Đương nhiên Chu phu nhân không muốn quan tâm người của chi thứ hai.
Ta cũng không biết bà ấy nghĩ thế nào, bỗng nhiên có một hôm Trương Mật kéo ta đến một nơi bốn bề vắng lặng, nàng khẽ thầm thì: “Tiểu Xuân, ngươi thấy Nhị ca ta thế nào?”
“Nhị công tử tất nhiên là người vô cùng tốt.”
“Ngươi có muốn làm thiếp của huynh ấy không?”
Ta hoảng sợ, ngước mắt nhìn nàng: “Tứ tiểu thư, ngài chớ nói lung tung.”
Trên mặt Trương Mật hiện ra nét cười: “Ta lặng lẽ nói cho mình ngươi biết thôi nhé, mấy hôm trước mẫu thân khen ngươi, nói nhìn qua cả đám nha hoàn trong phủ một vòng cũng không thấy có ai thành thật an phận bằng ngươi. Mẫu thân nói ngươi là người thông minh, cũng tính toán cho ngươi làm thông phòng của Nhị ca, đợi sau này Nhị ca thành thân sẽ nâng ngươi làm thiếp…”
Nụ cười trên mặt Trương Mật rất tự nhiên, giống như đang thật lòng muốn nói với ta rằng, Tiểu Xuân, ngươi quá may mắn.
Nhưng nàng ấy chưa bao giờ nghĩ tới ta sẽ vô thức nhíu mày, nhìn mình rồi mở miệng từ chối: “Tứ tiểu thư, ta không làm thiếp.”
Ý cười đọng lại ở trên mặt nàng ấy, Trương Mật phảng phất như không thể tin vào tai của mình: “Ngươi nói cái gì? Đó chính là Nhị ca của ta đấy!”
Trong lòng ta biết lại nói nhiều lời với nàng cũng vô ích, ta thở dài: “Lúc cha ta còn sống đã định ra cho ta một mối hôn sự rồi. Tứ tiểu thư, bây giờ ta sống dưới sự che chở của Trương gia, nhưng cũng chỉ tạm thời ở đây mà thôi, một ngày nào đó ta sẽ phải rời khỏi.”
Trương Mật trợn mắt nhìn ta, đột nhiên nàng nghĩ tới gì đó, giật mình nói: “À phải rồi, chúng ta quên ngươi có lương tịch, cũng không phải người hầu trong phủ.”
Ngày ấy ở góc sân vắng trong Tây viện, lúc Trương Mật nói chuyện với ta xong định quay người rời đi, lại bất ngờ nhìn thấy Nhị công tử đang đứng ở đình thủy tạ cách đó không xa.
Ta hoảng hốt muốn xác nhận xem hắn có nghe thấy lời chúng ta nói không, nhưng vẻ mặt hắn vẫn nhạt nhẽo như thường, đứng chắp tay sau lưng, chỉ cho chúng ta một ánh mắt cực kỳ bình tĩnh.
Ta không chắc lúc đó hắn có nghe thấy không.
Nhưng thực ra hắn có nghe thấy hay không, đối với ta cũng không quan trọng.
Tâm tư của ta chưa bao giờ dừng lại trên người hắn dù chỉ một giây.
Cho nên lễ hội hoa đăng đêm nay hắn nhìn thấy Tưởng thế tử nhéo má ta, mở miệng nói: “Vốn dĩ ta nghĩ rằng, người khác bọn họ.”
Tuy ta biết hắn hẳn là hiểu lầm gì đó, nhưng ta cũng chẳng muốn giải thích, chỉ nói một câu: “Nhị công tử, mọi người đều giống nhau, không có khác biệt.”
Đường phố treo đầy đèn lồng, muôn vàn kiểu dáng.
Trăng sáng treo trên màn trời, tròn như đĩa ngọc.
Hắn nói: “Ngươi đã nói ngươi sẽ không làm thiếp.”
Khựng lại một chút lại nói tiếp: “Tưởng thế tử nhất định sẽ không cưới ngươi.”
Hắn thả chậm bước chân, ta cũng đi chậm lại theo hắn, yên lặng một hồi mới nói: “Đương nhiên thế tử gia sẽ không cưới ta, Nhị công tử yên tâm, Tiểu Xuân biết thân phận của mình là gì, những thứ ngài muốn nói ta đều hiểu.”
“Vậy đêm nay ngươi ra ngoài làm chi?”
Hắn không nhìn ta, giọng nói cũng nhàn nhạt. Ta im lặng một lúc, nhưng đến cuối vẫn không có ý định nói ra việc giúp Trương Mật gửi thư cho hắn biết.
Nhưng dường như hắn đã đoán được gì đó, hắn cười nhẹ một tiếng nói với ta: “Qua chọn cho Trương Mật một chiếc đèn đi, đỡ phải tay không mà về.”
Đường về nhà có rất nhiều đèn lồng, mấy chủ quan nhỏ gần đó mặt mày rạng rỡ giới thiệu với ta, treo trên cao là đèn đầu tử, đèn hoa lam, sáng nhất là đèn kéo quân, đẹp nhất chính là đèn cung đình và đèn tròn.
Ta tiện tay chọn một chiếc đèn lồng, giấy trên thân đèn có hoa văn chim thần trông rất sống động.
Quay đầu lại mới thấy Trương Vân Hoài đang nhìn ta, ánh mắt của hắn cực kỳ sâu thắm, hắn nói: “Ngươi cũng chọn một chiếc đi.”
Ta cũng thuận tay chọn một chiếc cho mình.
Trên thân đèn có hình chim én, ánh đén chiếu rọi ra hàng chữ trên đó—
[Biết làm sao được, hoa rơi rụng.
Chốn cũ thương nhớ, yến bay về.]*
[*Đây là hai câu thơ trích trong bài thơ Hoán Khê Sa, câu trên mình lấy từ bản dịch của Huỳnh Chương Hưng, câu dưới mình tự dịch.]
Màu trăng sáng rọi hòa với ánh đèn lộng lẫy chiếu vào ánh mắt của Trương Vân Hoài, hắn cười khẽ: “Thẻ số 36 của Thái Thượng Linh Thiêm chính là câu này, là thẻ cực tốt.”
Ta cũng cười: “Nhị công tử, đây là phố phường, không phải ở trong miếu.”
“Tin thì có.”
Hắn nhìn ta, đôi mắt bình tĩnh cực kỳ, con ngươi đen nhánh nhìn ta nói ra ba chữ kia.
Ta và hắn lại tiếp tục đi, không ai nói gì thêm nữa.
Nhìn lại phố dài từ phía xa, ánh trăng đêm ấy vừa lớn lại vừa tròn, lúc sau hắn lại nói thêm một câu: “Lễ hội hoa đăng năm nay có vẻ náo nhiệt hơn mọi năm.”
Ta nhìn theo ánh mắt của hắn, bóng trăng kia vẫn yên ả nằm giữa biển sao, nghe lời hắn nói xong ta vô thức đáp lại: “Ta đã từng thấy nơi còn náo nhiệt hơn.”
Nói xong mới lấy lại tinh thần, bắt gặp ánh nhìn của hắn liền nhanh chóng rũ mắt xuống: “Nhưng trăng rằm đúng là tròn hơn nhiều.”
“Dáng thu một nửa trăng đà chiếm, mây sắc nghìn phương ánh tỏ ngời.* Thực sự tròn đầy.”
[*Trích trong bài thơ Trung thu của Lý Phác, bản dịch của Hải Đà.]
Giọng nói của Nhị công tử vẫn trong trẻo lạnh lùng như trước, nhưng lúc này ngẩng đầu ngắm trăng thì dáng hình cũng nhuốm vài phần mềm mại.
Hắn lại hỏi ta lần nữa: “Tiểu Xuân, ngươi có thích không?”
Ta không nhìn hắn, chỉ cúi đầu tiếp tục đi, nói một câu không liên quan: “Trăng tròn quá cũng không ổn, vẫn là trăng khuyết tốt hơn.”
21
Sau ngày hội hoa đăng, Tưởng Đình có tới phủ Ngự Sử một lần.
Hắn chơi cờ với Trương Ngạn Lễ, Trương Mật biết tin liền cố ý trang điểm, ăn mặc tỉ mỉ tới xem đánh cờ.
Đánh tới ván cuối thì bàn cờ đã trở thành sân nhà của Trương Mật và Trương Ngạn Lễ.
Ánh mắt của tất cả mọi người đều rơi vào bàn cờ đang dang dở, chỉ có Tưởng thế tử cười nhạt ngồi một bên thưởng trà, hồi lâu sau hắn ngồi tựa người ra phía sau, vẫy tay gọi ta đến gần.
Hắn ghé vào tai ta nói nhỏ mấy câu.
Ta cắn môi, cũng ghé sát vào tai hắn nói gì đó.
Vì thế mà Tưởng thế tử tùy ý cười một tiếng, thuận tay vân vê chén trà trên bàn, đôi mắt nheo lại thích thú.
Đêm khuya ba ngày sau đó, hắn leo tưởng vào phủ Ngự Sử.
Tưởng thế tử không thiếu nữ nhân, nhưng chôm hương trộm ngọc vẫn luôn khiến người ta có hứng thú hơn.
Chúng ta ước hẹn gặp nhau lúc nửa đêm tại căn gác khuất nhất Tây viện, bình thường nơi ấy dùng để chất đống mấy thứ lặt vặt, sẽ không có ai đến kiểm tra.
Trong phòng được ta dọn dẹp một hồi nên nhìn qua cũng coi như sạch sẽ.
Trên bàn chỉ đặt một chiếc đèn dầu, ánh sáng rất tối.
Phủ Ngự Sử lớn như vậy, sẽ không có ai để ý đến một góc nhỏ xa xôi thế này.
Tưởng Đình ôm ta vào lòng, ta vòng tay qua eo hắn, ngẩng đầu nhìn đôi mắt hắn, hỏi rằng hắn sẽ lấy ta chứ?
Hắn nhìn ta, khóe môi cong lên, ngón tay mơn trớn bờ môi ta: “Tiểu Xuân, ta sẽ không lừa nàng, mai sau ta có thể nạp nàng làm thiếp, nhưng tuyệt đối không thể cưới nàng làm vợ cả, nếu nàng hối hận thì bây giờ vẫn còn kịp.”
Hắn quá hiểu lòng dạ nữ nhân, làm bộ lui về phía sau muốn rời đi, ta gấp dến nỗi liên tục lắc đầu, càng ôm hắn chặt hơn: “Thế tử gia, ta không hối hận.”
Thế là hắn nở nụ cười, sờ soạng khuôn mặt ta liền muốn hôn xuống.
Ta chặn lại hắn, khẽ thủ thỉ: “Thế tử gia, Tiểu Xuân hơi sợ, ngài uống một với ta một ly đi.”
Trên bàn vừa đặt một vò rượu, ta lấy can đảm uống trước một ly, sau đó Tưởng Đình cũng làm theo, hắn uống một hơi cạn sạch.
Tâm trạng của hắn rất tốt, quăng ly rượu xuống liền kéo ta vào lòng.
Nhưng ngay sau đó hắn không cười được nữa.
Hắn nằm sõng soài trên bàn rồi lại ngã xuống ghế, đến cả sức lực nhất tay chỉ vào ta cũng không có.
“Tiểu, Tiểu Xuân, ngươi muốn làm gì…”
Ta đứng trước mặt hắn, cầm một sợi dây thừng, nhìn hắn rồi bắt đầu thắt nút.
“Ta cũng không muốn, nhưng ai bảo ngươi ăn gạo nhà ta đâu?”
Giờ phút này, ta nghĩ mặt của ta nhất định giống hệt như ác quỷ.
Ta không những chuẩn bị dây thừng, mà còn chuẩn bị một con dao.
Ta đi vòng qua phía sau, thắt chặt cổ của hắn, không hề cho hắn cơ hội nói chuyện, dùng hết sức siết chặt dây, chân đạp vào giữa lưng ghế.
“Ăn gạo nhà ta thì phải trả lại cho ta, nhà các người thăng quan tiến chức, để nhà ta thi hài khắp nơi, trên đời này làm gì có chuyện tốt như vậy?”
Ánh đèn chiếu thẳng vào mặt ta, ta đoán đó nhất định là một khuôn mặt dữ tợn.
Không có gì phải sợ, ta đã sớm không phải là người.
Bắt đầu từ giây phút rời khỏi Trấn Thanh Thạch, ta chính là ác quỷ lang thang nơi trần thế, phát thệ phải bóp chặt cổ bọn họ.
Thủ lĩnh của quân Bọc Kiếm năm đó, lấy Trung Dũng Hầu Tưởng Văn Lộc dẫn đầu, sau lại quy thuận Bình Vương của phủ Yến Sơn, lập công trên đường tranh quyền đoạt vị, sau khi thiên hạ bình định thì được phong hầu bái tước.
Đương nhiên không phải chỉ có một mình hắn thăng quan tiến chức.
Không sao, ta sẽ tìm được từng người một, và giết sạch đám người này.
Hỏi rằng hiện tại đương kim thánh thượng coi trọng Tưỏng Văn Lộc tới cỡ nào ư? Ông ta ban cho hắn phủ Khai Bình.
Đến tột cùng là chiến công lớn cỡ nào mới có thể xứng đôi với một chữ “Bình” cơ chứ.
Loạn thần tặc tử đột nhiên biến thành Vương Hầu khai quốc.
Không có ai cần chịu trách nhiệm, đúng không?
Không sao, Tôn Vân Xuân ta sẽ ra tay.
Tưởng Đình là người thứ sáu ta giết.
Thế tử nhà Trung Dũng Hầu, năm đó vào thời điểm phụ thân hắn đồ sát Trấn Thanh Thạch thì hắn mới mười tám tuổi, hắn ở trong đám người đó, cưỡi trên lưng ngựa uy phong tới cỡ nào!
Bây giờ hắn sợ hãi trợn trừng mắt, miệng mũi không thể hít thở dưới tay ta.
Ngay cả một giọt máu của hắn ta cũng không muốn.
Dao của ta phải dùng để đào lục phủ ngủ tạng của hắn.
Ta muốn lấy lại gạo nhà ta.
Ta không hề sợ hãi.
Không có ai biết hắn đi đâu.
Gã hầu đi cùng biết hành tung của hắn, ngay lúc này đang nấp trong màn đêm, canh giữ bên ngoài phủ Ngự Sử.
Đêm khuya không người, hắn cũng sẽ gặp được quỷ.
Một kẻ câm và một người què.
Bọn họ đều biết diễn kịch, biết giả vờ, sẽ nhân lúc bất ngờ siết sợi dây thừng vào cổ hắn.
Kẻ câm điếc là một tên ăn mày, tên là Cẩu Nhi, ta có ơn với hắn, từng bố thí cho hắn một chén cơm.
Người què tên là Ngụy Đông Hà.
Đúng vậy, là Ngụy Đông Hà lớn lên cùng ta ở Trấn Thanh Thạch.
22
Lần đầu tiên giết người ta còn chưa đầy mười lăm tuổi.
Hôm ấy mặt trời chói chang, ta ra phủ đi mua bánh nướng thịt khô mới ra lò ở cửa hàng xa nhất Thành Tây cho Trương Mật.
Cửa hàng mởi mở, bánh nướng thịt khô vừa hạ mẻ thơm nức, người đợi mua khá đông nên ta phải xếp hàng rất lâu.
Kế bên cửa hàng bánh nướng là một quán trà.
Lúc đang xếp hàng, ta nghe thấy một sai dịch ngồi cách đó không xa đang khoác lác với người khác.
Hắn nói trước đây hắn từng tòng quân.
Hắn từng là binh lính của quân Bọc Kiếm trong khởi nghĩa Giang Tây, theo Trung Dũng Hầu nương tựa đương kim thánh thượng, nhưng đáng tiếc sau đó bị thương nên bây giờ thành sai dịch tầng dưới chót, chỉ có thể canh giữ cửa thành ở ngoài kinh đô.
Hắn mặc quần áo sai dịch hơi cũ, mặt rất đen, là màu đen do quanh năm dầm mưa dãi nắng phơi thành.
Đồng liêu nói hắn khoác lác, hắn vỗ tay xuống bàn, nước miếng bay tán loạn—
“Ngươi còn không tin? Năm đó đội ngũ của chúng ta cực kỳ có năng lực, trên đường vào kinh có đi ngang qua Khai Châu, thổ phỉ cướp bóc tàn sát rất nhiều người trong trấn, vẫn là chúng ta đuổi thổ phỉ đi, đoạt lại lương thực và tiền tài để dùng làm quân nhu…”
Người thắng chung quy có thể tùy ý viết lại lịch sử.
Nếu hiện tại ngươi ở Khai Châu, tùy tiện tóm một đứa trẻ con, hỏi hắn có biết Trấn Thanh Thạch không. Hắn sẽ nói với ngươi, ngươi muốn hỏi Trấn Thanh Thạch bị quân Bọc Kiếm cướp bóc tàn sát sao?
Nhưng ở bên ngoài Khai Châu, tất cả mọi người đều biết chuyện đó là thổ phỉ làm, quân Bọc Kiếm chính là nghĩa quân đánh đuổi thổ phỉ, nghe sai đồn bậy là không tin được.
Chúng ta lớn lên ở đại địa, là một sự tồn tại nhỏ bé như vậy, nhỏ đến nỗi sương mù giăng kín, dù cố gắng hết sức cũng chạy không thoát được.
Chân tướng bị chôn giấu trong sương mù, đợi đến khi mặt trời rực rỡ ngoi lên thì sẽ tan hết theo lớp sương mù ấy.
Quân Bọc Kiếm được Bình Vương của phủ Yến Vương khen ngợi rằng dũng mãnh như thần, Trung Dũng Hầu là chính đương kim thánh thượng thân phong.
Cho nên chúng ta sẽ là điêu dân.
Ta đi theo gã sai dịch nọ từ quán trà đến cửa thành vùng ngoại ô, nhìn bọn họ canh giữ cửa thành, nhìn bách tính vội vã vào ra.
Ngồi bên vệ đường cùng ta là một tên ăn mày nhỏ, trên người hắn chi chít vết thương, vừa bẩn vừa thối, ruồi bọ chui vào thịt thối trong vết thương, gặm ra một lỗ thủng.
Hắn cuộn mình ở chân tường mãi không nhúc nhích.
Ta giơ tay thử hơi thở cửa hắn, sau đó đặt bánh nướng thịt khô vừa mua ở bên cạnh.
Lại sau nữa, khi trời đã tối, sai dịch nọ hô hào đồng liêu đi uống rượu mua vui, uống tới rất khuya mới say khướt mà về nhà.
Ta đi theo hắn suốt chặng đường, sau đó tìm cơ hội đánh ngất hắn, rồi đẩy hắn ngã khỏi cầu.
Hắn chết đuối ở sông Tần Hoài, người bên ngoài biết chuyện sẽ chỉ cho rằng hắn uống say quá nên tự trượt chân ngã xuống.
Lúc ngoảnh đầu lại thì tên ăn mày nhỏ vừa mới ăn bánh nướng thịt khô của ta, đang lặng lẽ nhìn ta ở một góc yên tĩnh.
Người thứ hai ta giết là một gã giáo úy quân đồn trú.
Quan thống lĩnh của Thượng Lâm Uyển trong kinh đô, là một kẻ góa vợ.
Lúc ta giết hắn bằng thuốc độc thì hắn vẫn còn lầm tưởng ta là người bà mối giới thiệu cho hắn để tái giá.
Thời điểm Ngụy Đông Hà đến Kinh đô tìm ta, hắn đã là một người què.
Hắn tới không sớm cũng không muộn.
Ngay lúc ta vừa giết gã giáo úy quân đồn trú kia xong, nắm giữ tình hình trong kinh càng ngày càng nhiều, hắn và Cẩu Nhi trở thành trợ thủ tốt nhất của ta.
Hiện giờ đã bốn năm trôi qua.
Tưởng thế tử mất tích, lại một lần nữa kéo ra mở màn.
Hắn là con trai độc nhất của Trung Dũng Hầu Tưởng Văn Lộc.
Ta biết không có ai sẽ luôn chiến thắng, ta cũng đã chuẩn bị xong việc bị người khác giết ngược lại.
Nhưng trước lúc đó ta nhất định phải lấy được cái đầu của Tưởng Văn Lộc, như vậy mới có thể chết cũng không hối tiếc.