“Vương triều có nữ tướng quân
Vang danh thiên hạ khai quốc công thần
Mười năm chinh chiến biên cương,
Đánh đông dẹp bắc sa trường máu quây
Nữ trung hào kiệt chốn này
Phong trần vũ bão bầy nhầy huyết tanh.”
Văng vẳng từ xa có tiếng trẻ con nô đùa, chúng không ngừng đọc đi đọc lại một bài thơ quen thuộc, ngó trông tiểu hài tử còn bắt chước giống người trong bài thơ. Một tay cầm lên cây cung bằng tre, dưới chân vờ làm động tác ngựa phi nước đại. Nó khua cây cung nhỏ loạn xạ như đang đánh nhau, nhưng vì chân tay có một mẩu, trông như đang đuổi muỗi chứ chẳng hề giống tư thế đánh giặc của tướng quân. Thấy thế, mấy đứa nhỏ bên cạnh được dịp cười nắc nẻ.
Những hình ảnh thế này không còn gì xa lạ với người dân nơi đây. Bởi vì chỉ cần là ở trong Hoàng thành, thì có thể bắt gặp được những câu thơ đó ở bất cứ nơi nào.
Ai đến đây cũng đều giật mình, thử dò hỏi chuyện xem, bài thơ đó rốt cuộc nói về ai?
* * *
Sử sách lưu truyền:
“Đại Nguyên Đế Đô năm thứ bảy. Hoàng triều suy vong, Tích Lịch Đế băng hà, nhường ngôi lại cho huyết mạch duy nhất của Hoàng thất – Đệ nhất thái tử Phó Chính Văn. Thái tử lúc đó vừa tròn mười sáu, thân cô thế cô danh chính ngôn thuận lên ngôi cửu ngũ chí tôn, lấy danh hiệu Phó Văn Đế. Trong triều thế cục hỗn loạn, bên ngoài giặc Phạn xâm lăng. Phó Văn Đế tuổi trẻ tài cao, mưu lược như thần, mặc kệ bao lời chỉ trích của vương công đại thần, chiếu chỉ ban xuống lập một nữ nhân lên làm tướng quân.”
Thế sự nào có ai ngờ, nữ nhân xưa nay mỏng manh như hoa đào, thế mà bước ra chiến trường loạn lạc, chớp mắt khí thế lập tức thay đổi. Nhã Vân Cung giương cao, đầu rơi máu chảy, tư thế oai hùng cưỡi ngựa tiến lên, một đường tàn sát giặc thù. Tướng quân dùng mười năm xông pha ở biên cương để đổi lấy hòa bình cho muôn dân. Nhờ vậy lưu danh sử sách, thế nhân đời đời ghi nhớ công lao.
Đại Nguyên Đế Đô năm thứ mười bảy, dưới sự cai trị của Phó Văn Đế đã thật sự thoát thai hoán cốt, từ một triều đại suy vong, nay đã vươn lên làm triều đại đứng đầu, thống lĩnh chư hầu các nước còn lại. Phạn Quốc từng âm mưu xâm lược Đại Nguyên, nay đã sớm bị thu phục về dưới trướng Đại Nguyên. Công lao ghi đầu không thể không kể đến Tư Nhã tướng quân.
Người là tướng quân được chính Hoàng thượng sắc phong đặc cách nắm giữ Binh phù. Lời đồn vang xa, nói nữ tướng quân anh dũng thiện chiến, năng lực kinh người đến bậc nam nhi còn phải nể phục. Năm đó, nữ nhân hào khí ngút trời, chỉ dùng một cây cung mà lấy một địch một trăm. Ở biên cương tung hoành ngang dọc hơn mười năm, tin tốt liên tục được truyền về.
Tư Nhã tướng quân thống lĩnh ba quân bức lui Phạn Quốc, thu về được mười tòa thành trì và vô số các loại cống phẩm. Phó Văn Đế ghi nhận chiến công, truy phong danh hào Hộ Quốc Tướng Quân, từ đó người trở thành nữ tướng quân duy nhất của Vương triều.
Người trên lưng gánh trọng trách bảo vệ giang sơn xã tắc, nay việc nước đã hoàn thành. Được Hoàng thượng ban chiếu lệnh, Hộ Quốc Tướng Quân lập tức mang theo toàn quân khải hoàn về lại Đế Đô.
Hôm nay là một ngày vui, trên dưới toàn bộ Hoàng thành sớm truyền tai nhau tin mừng, rằng: Tư Nhã tướng quân sau mười năm chinh chiến cuối cùng cũng đã quay lại.
Đại tướng quân khải hoàn trở về, Hoàng thành phấn khởi hoa đỏ khắp trời, pháo nổ đèn kết giăng đầy khắp con đường ngõ hẻm.
Quân sĩ vào đến trong thành, nhận được vô vàn lời chúc tụng của dân chúng, dường như mọi mệt nhọc bao năm qua đã được đền đáp xứng đáng. Chính là một khắc tam quân dưới trướng Tư Nhã tướng quân mà lưu danh thiên cổ.
Trên dưới toàn thành lòng dân hướng về đoàn quân anh dũng thiện chiến. Người dân từ già trẻ lớn bé, từ người giàu đến người nghèo, thậm chí kẻ ăn xin đầu phố cũng sớm tụ tập ở đây. Trăm dân lúc này đều có chung một suy nghĩ, muốn một lần được chiêm ngưỡng khí thế Đại tướng quân.
Chiến tích người ghi công, có ai mà chưa từng nghe qua danh tiếng của người?
Như là thần long thấy đầu không thấy đuôi, tướng quân mười năm đều ở sa trường chưa một lần xuất hiện. Vậy nên thế nhân cực kỳ tò mò về dung nhan nữ tướng quân thân kinh bách chiến.
Phải đợi đến tận ngày hôm nay.. Mới được nhìn thấy tận mắt.
Hai bên người xếp thành hàng nối dài từ cổng thành đến tận cuối con đường, binh lính khua chiêng gõ trống liên tục, tiếng tù và, tiếng ngựa phi rầm rập vang lên. Người dân lúc đầu còn ồn ào náo nhiệt bàn tán xôn xao, nhưng giờ tất cả đột nhiên im bặt, toàn thành rơi vào một hồi tĩnh lặng.
Tất cả đều hướng ánh mắt dõi theo từng bước chân của đại quân tiến vào, đến thở cũng không ai dám thở mạnh.
Quả nhiên.. Đúng như lời đồn.
Không hổ là một đời danh tướng oai vệ, Đại tướng quân cưỡi ngựa dẫn đầu, bạch mã hùng hổ ngửa cổ lên trời hí dài một tiếng. Nữ nhân khoác giáp sắt chiến bào, bình tĩnh vươn tay ghìm lại cương ngựa, ánh mắt sắc lạnh quét qua một vòng xung quanh.
Trên đường người đứng đông nghẹt đều đồng loạt hít vào một ngụm khí lạnh, mãi sau mới từ trong kinh ngạc mà hồi thần. Lập tức đã có những lời nhỏ giọng bàn tán vang lên, phần lớn là trầm trồ thán phục, nhiều hơn là ngợi ca tướng quân uy vũ.
Chung quy tất cả đều hướng ánh mắt sùng bái về phía nữ tử dẫn đầu đội quân.
Thân hình cao lớn oai phong lẫm liệt, phong thái bá khí ngút trời từ trên cao nhìn xuống. Nắng len lỏi chiếu xuống giáp sắt trên người, tỏa ra ánh sáng bạc như mặt trời ban trưa, chói lóa đến choáng ngợp. Cơn gió thoảng qua làm thổi tung lên áo choàng đỏ, cuốn vào cây thiết cung nặng nề sau lưng. Mái tóc đen dài vấn cao, được cố định bằng một phát quan vàng ròng sáng choang. Vài sợi tóc tinh nghịch khẽ rơi trên gương mặt người. Giáp tay bạc chậm rãi đưa lên vén qua sợi tóc, lộ rõ dung nhan bụi bặm phong trần.
Gương mặt nữ nhân vì rong ruổi sa trường lâu ngày, mà nhiều hơn phần đen nhẻm, mơ hồ trên trán còn có vết sẹo kéo dài, nhưng phải nhìn kỹ mới thấy được. Người mày kiếm mắt sáng, ngũ quan cương trực, tư thế oai hùng. Thần khí bực này quả là khiến lòng người tâm phục khẩu phục, nào có ai dám nghi ngờ năng lực của phận nữ nhi.
Sĩ quân người ngựa nối đuôi nhau kéo dài, nườm nượp tiến thẳng vào thành. Nữ tử dẫn đầu đội quân diện vô biểu tình, chẳng bao giờ thấy nổi một nụ cười trên khóe môi. Thần sắc không giận mà tự uy, bất giác mang lại cho người ta cảm giác ngột ngạt đến hít thở không thông.
Chỉ thấy y nhẹ nhàng phất tay, lập tức ở phía sau có Viên phó tướng cưỡi ngựa chầm chậm tiến lên, ghé gần vào tai y nói nhỏ:
“Tướng quân có gì phân phó?”
Y chầm chậm nâng mắt, giọng nói trầm trầm mang theo vài phần uy nghiêm:
“Có chuyện gì đặc biệt không?”
Viên phó tướng không dám chậm trễ, nhanh chóng đáp lời:
“Bẩm tướng quân, mọi thứ đều ổn cả. Phía bên Hoàng thượng liên tục truyền khẩu dụ đến, hối thúc ngài mau chóng hồi cung phục mệnh.”
Y im lặng không trả lời, chỉ lạnh nhạt khoát tay, viên phó tướng kia cúi đầu hành lễ rồi mau chóng lui về phía sau, nhập vào hàng ngũ đội quân.
Tư Nhã tướng quân ý vị thâm trường đưa mắt nhìn Hoàng cung lộng lẫy ở phía xa, hai tay siết chặt cương ngựa, mạnh mẽ dùng lực lên dây cương, ánh mắt thập phần kiên định phóng ngựa chạy đi.
Mọi người chỉ kịp nhìn thấy một tiếng hí nghiêng trời lệch đất của bạch mã vang lên. Sau đó là một đạo hư ảnh nhanh như gió lao vút về phương hướng Hoàng cung. Để lại sau lưng là toàn dân ngơ ngác và đội quân trơ trọi thiếu mất đại tướng quân.
Giống như là đã quá quen với việc này, viên phó tướng kia nhanh tay lẹ mắt đứng ra chỉ huy tướng sĩ xếp thẳng hàng:
“Tướng quân có lệnh, trước đóng quân ở Hoàng cung.”
“Rõ!”
Thế là giữa đường hình thành khung cảnh toàn quân rầm rộ chạy một mạch, vó ngựa đi đến đâu cát bụi bay mù mịt đến đó. Trên đường cái người ngựa uy thế dũng mãnh tiến lên, cờ đỏ giương cao hướng thẳng về Hoàng cung. Toàn quân sĩ khí tăng cao, trên mặt hứng khởi người sau tiếp bước người đi trước. Ai ai cũng vì khoảnh khắc này mà vui mừng, bọn họ dĩ nhiên đồng lòng chung một suy nghĩ như nhau:
Trở về rồi!
Cuối cùng cũng trở về.
Mười năm lăn lộn ở biên cương, rốt cuộc đã được nhìn thấy cố hương.
Tướng quân từng nói:
“Trên có thiên tử, dưới có nhân dân. Nghĩa là cầm kiếm bước ra chiến trường thì phải giữ được lòng tận trung báo quốc. Chúng ta sống dưới lá cờ Hoàng triều Đại Nguyên, trên mình luôn mang trọng trách bảo vệ đất nước. Cho dù máu chảy đầu rơi quyết không lùi bước, cho dù táng thân sa trường vẫn ngẩng cao đầu.”
Những ngày tháng rong ruổi nơi loạn lạc, nhiều năm trải qua vô số trận chiến, bản thân đã giết bao nhiêu người cũng không nhớ. Giờ cũng chẳng rõ năm đó là năm nào, chỉ nhớ đó là trận phục kích Phạn quân ở bờ bắc sông Lưu Hà. Tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Đại tướng quân dứt khoát lấy trăm ngàn đối đầu hai vạn.
Trận chiến ác liệt tất nhiên đã diễn ra, khung cảnh như địa ngục trần gian, chẳng thể đếm được đã có bao nhiêu huynh đệ ngã xuống.
Tưởng chừng đại quân sắp rơi vào kết cục thua trận bi thảm. Ai ngờ tướng quân mang một thân huyết nhục mơ hồ điên cuồng xông lên. Nhã Vân Cung kéo ra từng mũi tên máu, xé gió lao đến bắn rơi đầu kẻ thù. Một mình tướng quân giương cao ngọn cờ Đại Nguyên, thẳng lưng đứng giữa biển thây chất đầy.
Máu tươi chảy tràn nơi thanh kiếm ghim ở ngực, đến liếc còn chẳng thèm liếc lấy một cái, ngài chỉ lạnh lùng nhìn tất thảy mọi thứ đang xảy ra.
Giống như là ác quỷ Tu La bò ra từ địa ngục máu tanh, tướng quân ngửa cổ lên trời hét lớn, âm thanh cơ hồ vang vọng lên tận chín tầng mây:
“Ta không bao giờ chấp nhận thua cuộc đầu hàng, ta không quan tâm làm cái gì sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp không thể quay đầu! Cái chết đáng sợ sao? Tư Nhã Tịnh sống một đời đầu đội trời chân đạp đất, cho dù chỉ còn một hơi thở cũng phải chiến đấu bảo vệ giang sơn.”