Đã Mất Nay Lại Tìm Thấy

Chương 7: Ludwig von Gehring



Gã thức dậy với bóng tối ngập tràn, nhưng gã biết chắc chắn mình đã tỉnh. Điều đầu tiên gã cảm nhận được là cơn đau bấy lâu nay vẫn đang hành xác mình, rồi sau đó là sự nhận thức rằng gã còn sống và đang bị bịt mắt. Vội vàng, gã đưa hai bàn tay run rẩy lên mặt, toan tháo gỡ tấm vải đang quấn quanh đầu ra, nhưng lập tức bị một giọng nói cản lại:

“Đừng hấp tấp như thế.”

Giật mình, gã theo phản xạ liền rụt tay xuống, cái đầu hốt hoảng xoay từ bên này qua bên kia để tìm xem giọng nói phát ra từ đâu. Hơi thở nghẹn lại trong cổ họng gã khi tiếng bước chân mỗi lúc một đến gần, âm vang rõ rệt hơn khi nó dừng lại bên phía tay phải. “Để ta.” Giọng nói tiếp. “Kéo mạnh như vậy, lại làm rách vết thương bây giờ.”

Gã chưa định thần được mọi chuyện, đành miễn cưỡng gật đầu, rồi ngồi yên ngay ngắn để bàn tay người kia nhẹ nhàng tháo từng lớp vải dính đầy vết máu khô khỏi mặt gã. Cảm giác nóng rát khi vết thương tiếp xúc với không khí khiến gã rít lên, nhưng ít ra, gã không còn thấy bị bí bách. Giọng nói lại tiếp tục, “Có mở mắt được không?”

Lại là một cái gật đầu đáp lời, trước khi gã chậm chạp cố gắng mở hai đôi mí mắt đương như muốn dính chặt vào nhau. Tầm nhìn mờ mờ của gã chỉ có thể bắt được hình ảnh thứ gì đó đang huơ lên trước mặt, mà mất một lúc lâu sau gã mới trông rõ được là bàn tay của một người đàn ông lạ mặt đang ngồi bên cạnh giường. “Không thể nào…” Gã buột miệng thốt lên, rồi ôm lấy mắt trái của mình.

“Đau à?” Người đàn ông kia hỏi. Gã chỉ lắc đầu, nhưng khuôn mặt lại méo xệch và giọng gã vỡ ra như sắp khóc:

“Ngài… ngài xem giúp tôi với.” Gã chỉ tay vào con mắt trái của mình, cuống quýt kêu. “Mắt trái của tôi… nó bị làm sao rồi, phải không? Tôi không có cảm giác gì, cũng không nhìn được gì bằng nó nữa!”

Ánh nhìn thương hại lẫn cái gật đầu từ người kia làm đôi mày rậm của gã chau lại khủng khiếp, và từ kẽ răng nghiến chặt của gã lập tức bật ra vài tiếng chửi thề. “Mù rồi.” Gã tự lẩm bẩm, vò đầu bứt tai với một dáng vẻ thểu não vô cùng. “Mù thật rồi.” Gã chua xót kêu, trước khi sự đau khổ của gã chuyển thành kích động và gã run lên, tiếng thở bắt đầu khò khè và gã nhe nanh gầm gừ như một con chó dại. Cơ thể gã vặn vẹo trên giường, và rồi, không một lời báo trước, cái đầu gã xoay phắt lại, con mắt tốt còn lại đỏ ngầu lên nhìn người kia trừng trừng vài giây, trước khi gã bổ nhào đến như một con thú đói.

Herbert bị đánh động bởi tiếng ầm ĩ phát ra từ buồng ngủ của cha mình, liền vội vàng chạy đến, chỉ để chứng kiến Johannes đang nằm vật lộn dưới sàn với cái gã lạ mặt mà ông ấy đưa về. Gã đàn ông gào lên và cào cấu như bị quỷ nhập, cắn cả vào cánh tay Herbert khi cậu lao đến lôi gã ra. Nhưng trước khi gã kịp tấn công thêm một lần nào nữa, Johannes đã cho gã một đá vào bên mặt, hộc hết máu mồm máu mũi và gã ngã lăn ra, vùng vẫy dưới sàn một lần cuối cùng trước khi bị đánh vào đầu, bất tỉnh.

Lần thứ hai gã tỉnh dậy, trăng đã lên cao, và gã thấy toàn thân đã bị buộc chặt bằng dây thừng. Cựa quậy khó nhọc, gã lăn lộn mấy vòng rồi trườn ngược về phía cuối giường, giật mình khi lại trông thấy người đàn ông kia, và có lẽ ông ấy đã ngồi đấy bên chiếc bàn trà giữa phòng để quan sát gã từ rất lâu rồi. Nét mặt Johannes khó mà đọc được đang biểu hiện cảm xúc gì, và bằng một giọng đủ lạnh lùng, ông ấy cất tiếng:

“Đã tỉnh rồi đấy à?”

Gã chỉ lẳng lặng gật đầu, để cho ông ấy tiếp, “Có biết vì sao lại bị trói không?”

Ký ức chớp nhoáng về việc vừa mới xảy ra ban nãy khiến gã vừa hổ thẹn vừa hoảng hốt, chỉ dám cúi gằm mặt gật đầu thêm lần nữa thay cho câu trả lời. Gã giật mình suýt hét toáng lên khi người kia bỗng chốc đã đứng ngay bên cạnh gã. “Nhóc con,” ông ấy nói, giọng răn đe khiển trách khiến gã lạnh cả sống lưng và co rúm người lại, “được hỏi thì phải thưa chứ. Cậu không hề bị câm mà, phải không?”

“Vâng… vâng ạ.” Gã lập tức lắp bắp, không dám nhìn thẳng người kia. Gã lí nhí, “Xin lỗi.”

“Còn hỗn xược thêm một lần nào nữa,” Johannes tiếp, chỉ tay về phía chiếc đèn lồng đặt trên tủ đầu giường, “thì sẽ được quay trở vào trong đấy, nghe rõ chưa?”

Dù gã không hiểu điều đó có nghĩa là gì, nhưng cái uy của Johannes đủ khiến gã ngoan ngoãn vâng theo, và, “Rõ… rõ rồi ạ”, gã ấp úng.

“Tốt.” Ông ấy ngâm nga, nhanh chóng cởi dây trói cho gã. Ông ra lệnh, “Ra ngồi bên bàn đi. Có vài việc chúng ta cần làm rõ với nhau.”

“Làm… làm rõ? Ngài là thanh tra sao? Hay là thám tử? Nhà chức trách? Tôi không gây ra chuyện gì nghiêm trọng nữa đó chứ?”

“Ở đây ta mới là người hỏi.” Johannes nhắc nhở, lườm xuống một cái sắc lẹm. “Nhanh cái chân lên.”

Lập tức, gã gật đầu tuân lệnh rồi lồm cồm bò dậy, lảo đảo suýt vấp ngã ra sàn trước khi yên vị trên chiếc ghế cạnh bàn trà giữa phòng. Sự rụt rè hiện rõ qua nét mặt lẫn hai bàn tay run rẩy của gã khi Johannes đẩy cho gã một chiếc cốc vại sóng sánh nước.

“Uống hết đi.” Ông nói, hơi ngả người ra sau khi ông ngồi bắt chéo chân đối diện gã. Gã nhìn thứ nước sẫm màu dưới ánh đèn dầu lẫn chút ánh sáng từ ngọn lửa lò sưởi, nhận ra ngay đó là gì bởi cái mùi tanh tưởi thật nồng nhưng vẫn dè chừng hỏi lại:

“Cái gì đây?”

“Máu.” Johannes trả lời gọn lỏn và thản nhiên như thể cuộc trò chuyện này là việc hiển nhiên nhất trần đời. Gã đàn ông nuốt khô trong cổ họng, chẳng biết được máu này được lấy từ đâu, và dường như cũng đoán được rằng gã đang sợ sệt, Johannes tiếp, “Nhìn vào tấm gương bên cạnh đi, rồi cậu sẽ thấy mình không việc gì phải lo lắng.”

Nghe theo lời Johannes, gã xoay đầu nhìn, sững sờ nhưng lại thở phào nhẹ nhõm khi ảnh phản chiếu trong tấm gương treo tường chẳng có lấy một bóng người nào cả[1]. Lúc này, gã mới dám đối mặt lại với Johannes, và trước ánh nhìn thúc giục của ông lẫn với cơn khát cháy cổ và ruột gan cồn cào của mình, gã nhắm mắt nốc cạn chiếc cốc.

“Đã cảm thấy khá hơn chưa?” Johannes hỏi. Gã gật đầu, lấy tay quệt ngang miệng:

“Rồi ạ.”

Tỏ vẻ bằng lòng, Johannes bắt đầu hỏi tiếp, “Cậu có tên không?”

“Ludwig.” Gã đáp gọn. “Họ là von Gehring.” Gã nói thêm khi nhận thấy người kia dường như muốn gã nói nhiều hơn nữa. “Nhưng cứ gọi Ludwig là được rồi. Tôi cũng không còn biết gốc gác của mình từ đâu nữa. Giữ cái họ này cũng chẳng có nghĩa lý gì.”

“Một kẻ lang thang sao?”

“Đại loại vậy.” Gã chậc lưỡi. “Tôi… tôi không có cha mẹ. Chưa bao giờ gặp.”

“Ta rất tiếc.” Johannes trầm ngâm. “Cậu bao nhiêu tuổi rồi?”

“Ba mươi ba.”

“Ta đoán cậu cũng vừa mới biến thành ma cà rồng gần đây, nhỉ?”

“Mới đầu năm nay.” Ludwig thành thật. “Nhưng sao ngài biết?”

“Kinh nghiệm của tuổi già thôi.” Johannes bình thản trả lời. Ludwig tỏ vẻ khá ngạc nhiên vì điều đó.

“Ngài trông không giống một người già cho lắm.”

“Khi bị biến đổi, ta chỉ hơn cậu hai tuổi thôi.” Johannes chép miệng. “Nhưng tồn tại từ năm 1617 đến nay thì cũng không thể nói là trẻ nữa, chí ít thì so với cậu là vậy.”

Ludwig gật đầu. “Tôi hiểu rồi.” Gã nói, khẽ ngước nhìn lên Johannes rồi lại nhìn chằm chằm xuống chiếc cốc rỗng trước mặt mình. “Nhưng như vậy cũng có nghĩa… tôi sẽ mãi mãi giữ nguyên vẻ ngoài lúc ba mươi ba tuổi của mình?”

“Cậu có vẻ cũng sáng dạ nhỉ?” Johannes hỏi, câu hỏi mà thực chất ra lại là một lời khen. “Nhưng ta e là vậy.” Ông tiếp với một tiếng thở dài. “Hiếm có trường hợp nào thay đổi được ngoại hình một cách đáng kể sau khi… cậu cũng biết rồi đấy. Nên ta cũng e rằng không có cách nào cứu vãn được con mắt trái của cậu.”

“Vậy sao…” Ludwig trầm giọng. “Tôi hiểu rồi.” Gã lặp lại, chậm chạp gật đầu, rồi thở ra một hơi dài thườn thượt. “Đành chịu vậy.”

Johannes lại hỏi, “Nhưng tại sao lại ra nông nỗi này?”

“Sao? À… ừ thì…” Ludwig bất chợt lúng túng, lấy tay gãi đầu. “Đó là một câu chuyện dài.” Gã lại nhìn đi hướng khác.

“Không muốn nói?”

“Cũng không hẳn.” Ludwig thành thật. “Chỉ là không biết bắt đầu từ đâu.”

“Vậy à…” Johannes ngâm nga. “Thế có còn nhớ tổ phụ hay tổ mẫu[2] của mình là ai không?”

“Nhớ…” Ludwig ậm ừ, bất chợt một sự chộn rộn khó tả dấy lên trong lòng khiến gã không thể ngồi yên mà rung đùi, mấy ngón tay cứ đan vào nghịch ngợm với nhau. Gã giật thót khi Johannes hắng giọng nhắc nhở:

“Khi trả lời mà cứ nhìn đi chỗ khác là không lịch sự đâu, Ludwig.”

“V-Vâng, vâng ạ.” Gã cuống quýt ngồi thẳng dậy và nhìn lên. Gã đáp, “Vẫn còn nhớ được tổ phụ.”

“Là ai?”

“Không biết…” Ludwig bĩu môi. “Tôi gặp hắn ta vào mùa đông năm ngoái, và có vẻ như hắn cũng chỉ là một kẻ vô danh giống như tôi. Thông tin duy nhất tôi biết được là hắn tên Asmodeus, hành nghề bác sỹ.”

“Thế còn chủng loại?”

“Draculian.”

“Một sự trùng hợp.” Johannes gật gù. “Như vậy sẽ càng dễ dàng hơn trong việc liên lạc. Cậu không có gia đình, nên ta đoán cậu sẽ cần về với tổ phụ, có đúng không nhỉ?”

“Làm ơn đừng!” Ludwig vội vàng vung tay kêu. “Không cần đâu, đừng liên lạc với ai hết. Tôi xin ngài đấy, đừng để hắn biết được. Cứ để mọi người nghĩ rằng tôi đã chết rồi đi.”

“Và vì sao? Trông cậu có vẻ sợ hãi tổ phụ của mình quá. Đã có chuyện gì à?”

“Phải…” Ludwig gật đầu, đưa một bàn tay run rẩy lên chỉ vào con mắt trái của gã. Dưới mấy lọn tóc rũ, con mắt gã trũng sâu và trắng đục, chẳng còn phân biệt được đâu là nhãn cầu, đâu là con ngươi. Gã rụt cổ lại trước cái nhíu mày lẫn tiếng thở dài hiểu ý của Johannes, mấy ngón tay gã lại mân mê sốt ruột. Johannes trả lời, giọng nhỏ lẫn vào tiếng thở:

“Cậu vẫn còn quá nhỏ theo tuổi đời phi nhân loại này để mà không cần người bảo trợ đấy, Ludwig.”

“Tôi biết.” Ludwig cúi gằm, cả người bất chợt rung lên. “Nhưng tôi thà làm một con ma vất vưởng còn hơn là quay về với tổ phụ của mình. Quãng thời gian ở cùng hắn chẳng khác gì địa ngục cả.” Gã kể với giọng bắt đầu mếu máo, phần nào chua chát và có cả hận thù. Rồi thình lình, gã đứng bật dậy, loạng choạng bước vòng qua bàn đến trước mặt Johannes mà quỳ rạp dưới chân ông. Giọng khàn đục của gã trở nên khẩn khoản, “Nên tôi van xin ngài, nếu không thể giúp gì hơn, thì cũng đừng cho hắn biết tôi đang ở đâu. Tôi thật sự còn quá nhiều điều chưa thể làm, tôi chưa muốn chết. Còn nếu như ngài đủ nhân từ rộng lượng, xin ngài hãy cho tôi được đi theo, tôi xin tuân theo mọi mệnh lệnh của ngài, miễn sao tôi không còn phải gặp lại hắn.”

Đoạn, gã ngước lên cầu khẩn nhìn Johannes thêm một cái, rồi lại cúi rạp người xuống sàn để tỏ thành ý của mình. Hiển nhiên việc này có chút khác so với những gì Johannes đã mong đợi, dù ông cũng không rõ là theo chiều hướng tốt hơn hay xấu hơn, nhưng sau một lúc im lặng suy nghĩ, ông cũng bằng lòng. “Được rồi.” Ông nói, rồi ra lệnh cho Ludwig quỳ thẳng dậy mà đối mặt mình. Gã hổn hển:

“Được… được ạ?”

“Huyết đồng[3] nhỏ như cậu mà tự sinh tồn ngoài kia, xem ra cũng là có bản lĩnh.” Johannes trầm giọng gật đầu. “Nên có thêm cậu vào chi tộc của mình, ta thấy không phải ý tồi. Thế này,” ông nói, thầm tỏ vẻ hài lòng khi Ludwig chăm chú lắng nghe như thể đây là cơ hội sống cuối cùng của gã, “ta sẽ dành cho cậu một cái huyệt trong nghĩa trang sau nhà. Ngủ yên ở dưới đó, và nếu như không có chuyện gì cần nhờ đến cậu, mỗi năm ta sẽ cho phép cậu thức dậy một lần để dự nghi lễ nửa đêm vào ngày đông chí[4]. Bởi cậu vẫn còn mối liên kết với tổ phụ của mình, nhưng ta thì không biết hắn là ai, và theo ý cậu lại càng không thể để hắn trông thấy cậu đi lại bên ngoài, nên đấy là cách duy nhất ta có thể làm để vừa bảo trợ cho cậu vừa che mắt hắn.” Ông ấy kết thúc với khóe môi hơi cong lên, muốn bật cười khi sắc mặt Ludwig càng lúc càng trắng bệch. Gã lắp bắp:

“Vậy tức là… tôi sẽ phải ở dưới lòng đất mãi mãi, và sẽ chỉ được trở lên mỗi năm một lần?”

“Sao? Cậu đổi ý rồi à?”

“Không, không phải!” Ludwig cuống quýt xua tay. “Ý tôi không phải như vậy… Chỉ là điều kiện này, nó có hơi…”

“Quá đáng?” Johannes đùa. “Chẳng phải vừa bảo chuyện gì cũng sẽ làm sao?”

“Phải, đúng là tôi đã nói như thế… nhưng mà…” Ludwig vẫn vừa trả lời vừa run. Johannes phì cười:

“Không cần phải hấp tấp. Ta không bắt cậu phải quyết định ngay bây giờ đâu.”

“Thật ạ?”

“Còn nhớ thằng bé tóc vàng ban nãy vào đây không?” Ông ấy bỗng nhiên hỏi một câu như thể chẳng liên quan gì. “Cậu cắn nó tóe máu khi nó cố lôi cậu ra khỏi người ta đấy.”

Nghe đến đó, Ludwig lập tức cúi đầu. “Tôi thành thật xin lỗi!”

“Thế nào? Đã nhớ ra nó chưa?”

“Rồi ạ.”

“Nó sẽ trông chừng cậu thay ta.” Johannes giải thích. “Ở lại đây, không cần phải lo về chi phí, và suy nghĩ thật kỹ về điều kiện ta đưa. Cậu có ba ngày, sau đó, nếu như chấp thuận, thì xin phép nó cho cậu được về cùng. Nếu nó ưng, thì cứ yên tâm rằng ta cũng sẽ sẵn lòng đón nhận cậu, nhưng nếu nó không bằng lòng, hoặc yêu cầu của ta đối với cậu là quá sức, thì cứ xem như khoản phí ba ngày sắp tới là một món quà nhỏ của ta trước khi chia tay, và ta chúc cậu thượng lộ bình an ở nơi này.”

– —-

[1]: Theo truyền thuyết dân gian, ma cà rồng không có ảnh phản chiếu trong gương.

[2]: Tiếng Anh gốc là sire, dùng để chỉ vai trò của một ma cà rồng với nạn nhân của mình, trong trường hợp nạn nhân không chết vì mất máu. Một tổ phụ (nam) hay tổ mẫu (nữ) hoặc thủy tổ (chỉ chung) thường sẽ có trách nhiệm cũng như quyền hạn đối với thế hệ ma cà rồng mình tạo ra giống như cha mẹ đối với con cái ở loài người, tuy nhiên sẽ có những mặt áp chế hơn. Tổ phụ, tổ mẫu và thủy tổ là từ tác giả tham khảo và tự đặt, vì không tìm được bản dịch chính xác cho từ sire theo ngữ cảnh này.

[3]: Tiếng Anh gốc là fledgling, dùng để chỉ vai trò của nạn nhân với ma cà rồng đã biến đổi mình, trong trường hợp nạn nhân không chết vì mất máu. Một huyết đồng (chỉ chung) hay tổ phụ nhi (nam) hoặc tổ mẫu nhi (nữ) có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc với thủy tổ của mình, đánh dấu bằng ấn ký. Huyết đồng, tổ phụ nhi và tổ mẫu nhi là từ tác giả tham khảo và tự đặt, vì không tìm được bản dịch chính xác cho từ fledgling theo ngữ cảnh này.

[4]: Là ngày 21 tháng 12, có đêm dài nhất năm.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.