Đã Mất Nay Lại Tìm Thấy

Chương 6: Ngọn đèn ma trơi



Cuộc sống ở Transylvania không thể nói rằng tốt hơn ở quê nhà, tuy nhiên, Johannes tìm được ở đây sự yên bình mà cách đây mười năm ông không nghĩ mình sẽ cần đến. Tòa lâu đài bằng đá của ông – biệt lập với ngôi làng lưng chừng núi – hiếm khi nào bị ai đến quấy phá, và ngôi làng kia – bây giờ thuộc vòng cai trị của ông – cũng không dám mạo phạm đến làm gì, dẫu vậy Johannes thừa nhận mình vẫn còn giữ được chút gì của lòng hiếu khách. Với quỹ thời gian bây giờ là vô hạn[1], Johannes bắt đầu chủ động kết giao với những kẻ cùng tộc với tuổi đời lớn hơn, và bằng một chút tài ăn nói khéo léo của mình, ông thuyết phục được họ làm hậu thuẫn khi cần thiết.

Như một lẽ dĩ nhiên, rồi cũng phải đến lúc Frieda không thể tiếp tục phục vụ được nữa, và thị qua đời bởi căn bệnh lao phổi khi Herbert đã đến tuổi trưởng thành – tức là, đúng như ý nguyện của thị ta, khi cậu không còn cần đến thị. Hối tiếc duy nhất của Frieda có lẽ là việc thị không thể sống thêm được với Koukol, một đứa bé dị tật với chiếc lưng gù và khuôn mặt méo mó mà thị từng không nỡ bỏ mặc nhìn nó chết cóng bên đường, và kể từ khi thị mất, vị trí coi sóc nhà cửa thuộc về Koukol – bởi như Johannes từng nói, tuy nó trông khổ sở nhưng lại tháo vát lạ thường, và mang trong mình lòng trung thành tuyệt đối. Cũng vì lẽ đó, và có lẽ cũng vì ít tình nghĩa còn sót lại của Johannes với Frieda, Koukol khi về già được Johannes đặc cách kéo dài tuổi thọ mà không phải biến thành quỷ hút máu, thông qua một khế ước chủ tớ giữa hai người.

Về phần Herbert, cậu ta càng lớn càng giống mẹ hơn là giống cha, mắt phượng mày ngài, nếu không vì dáng dấp cao lớn – có lẽ là thứ duy nhất cậu thừa hưởng từ ngoại hình của cha mình – người ngoài đã dễ nhầm tưởng cậu là một thiếu nữ với gương mặt góc cạnh quá sức. Ngay cả tính cách của Herbert ngay từ nhỏ cũng giống hệt mẹ, hiếu kỳ và đòi hỏi – như cách Johannes vẫn thường miêu tả một cách bông đùa – và càng lớn, cậu ta càng sinh thêm tật thích khoa trương, lại còn giữ nguyên cái tính xấu thích nhặng xị mỗi khi không vừa ý khiến Johannes không ít lần đau đầu.

Đã hơn một thế kỷ trôi qua kể từ khi họ chuyển nhà, và Herbert – một cách tự nguyện – cũng đã sống cuộc đời bất tử gần một trăm năm. Năm 1728, lần đầu tiên Johannes và con trai mình quay trở về Berlin, nhưng đấy chẳng qua cũng chỉ là một sự tình cờ bởi vì cả hai có việc. Bản thân Johannes cũng từ chối tìm về nơi ở cũ, viện cớ rằng cảnh quan thay đổi quá nhiều khiến ông không nhớ đường, nhưng Herbert đủ hiểu chuyện để thừa biết nơi đó chỉ gợi lại cho cha mình về những thứ mà ông không muốn nhớ. Vì lẽ đó, cậu ta không ép uổng hay chất vấn gì thêm, và thế là họ cùng trú tạm tại một khách sạn ở gần rìa tây nam thành phố.

“Đã xong việc rồi, con còn không mau dọn hành lý đi?”

Johannes chau mày thắc mắc, nhìn Herbert thản nhiên nằm vắt vẻo trên chiếc ghế bành, hai chân gác lên thành ghế. Herbert ê a, không chịu rời mắt khỏi quyển tạp chí cậu ta đương vùi mặt vào:

“Chúng ta nán lại thêm vài ngày được không?”

“Để làm gì?” Johannes hỏi.

“Con muốn du ngoạn một chút.” Herbert nhún vai.

“Chỉ thế thôi?”

“Chỉ thế thôi ạ.”

Giống như người vợ quá cố của ông, Herbert là người mà Johannes không nỡ từ chối bất kỳ thứ gì.

Đêm đó trời mùa hạ mát mẻ, quang tạnh khi Johannes cầm đèn bước ra ngoài. Tản bộ là một thói quen được hình thành từ khi ông còn trẻ, bởi các bác sỹ ngày trước từng dặn rằng nếu không chịu vận động nhiều, xương khớp của ông sẽ sớm rệu rã, nhưng dù bây giờ Johannes không còn cần phải lo lắng về bệnh tật gì nữa[2], thì thói quen lâu năm khó mà bỏ được. Vả lại, Johannes cảm thấy việc tản bộ quanh những nơi hoang vu như rừng cây giúp ông đỡ nhớ những ngọn núi của mình.

Tình cờ, trong lúc đưa chân cạnh bìa rừng gần rạng sáng, Johannes bắt gặp một ngọn lửa ma trơi[3]. Ngọn lửa nhỏ, không biết xuất hiện từ đâu, lơ lửng lập lòe ven các bụi cây rồi bay đến trước mặt Johannes. “Lửa màu xanh sao…” Johannes lầm bầm, nhìn chằm chằm ngọn lửa cứ vẩn quanh trước mặt. “Vậy tức là…”

“Có ai không…?”

Giọng trầm và khản đặc phát ra từ trong rừng cây, trước khi lảo đảo bước ra một gã đàn ông trong bộ dạng thê thảm quá sức. Dường như gã ta không thấy đường, vì gã phải huơ cả hai tay ra trước mặt, loạng choạng điên cuồng trước khi ngã sụp xuống đất, rồi lại lồm cồm bò đi, miệng há ra thở hổn hển. Gã lê tấm thân bê bết máu lẫn bùn đất của mình đến trước mặt Johannes nay đương đứng nhìn một cách hiếu kỳ, rồi khi hai bàn tay mò mẫm của gã chạm được vào mũi giày ông, gã lập tức víu lấy như thể sinh mạng gã phụ thuộc vào chúng, rồi gã kêu, giọng nói đứt quãng lẫn vào tiếng thở nặng nhọc, “Làm ơn giúp tôi… Tôi chưa muốn chết…”

Nói rồi, gã nằm mọp xuống đất, bất động.

Johannes không nói gì, chỉ nhẹ nhàng rút chân ra, rồi ông quỳ xuống bên cạnh gã đàn ông lạ mặt. Chỉ có thể đoán được rằng vận rủi đã không nương tay với gã ta, và Johannes mím môi trước hai hốc mắt đỏ lòm lở loét của gã. Một chân mày của Johannes nhướn lên khi ông thấy vết cắt trên mặt gã nhanh chóng tự lành.

“Đã có chuyện gì vậy, thưa cha?”

Herbert lo lắng hỏi, vội vàng đỡ giúp cha mình khi ông ấy xuất hiện trước cửa phòng nghỉ với một kẻ lạ mặt vác trên lưng, trên đầu gã trùm một tấm vải tối màu để che đi hai con mắt rướm máu. Rõ ràng Johannes đã lôi gã ta từ tận bìa rừng về, nói dối với nhân viên khách sạn rằng gã là một người quen chẳng may quá chén, và chỉ cần trả thêm một chút tiền, họ sẽ không chất vấn gì thêm. Herbert giúp Johannes đặt gã ta xuống giường, chau mày trước diện mạo nát bươm của gã mà hỏi tiếp, “Mà ai đây?”

“Ta không biết.” Johannes thừa nhận, nhẹ nhàng đặt chiếc đèn lồng lên tủ đầu giường, rồi kéo ghế đến thả người ngồi xuống. Bằng một giọng đủ bình tĩnh, Herbert lại hỏi:

“Hắn chết rồi ạ?”

“Về lý thuyết thì…phải.” Johannes ngập ngừng, nâng cằm gã đàn ông kia lên và xoay chuyển cái đầu gã để quan sát. “Trông nó vẫn còn trẻ, và xét theo màu của ngọn lửa ma trơi,” ông trầm ngâm, khẽ liếc nhìn qua ánh lửa màu xanh lam đang tỏa ra từ trong chiếc đèn lồng – mà Herbert hiểu ngay chính là con ma trơi cha cậu đã bắt được vào đó, “ta đoán nó cũng chỉ mới biến thành ma cà rồng gần đây.” Ông nói thêm như một lời giải thích[4]. Herber nhíu mày.

“Sao cha lại nghĩ nó cũng giống như chúng ta?”

“À…” là một câu đáp gọn, trước khi Johannes lẳng lặng lấy ngón tay kéo miệng gã đàn ông ra, để cho vẻ ngạc nhiên hiện thoáng qua khuôn mặt Herbert khi trong khuôn hàm gã là hai chiếc nanh to bản, dài và nhọn hoắt, một chiếc mọc lệch hơn chiếc còn lại. Ông lắc đầu, nói thêm, “Vì vậy, nó vẫn chưa chết hẳn đâu. Chỉ là tạm thời hồn lìa khỏi xác thôi.”

“Thế thì con đoán mình cũng biết hồn nó đang nằm ở đâu rồi.” Herbert chậc lưỡi, rồi ngồi xuống bên mép giường còn lại, nhìn chòng chọc vào ánh lửa xanh trong chiếc đèn lồng kia. Cậu hỏi, “Cha có định giúp nó không?”

“Có.”

“Sao hôm nay đột nhiên tốt bụng thế?” Cậu ta đùa. Johannes chỉ bình thản đáp:

“Nó chẳng phải con người, cũng giống như chúng ta. Biết đâu sau này có thể nhờ cậy được nó.”

– —-

[1]: Theo truyền thuyết dân gian, nếu không bị giết đúng cách, ma cà rồng bất tử.

[2]: Về cơ bản, ma cà rồng gần giống như người chết, nên bệnh tật của người sống – vốn bị gây ra bởi vi khuẩn hay virus tấn công vào các cơ quan, tế bào sống – không thể tác động.

[3]: Ma trơi – Là những đám lửa sáng lập lòe được nhìn thấy vào ban đêm, ngoài những khu nghĩa trang. Đây là một hiện tượng tự nhiên có thể giải thích bằng kiến thức khoa học, tuy nhiên, ở đây tác giả sẽ khai thác theo chiều hướng tâm linh tín ngưỡng.

[4]: Chi tiết dựa trên văn hóa tín ngưỡng của người xứ Wales. Theo họ, ma trơi do thánh Davis tạo ra để báo trước cái chết của một người nào đó, điều này đồng nghĩa với khi thấy một đốm lửa ma trơi thì gần đó trong tương lai gần sẽ có một người chết. Đốm lửa có màu xanh thì người chết sẽ là một người trẻ tuổi, còn nếu đốm lửa có màu vàng thì người chết sẽ là một người lớn tuổi. Người xứ Wales cũng cho rằng nếu nhìn vào đốm lửa ma trơi sẽ thấy gương mặt của người sắp chết.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.