn chỉ vào Ludwig, “cậu chàng này thì càng không thể,” hắn chỉ vào Alfred. “Nhưng ngài,” hắn xoay gót, khom lưng và nhe răng cười với Anze, “lại là một chuyện khác.”
“Làm sao?” Anze sửng sốt.
“Hầu tước Anze Afanas,” Koroviev quan sát Anze, như thể hắn đang đọc vị cả một quãng đời đã qua của ông ta mà ngẫm nghĩ, “quỷ hút máu của vùng núi Carpathia. Nhưng không thuần chủng.”
“Sao có thể?” là một câu hỏi hiển nhiên. Koroviev chỉ nhún vai, đáp:
“Con lai giữa một ma nữ thuần và con người. Mẹ của ngài còn là một phù thủy. Điều đó lý giải được vì sao ngài – tuy không có ảnh phản chiếu như mọi ma cà rồng khác – nhưng vẫn có cái bóng khi đứng dưới ánh trăng.” Hắn vừa nói vừa nhìn xuống sàn, và lúc này mọi người mới thật sự để ý rằng nơi mặt trăng rọi vào, là cái bóng duy nhất của Anze, mặc dù nó mập mờ như ảo ảnh và không rõ như những cái bóng của đồ vật. Con mèo nhanh nhảu tiếp lời:
“Cái bóng đó là mối liên kết mờ nhạt còn sót lại của ngài với thế giới của người sống.”
Koroviev nói thêm, “Vì vậy, ngài là người duy nhất ở đây có thể dễ dàng bị trục hồn và nán lại địa ngục lâu nhất, giống như một con người.”
Anze gật đầu hiểu ý. “Được.” Ông ta trầm ngâm, chậm chạp nhìn những người xung quanh cũng đương khốn khổ giống như mình. “Tôi sẽ đi.” Ông nói.
“Ngài chắc chứ?” Koroviev hỏi vặn. Hắn khiến Anze trở nên chần chừ, vẻ sợ sệt hiện rõ nơi đáy mắt, và ông ta ngoái nhìn người đang nằm trong cỗ quan tài. Song, thở một hơi dài nặng nề, Anze cuối cùng cũng quả quyết bằng một giọng nhỏ nhưng chắc nịch:
“Chắc chắn.”
“Tốt thôi.” Koroviev ngâm nga, đảo mắt nhìn con mèo đen, rồi lại nhìn chằm chằm vào người trước mặt. “Beghemot sẽ là người dẫn đường. Nó sẽ đưa ngài đến cổng địa ngục, nhưng tôi e phần còn lại phải do ngài tự xoay sở. Chúng tôi sẽ trông chừng xác cho ngài.”
Nếu như họ có thời gian để mà bàn cãi, có lẽ mọi người đã phản đối quyết định đồng ý của Anze. Ngay cả Ludwig cũng trở nên lo lắng cho người mà gã lúc nào cũng tỵ nạnh. Lúc này, đồng hồ điểm ba giờ sáng. Koroviev đứng thẳng dậy, con mèo Beghemot trèo lên lưng rồi ngồi vắt vẻo trên vai hắn ta. “Bắt đầu thôi.” Hắn nói, nheo mắt nhìn mặt trăng từ lúc nào đã tròn vành vạnh. “Cổng địa ngục đã mở rồi.”